Trong số các tân tòng lần theo bước chân Đức Mẹ La Salette, ta thấy có Raïssa Maritain, một nữ trí thức hàng đầu của Pháp. Danh tiếng của bà, cũng như danh tiếng của người chồng lỗi lạc của bà lả đại triết gia Jacques Maritain, đã vượt quá ranh giới nước Pháp nhiều năm trước khi gót giầy xâm lược Hitler buộc họ phải lưu đầy tại Hiệp Chúng Quốc Mỹ Châu.
Chúng tôi sẽ dựa vào cuốn “Les Grandes Amitiés” [Những Tìn bạn Lớn] của chính bà để phần nào lần giở lại diễn trình từ chủ nghĩa vô thần gia nhập Giáo Hội Công Giáo của bà. Cuốn sách tuyên xưng cuộc chiến thắng thiêng liêng vốn góp phần làm rạng danh Đức Mẹ La Salette.
Tháng hai năm 1906, Raïssa lâm bệnh nặng. Nhắc lại biến cố này, bà viết, “Kể từ ngày vấn đề về Đạo Công Giáo được Bloy đặt ra cho chúng tôi, tám tháng đã trôi qua, và chúng tôi vẫn chưa nghĩ ra bất cứ quyết định nào... Tất cả những gì xảy ra trước cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Bloy - đọc, suy gẫm, các tình bạn mới - ngay lập tức dẫn chúng tôi tới chỗ đồng ý rằng không có sự phản đối nào đối với Công Giáo có tính quyết định cả, và cũng đã cho chúng tôi khát khao cháy bỏng có được hạnh phúc và sự thánh thiện của các thánh”.
Bệnh tật và nước mắt
“Căn bệnh của tôi, kéo dài vài tuần, đối với Jacques đặc biệt là dịp cho các suy tư có tính quyết định và mang lại cho anh tâm tư cho rằng đã đến lúc tỉnh thức sau cơn mơ ngủ. Chính trong những ngày đau khổ đó, anh đã tự quỳ gối xuống, như một người lao mình xuống biển để cứu người khác, và lần đầu tiên anh đã đọc Kinh Lạy Cha. Sự phản kháng của anh đã nhường bước, và anh cảm thấy mình đã sẵn sàng để chấp nhận đạo Công Giáo, nếu cần phải làm như thế.
“Vào ngày 15 tháng 2, Bloy đã viết cho tôi: ‘Raïssa rất thân yêu của tôi: Chúng tôi đang nghĩ rất nhiều về chị ở đây tại nhà, và nghĩ đến chị một cách âu yếm. Sáng nay, trong thánh lễ sớm, tôi đã khóc cho chị, người bạn của tôi. Tôi đã cầu xin Chúa Giêsu và Mẹ Maria nhận lấy bất cứ điều gì có thể có ích trong quá khứ đau khổ của tôi và nhân từ áp dụng nó cho sự phục hồi của chị, qui nó cho chị một cách mạnh mẽ và đầy quyền năng, cho sự bình an của thân xác chị và sự vinh hiển của linh hồn chị. Và những giọt nước mắt ngọt ngào tuôn rơi đến nỗi tôi tin rằng tôi đã được nhận lời... Chị được yêu thương rất nhiều, được trân trọng một cách siêu nhiên. Nghe tôi đi. Chị sẽ khỏi bệnh và sẽ biết được những niềm vui vô bờ bến.
“ ‘Chị sẽ khỏi bệnh…’ Tôi không thích ý tưởng cầu nguyện để được khỏi bệnh cho mình lắm, khi chính tôi đã không cầu nguyện một cách vô vị lợi từ khi còn nhỏ. Bạn thiếu sự đơn sơ khi bạn xa rời Thiên Chúa”.
Việc trở lại đạo và phép rửa của Raïssa
“Một ngày nọ khi bệnh của tôi đang ở giai đoạn nặng nhất và tôi đang phải chịu đựng vô cùng đau đớn, bà Bloy đã đến thăm tôi và ngồi xuống bên giường của tôi. Bà bảo tôi cầu nguyện, và nói rằng bà trao cho tôi một mẫu ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh. Tôi không thể nói được, nhưng tôi cảm thấy vô cùng bực bội đối với điều mà đối với tôi, dường như là một sự thiếu suy nghĩ nghiêm trọng. Vì Jeanne Bloy không nghe thấy câu trả lời nào, nên bà đeo mẫu ảnh vào cổ tôi. Ngay tức khắc, và không thực sự nhận ra mình đang làm gì, tôi đã tự tin kêu cầu Đức Trinh Nữ, và sau đó chìm vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và có sức chữa lành.
“Thời gian dưỡng bệnh của tôi bắt đầu... Vào ngày 5 tháng 4, chúng tôi nói với Léon Bloy mong muốn trở thành người Công Giáo của chúng tôi. Ông ghi ngày tháng trong nhật ký của mình: ‘Phép lạ đã hoàn thành - Jacques và Raïssa muốn được rửa tội! Niềm hân hoan tột độ trong lòng chúng tôi. Một lần nữa những cuốn sách của tôi, nhân dịp phép lạ này, đã được chấp thuận’...
“Ngày 11 tháng 6, cả ba chúng tôi đã tới Nhà thờ Thánh Gioan Thánh sử ở Montmartre. Chúng tôi chịu phép rửa lúc mười một giờ sáng, Léon Bloy là cha đỡ đầu của chúng tôi... Một niềm bình an bao la đổ xuống trên chúng tôi, mang theo với nó các kho tàng Đức tin... Cả ba chúng tôi trở về Paris để Rước lễ lần đầu, diễn ra tại Vương cung thánh đường Sacré-Coeur… ”
Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Raïssa và Jacques trong cuộc tìm kiếm trí thức của họ đã đi đến một kết thúc có hậu khi nguyên lý phép rửa mở ra cho họ viễn cảnh vô tận của Chân lý Tuyệt đối như được tỏ hiện trong Giáo Hội Công Giáo. Qua nguồn cảm hứng của một vị tông đồ vĩ đại của La Salette, họ đã được Đức Mẹ Sầu Bi lôi kéo lên dốc cao của đồi Canvê huyền bí của riêng họ. Chúng ta lựa lọc nhiều ám chỉ đẹp đẽ về sự thu hút mầu nhiệm này của La Salette như được báo cáo đầy đủ trong cuốn sách của Raïssa, "Les Grandes Amitié."
Léon Bloy viết “Celle Qui Pleure (Người Đàn bà Khóc)”
“Celle Qui Pleure (Người Đàn bà Khóc) là tiêu đề của một cuốn sách được Léon Bloy viết về những sự kiện xảy ra tại La Salette, sự kiện Đức Mẹ hiện ra với hai trẻ chăn chiên ở một ngôi làng vùng Dauphine vào ngày 19 tháng 9 năm 1846. Những trẻ em này đã được thị kiến Đức Trinh Nữ Maria, đấng lúc đầu ngồi và khóc, sau đó đứng lên và báo trước những điều bất hạnh thảm khốc. ‘Nếu dân ta không tuân phục, ta buộc phải để cánh tay Con Ta giáng xuống; nó quá nặng và nặng ký đến nỗi ta không thể giữ lại được nữa.’ Sau đó, bà được nâng lên bầu trời và biến mất trong ánh sáng.
“Ông ngoại của Jacques đã được kết nối một cách kỳ lạ với câu chuyện của La Salette và với những tranh cãi rất sôi nổi mà nó đã gây ra. Những người phủ nhận thực tại của cuộc hiện ra cáo buộc một phụ nữ già độc thân trong khu phố đã bày trò nghịcg ngợm với hai trẻ chăn chiên. Nhưng Cô de Lamerlière, tức giận khi người ta cho rằng cô có khả năng bay lên trời – chi mà nhẹ dạ quá vậy! - đã truy tố trước pháp luật những kẻ nói hành cô, và đã yêu cầu Jules Favre [ông ngoại Jacques Maritain) bào chữa cho cô. Tài hùng biện của vị luật sư nổi tiếng đã thắng kiện.
"Gia đình Termiers, có nhà gia đình ở Varces, gần Grenoble, luôn quan tâm đến các biến cố ở La Salette, và bản thân Pierre Termier đã đợi ‘ba mươi năm’ để chờ một ai đó đủ điều kiện viết về chúng.
“ ‘Trong cùng một số năm ấy, Léon Bloy đã viết cho ông ta, ‘Tôi đã chờ đợi nó được trao cho tôi để nói về nó một cách thích đáng. Cuối cùng đã xảy ra việc một ngày kia - Cách đây không lâu lắm - sau khi đọc một vài trang trong những cuốn sách của tôi trong đó tôi đã tìm cách tôn vinh La Salette, đối với ngài dường như tôi là nhà văn mà ngài đã hy vọng. Rồi sau đó, chúng ta tới tìm hiểu nhau và tâm tư của ngài trong vấn đề này, không hề thay đổi, đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
“‘Được sự khích lệ của ngài, thấy nơi ngài một đại sứ của Đức Maria, tôi có thể làm gì khác hơn là vâng lời?’ (Thư gửi Pierre Termier, ngày 5 tháng 10 năm 1906).
“‘Tôi sinh năm 1846, vào lúc Thiên Chúa muốn, bảy mươi ngày trước cuộc hiện ra. Do đó, tôi thuộc về La Salette, một cách khá mầu nhiệm, và ngài đã được chọn để đặt tôi vào vị trí viết những gì phải viết - cuối cùng! Cuốn sách này đang lớn dần lên trong tôi mỗi ngày, và tôi lấy làm lạ rằng, sau bao nhiêu năm thai nghén, cuốn sách này lại được đòi hỏi nơi tôi vào đúng thời điểm lúc những lời đe dọa khủng khiếp nhất của La Salette dường như sắp hoàn thành. 'Tôi nghĩ gì?' Ngài hỏi. Đơn giản lắm. Hạnh phúc và được chúc phúc cho những ai học được cách chịu đau khổ. Giờ tính sổ sắp đến, và còn nhiều điều phải trả giá, vô tận hơn người ta nghĩ... ”(Thư gửi Pierre Termier, ngày 21 tháng 12 năm 1906).
Một chuyến thăm La Salette và một sự hoán cải
"Léon Bloy đã đến La Salette vào năm 1879. Ông viết về điều đó trên cuốn La Femrne Pauvre: 'Tôi đã muốn nhìn thấy ngọn núi vinh hiển mà bàn chân của Nữ vương các tiên tri đã chạm tới, và nơi mà Chúa Thánh Thần đã thốt lên qua đôi môi ngài bài hát đáng sợ nhất mà nhân loại đã nghe kể từ sau kinh Magnificat. Rồi vào một ngày giông bão, tôi đã leo lên vòng xoáy ánh sáng đó, trong một trận mưa như trút nước, và giữa những trận cuồng phong điên dại, trong cơn bão niềm hy vọng của tôi và cơn lốc suy nghĩ của tôi, với đôi tai xâu xé bởi tiếng kêu của dòng nước...
'Tôi đã đến đó theo lời khuyên lâu dài của một linh mục siêu phàm, đã qua đời nhiều năm trước, người từng nói với tôi, 'Khi bạn nghĩ rằng Thiên Chúa đang bỏ rơi bạn, hãy đi tâm sự nỗi oan ức của bạn với Mẹ của Người trên ngọn núi đó.'
'Khi tôi lên đến đỉnh, và thấy Mẹ ngồi trên một viên đá, khóc, úp mặt vào đôi tay, gần con suối nhỏ như thể chảy ra từ đôi mắt Mẹ, tôi theo lan can đi lên và ném mình qùy xuống, nước mắt tuôn rơi và khóc nức nở, cầu nguyện lòng xót thương của đấng vốn được mệnh danh là khẩn cầu toàn năng... Khi tôi lần đầu tiên đến đó, hoàng hôn vừa chợt đến; khi tôi đứng dậy, yếu ớt như một người già trăm tuổi đang an dưỡng; đêm hoàn toàn tối đen, và tôi có cảm tưởng mọi giọt nước mắt của tôi đều lấp lánh trong bầu trời đen kịt.
‘Ôi, các bạn của tôi, ấn tượng đó thật thần linh xiết bao! Xung quanh tôi không có âm thanh của con người. Không một âm thanh mà chỉ là âm thanh của đài phun nước lạ lùng hòa cùng âm nhạc Thiên Đàng được tạo nên bởi những dòng suối chảy róc rách trên núi, và thỉnh thoảng, rất xa, bởi những tiếng chuông trong trẻo của một vài đàn vật. Tôi không biết làm thế nào để diễn đạt điều này với bạn. Tôi giống như một người không có tội lỗi vừa mới chết, hoàn toàn tự do khỏi bất cứ đau khổ nào! Tôi bùng cháy với niềm vui của những kẻ ‘cướp Thiên Đàng’, những người đã được Chúa Giêsu Cứu Thế nói về. Không nghi ngờ gì nữa, một thiên thần nào đó, một seraphim rất kiên nhẫn, đã gỡ khỏi tôi, từng sợi từng sợi, toàn bộ mớ hỗn độn của nỗi tuyệt vọng của tôi, và tôi đang nhẩy mừng trong cơn say Điên thánh thiêng khi tôi đến và gõ cửa đan viện, nơi họ tiếp đón các du khách.'"
Xa hơn một chút, chúng ta được thấy hoạt động tông đồ của Bloy đối với vợ chồng Maritain: “Đến lượt chúng tôi, chúng tôi được biết La Salette thông qua Léon Bloy. Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại La Salette là một trong những sự kiện tôn giáo quan trọng nhất đã diễn ra trong nhiều thế kỷ. Ngay cả Lourdes, nơi được biết đến nhiều hơn, cũng ít phi thường hơn, bất chấp mọi vụ chữa lành lạ lùng của nó. Điều độc đáo về sự kiện La Salette là phẩm chất của các thông điệp được hai trẻ em tiếp nhận và truyền bá... những lời tiên đoán về ngày chung tận được đưa ra ở đó vào năm 1846 đã hoàn toàn được biện minh bởi những diễn biến của thời đại chúng ta.
Niềm tin vào Thông điệp La Salette
“Năm 1907 phán đoán của chúng tôi vẫn chỉ có tính tạm thời; nhưng nhờ sự tin tưởng vào cha đỡ đầu của mình (Léon Bloy), chúng tôi đã có xu hướng tin vào thực tại của các sự kiện được tường trình. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng chúng tôi không bắt buộc phải tin vào chúng và những hiện tượng này của đời sống tôn giáo, giống như mọi điều vốn là 'thị kiến' hay 'mạc khải,' phải chịu một cuộc điều tra nghiêm ngặt nhất, cũng như bất cứ dữ liệu nào trong trật tự lịch sử; và, sau một cuộc điều tra được tiến hành một cách thiện chí, chúng có thể bị bác bỏ mà không phạm bất cứ sai lầm thần học nào. Nhưng chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa vui lòng nâng đỡ Lời của Người bằng các phép lạ và không khôn ngoan cũng không thận trọng khi bác bỏ những điều đó một cách tiên thiên.
“Biến cố La Salette diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt hoành tráng và đẹp đẽ; Đức Trinh nữ trong nước mắt, khi loan báo những đau khổ không thể kể xiết, đã nói với chúng ta, qua những người chăn chiên nhỏ bé Mélanie và Maximin, "kể từ thời điểm ta đau khổ vì các con..."
Chuyến thăm núi Thánh
“Vào ngày 24 tháng 6, chúng tôi lên đường đến La Salette. Chúng tôi đã quyết định đi đường vòng này trong chuyến trở lại Pháp. Chúng tôi đã đi từ Heidelberg đến Bale, từ Bale đến Genève, từ Genève đến Grenoble. Sau đó từ Grenoble đến Corps, một cuộc hành trình phi thường trên những vực thẳm của Drac. Người ta nên đọc mô tả về nó vốn được Bloy trình bầy trong Celle Qui Pleure. Tại Corps, chúng tôi leo lên một loại xe ngựa, một cỗ xe cũ đến nỗi gần như tất cả các bộ phận của nó được giữ với nhau bằng những sợi dây - điều này khiến nó mềm mại hơn là rắn chắc. Nó được kéo bởi hai con ngựa và hai con la. Chúng tôi leo lên con đường dốc, được cho là rất nguy hiểm; nó vẫn còn khó khăn trong những ngày này. Chắc chắn rằng độ hẹp của nó giống như của cổng thiên đàng. Một vách đá bao la bên trái, một vực thẳm ở bên phải. Thời tiết ôn hòa tuyệt vời, không khí trong lành đến lạ thường. Đối với chúng tôi, dường như chúng tôi là những người hành hương đến Thiên đàng Dưới thế, nép mình trên đó rất gần với thiên đàng.
“Cuối cùng chúng tôi đã đến vào ngày 26 lúc bảy giờ tối. Ôi thanh tĩnh làm sao! Ôi thinh lặng biết chừng nào! Đây là ba bức tượng đồng được đặt nơi các trẻ em đã nhìn thấy Đức Mẹ đang ngồi và khóc, sau đó đứng nói chuyện với chúng, rồi được đưa lên trời.
“Trong cuộc tĩnh tâm cao qúi này, chúng tôi chuẩn bị tinh thần để lãnh nhận Bí tích Thêm sức, sẽ được ban cho chúng tôi tại Grenoble. Mọi sự đã được sắp xếp giữa Léon Bloy và Pierre Termier, người sẽ ở cùng chúng tôi vào ngày hôm đó. Khi rời La Salette, chúng tôi đã sống vài ngày với gia đình Termiers tại Varces. Ngày 6 tháng 7, chúng tôi đã được thêm sức, và vào ngày 8 chúng tôi quay trở lại Paris.
"Từ La Salette, Jacques đã gửi cho Ernest Psichari, khi đó đang ở Châu Phi, một tấm bưu thiệp có hình Đức Trinh Nữ Đang Khóc. ‘Chúng tôi đã cầu nguyện cho bạn trên những đỉnh cao của Núi Thánh...’ Psichari trích dẫn tấm thiệp này sau đó trong Le Voyage du Centurion, viết thêm, 'Lần đầu tiên Maxence (đây là tên anh tự đặt cho mình trong cuốn sách này để tránh sử dụng ngôi thứ nhất) tri nhận một hơi thở dịu dàng đến với anh từ Gaul xa xôi. Anh không có bất cứ niềm tin nào vào việc cầu nguyện, nhưng dường như đối với anh người cầu nguyện cho anh này yêu anh hơn những người khác - chỉ mình người này yêu anh.”
Nguồn https://www.lasalette.org/about-la-salette/reconciliation/spirituality-and-charism/1900-in-the-footsteps-of-our-lady-raissa-maritain.html