Thử nghiệm M v The Queen - chi thứ hai
1030 Như đã chỉ ra trước đây, bằng chứng của người khiếu nại trong phiên tòa đầu tiên được đưa ra từ một địa điểm ở xa [254]. Điều này phù hợp với thực hành hiện được áp dụng tại Tiểu Bang này trong hầu hết các phiên tòa liên quan đến xâm phạm tình dục. Bằng chứng cũng đã được ghi âm, và do đó có thể được sử dụng trong phiên tòa thứ hai. Do đó, tránh được sự cần thiết phải đối chất người khiếu nại lần thứ hai.
1031 Cũng đã được chỉ ra [255], cả hai phiên tòa đều được quay video hoàn toàn. Điều này có nghĩa là một số nhân chứng đưa ra bằng chứng tại phiên tòa đầu tiên không bắt buộc phải cung cấp lại bằng chứng nữa. Bồi thẩm đoàn chỉ đơn giản được cho xem các bản ghi bằng chứng ban đầu của họ [256].
1032 Sự kiện phiên tòa thứ hai được ghi lại đầy đủ có nghĩa là Tòa án này đã có sẵn cho nó một bản ghi bằng hình ảnh hoàn chỉnh về bằng chứng được đưa ra bởi mọi nhân chứng, trong cả hai phiên tòa.
1033 Các thành viên của Tòa án này đã xem các bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được mỗi bên đề cử là có ý nghĩa đặc thù. Ngoài ra, tất nhiên, chúng tôi đã có sẵn cho chúng tôi toàn bộ bản ghi chép (transcript) của phiên tòa thứ hai, cũng như các phần có liên quan của bản ghi chép phiên tòa đầu tiên.
1034 Như tôi đã nói trong một số dịp, Tòa án Tối cao trong vụ M quy định rằng một tòa phúc thẩm trung gian, khi xử lý một cơ sở kháng cáo cho rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ bằng bằng chứng, phải thực hiện một 'cuộc đánh giá độc lập' về toàn bộ bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Mỗi thành viên của Tòa án phải xem xét liệu ông ta hoặc bà ta có nuôi dưỡng hay không ‘một nghi ngờ’ đối với tội lỗi của bị cáo. Nếu câu hỏi đó được trả lời một cách khẳng định, thì Tòa án phải chuyển sang giai đoạn thứ hai của thử nghiệm M.
1035 Tòa án tối cao trong vụ M đã xác lập rằng, thông thường, một nghi ngờ được nuôi dưỡng bởi tòa phúc thẩm cũng sẽ là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải nuôi dưỡng. Việc phải như vậy, trừ khi các thành viên của tòa án đó cho rằng, vì lý do bồi thẩm đoàn đã được nhìn và nghe các nhân chứng đưa ra bằng chứng, lợi thế của họ so với tòa phúc thẩm nên được coi là làm giảm bất cứ sự nghi ngờ nào như vậy.
1036 Như tôi đã nói, mỗi thành viên của Tòa án này đã có cơ hội được thấy và nghe tất cả các nhân chứng đưa ra bằng chứng. Có sự kiện này là việc này chỉ là nhờ cách ghi lại, và rõ ràng có sự khác biệt giữa việc có mặt tại tòa và được thấy nhân chứng trực tiếp, và việc chỉ được xem nhân chứng đó đưa ra bằng chứng trên màn hình tivi hoặc máy tính. Tuy nhiên, đối với người khiếu nại, các thành viên của Tòa án này đã thấy chính xác những gì bồi thẩm đoàn trong phiên tòa thứ hai đã thấy. Rõ ràng, những bồi thẩm viên đó không có lợi thế hơn Tòa án này, ít nhất về mặt đó.
1037 Tất nhiên, liệu một tòa án phúc thẩm trung gian có nên xem bản ghi âm, ít nhất một phần, các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa, là một câu hỏi được phát hiện ở một mức độ nào đó, bởi Tòa án Tối cao trong vụ SKA, mà trước đây, tôi đã đề cập đến nhân vấn đề áp dụng thử nghiệm M.
1038 Trong vụ SKA, một câu hỏi đặt ra là liệu Tòa Phúc thẩm Hình sự New South Wales có sai sót khi không xem các bằng chứng được ghi lại của người khiếu nại hay không. Bằng chứng của cô ta tại phiên tòa đã được đưa ra, một phần, bằng một cuộc phỏng vấn được ghi lại và, một phần, bằng chứng từ viva voce (lời nói trực tiếp, lời dịch của người chuyển ngữ).
1039 Người kháng cáo, và một số nhân chứng bào chữa chủ yếu không bị thách thức, đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm cho mỗi một trong ba ngày trong đó, việc bị cáo buộc là vi phạm có thể xảy ra. Như đã thảo luận trước đây, người kháng cáo đã thách thức các bản án của mình trên cơ sở các lời kết án (verdicts) không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ, liên quan đến bằng chứng.
1040 Quan trọng đối với các mục đích hiện tại, Tòa án Tối cao cho rằng các thành viên của Tòa phúc thẩm hình sự đã không sai lầm khi từ chối xem cho mình đoạn video ghi lại cuộc phỏng vấn của người khiếu nại. Người kháng cáo đã không xác định được bất cứ mục đích pháp y nào có thể hữu ích bằng cách xem bản ghi âm đó [257].
1041 Đa số trong vụ SKA tuyên bố rằng thông thường, trình thuật được đưa ra, và ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhân chứng, có sẵn cho tòa phúc thẩm trung gian từ bản ghi chép, sẽ đủ để cho phép việc duyệt xét đúng mức các bằng chứng tại phiên tòa. Người ta dự ước rằng nếu có bất cứ điều gì có thể được phân định chỉ bằng cách nhìn, hoặc bằng cách nghe, có thể ảnh hưởng đến cách xem của bằng chứng của Tòa án, thì nó phải được nhận diện. Để một tòa án buộc phải đi xa hơn, và xem một bản ghi bằng chứng thực tế, một điều gì đó trong các hoàn cảnh của vụ án sẽ bắt buộc phải tiếp nhận diễn trình đó.
1042 Một cách có liên quan, đa số trong vụ SKA bày tỏ mối lo ngại đối với tiềm năng có sự tập chú không thích đáng vào một khía cạnh của toàn bộ bằng chứng, nếu chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại mà thôi. Điều đó cũng có thể tạo ra một thất bại, về phía Tòa án, trong việc xem xét toàn bộ bằng chứng, vốn là nhiệm vụ cần phải được thi hành.
1043 Trở lại trường hợp hiện tại, người khiếu nại đưa ra bằng chứng của mình trong hơn hai ngày. Ông đã được đối chất khá dài, và mạnh mẽ, như được dự kiến. Ông Richter thách thức cả sự khả tín lẫn sự đáng dựa vào trong trình thuật của ông.
1044 Khi các bên được thông báo bằng văn bản về ý muốn của Tòa án này được xem bản ghi âm bằng chứng của người khiếu nại, cũng như bản ghi âm của một số nhân chứng chủ yếu khác, đương đơn thoạt đầu đã phản đối việc này. Ông đệ trình rằng nếu các thành viên của Tòa án này đuợc lưu ý tự mình xem người khiếu nại đã hành xử ra sao khi đưa ra bằng chứng tại phiên tòa, họ cũng nên xem bằng chứng được ghi lại của một số nhân chứng khác. Tên của những nhân chứng được coi là có liên quan đặc biệt, về phương diện này, đã được nêu ra một cách chuyên biệt.
1045 Theo yêu cầu của đương đơn, các thành viên của Tòa án này, trước khi nghe miệng đơn này, đã xem các bằng chứng được ghi lại không những của người khiếu nại, mà còn của một số nhân chứng khác. Trong trường hợp của tôi, tôi đã xem các bản ghi bằng chứng được đưa ra bởi Portelli, Potter, McGlone, Connor, Finnigan, Cox, Mallinson, Rodney Dearing, David Dearing, Parissi và Bonomy. Diễn trình đó mất một số ngày, nhưng cuối cùng, đã được chứng minh là có giá trị đáng kể.
1046 Tôi nên nói rằng trước khi xem bản ghi âm của những nhân chứng này, tôi đã đọc toàn bộ bản ghi chép của phiên tòa, cũng như một số lượng đáng kể các tài liệu khác. Điều đó bao gồm bản ghi chép của hồ sơ phỏng vấn đương đơn, cũng như các tuyên bố thống nhất về sự kiện.
1047 Các bản ghi âm đều nhất loạt có chất lượng cao. Tương đối khá đơn giản để theo dõi các bằng chứng được đưa ra bởi mỗi nhân chứng, trong khi đồng chỉnh (align) những gì thực sự nói ra với những gì xuất hiện trong bản ghi chép. Trong chừng mực thái độ ứng xử là một nhân tố có liên quan cần phải tính đến khi đánh giá các vấn đề về độ đáng tin và đáng dựa vào, các bản ghi âm, đối với tôi, dường như cung cấp một cơ sở vững chắc để từ đó hình thành một quan điểm về những vấn đề đó.
1048 Tôi chấp nhận rằng bồi thẩm đoàn trong trường hợp hiện tại có một số lợi thế so với các thành viên của Tòa án này trong việc đánh giá tầm quan trọng của các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Vì một là, họ đã có mặt trong phòng xử án trong suốt thời gian toàn bộ bằng chứng đó. Họ quan sát nó như nó được đưa ra cách tuần tự. Họ đã nhìn thấy nhiều người, mặc dù không phải tất cả, trong số các nhân chứng, trong khi tôi không thấy gì ngoài những bản ghi bằng chứng của họ. Do đó, bồi thẩm đoàn đã được chìm đắm trong ‘bầu không khí của phiên tòa’, một cách mà không một thành viên nào của tòa phúc thẩm có thể hy vọng tái tạo được.
1049 Hơn nữa, các bồi thẩm viên còn có thể nhìn và nghe các diễn từ mở màn và kết thúc của luật sư công tố, trong khi các thành viên của Tòa án này chỉ có thể đọc những gì họ nói. Các bồi thẩm viên cũng có thể nhìn và nghe thẩm phán xét xử đưa ra điều rõ ràng là một nhiệm vụ thấu suốt và có cấu trúc rất tốt. Một lần nữa, các thành viên của Tòa án này chỉ có thể dựa vào bản ghi chép những gì Quan tòa nói.
1050 Có lẽ quan trọng nhất, các thành viên của bồi thẩm đoàn đã có lợi điểm nghe các quan điểm của nhau trong các cuộc thảo luận của họ. Họ có thể đem đến kinh nghiệm sống và lương tri của họ, để chịu đựng, để thực hiện nhiệm vụ trước mắt họ. Sự kiện bồi thẩm đoàn đạt tới phán quyết nhất trí về tội lỗi, trong phiên tòa này, nhất định không phải là một điều để xem nhẹ. Nó xác lập mức độ cản trở cao mà đương đơn phải vượt qua để thành công trên cơ sở kháng cáo này. Tuy nhiên, tôi coi lợi thế mà bồi thẩm đoàn được nhìn và nghe bằng chứng được đưa ra trong phiên tòa này là có phần kém hơn so với các vụ án thông thường.
Kỳ tới: Kết luận về Cơ sở 1
1030 Như đã chỉ ra trước đây, bằng chứng của người khiếu nại trong phiên tòa đầu tiên được đưa ra từ một địa điểm ở xa [254]. Điều này phù hợp với thực hành hiện được áp dụng tại Tiểu Bang này trong hầu hết các phiên tòa liên quan đến xâm phạm tình dục. Bằng chứng cũng đã được ghi âm, và do đó có thể được sử dụng trong phiên tòa thứ hai. Do đó, tránh được sự cần thiết phải đối chất người khiếu nại lần thứ hai.
1031 Cũng đã được chỉ ra [255], cả hai phiên tòa đều được quay video hoàn toàn. Điều này có nghĩa là một số nhân chứng đưa ra bằng chứng tại phiên tòa đầu tiên không bắt buộc phải cung cấp lại bằng chứng nữa. Bồi thẩm đoàn chỉ đơn giản được cho xem các bản ghi bằng chứng ban đầu của họ [256].
1032 Sự kiện phiên tòa thứ hai được ghi lại đầy đủ có nghĩa là Tòa án này đã có sẵn cho nó một bản ghi bằng hình ảnh hoàn chỉnh về bằng chứng được đưa ra bởi mọi nhân chứng, trong cả hai phiên tòa.
1033 Các thành viên của Tòa án này đã xem các bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được mỗi bên đề cử là có ý nghĩa đặc thù. Ngoài ra, tất nhiên, chúng tôi đã có sẵn cho chúng tôi toàn bộ bản ghi chép (transcript) của phiên tòa thứ hai, cũng như các phần có liên quan của bản ghi chép phiên tòa đầu tiên.
1034 Như tôi đã nói trong một số dịp, Tòa án Tối cao trong vụ M quy định rằng một tòa phúc thẩm trung gian, khi xử lý một cơ sở kháng cáo cho rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ bằng bằng chứng, phải thực hiện một 'cuộc đánh giá độc lập' về toàn bộ bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Mỗi thành viên của Tòa án phải xem xét liệu ông ta hoặc bà ta có nuôi dưỡng hay không ‘một nghi ngờ’ đối với tội lỗi của bị cáo. Nếu câu hỏi đó được trả lời một cách khẳng định, thì Tòa án phải chuyển sang giai đoạn thứ hai của thử nghiệm M.
1035 Tòa án tối cao trong vụ M đã xác lập rằng, thông thường, một nghi ngờ được nuôi dưỡng bởi tòa phúc thẩm cũng sẽ là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải nuôi dưỡng. Việc phải như vậy, trừ khi các thành viên của tòa án đó cho rằng, vì lý do bồi thẩm đoàn đã được nhìn và nghe các nhân chứng đưa ra bằng chứng, lợi thế của họ so với tòa phúc thẩm nên được coi là làm giảm bất cứ sự nghi ngờ nào như vậy.
1036 Như tôi đã nói, mỗi thành viên của Tòa án này đã có cơ hội được thấy và nghe tất cả các nhân chứng đưa ra bằng chứng. Có sự kiện này là việc này chỉ là nhờ cách ghi lại, và rõ ràng có sự khác biệt giữa việc có mặt tại tòa và được thấy nhân chứng trực tiếp, và việc chỉ được xem nhân chứng đó đưa ra bằng chứng trên màn hình tivi hoặc máy tính. Tuy nhiên, đối với người khiếu nại, các thành viên của Tòa án này đã thấy chính xác những gì bồi thẩm đoàn trong phiên tòa thứ hai đã thấy. Rõ ràng, những bồi thẩm viên đó không có lợi thế hơn Tòa án này, ít nhất về mặt đó.
1037 Tất nhiên, liệu một tòa án phúc thẩm trung gian có nên xem bản ghi âm, ít nhất một phần, các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa, là một câu hỏi được phát hiện ở một mức độ nào đó, bởi Tòa án Tối cao trong vụ SKA, mà trước đây, tôi đã đề cập đến nhân vấn đề áp dụng thử nghiệm M.
1038 Trong vụ SKA, một câu hỏi đặt ra là liệu Tòa Phúc thẩm Hình sự New South Wales có sai sót khi không xem các bằng chứng được ghi lại của người khiếu nại hay không. Bằng chứng của cô ta tại phiên tòa đã được đưa ra, một phần, bằng một cuộc phỏng vấn được ghi lại và, một phần, bằng chứng từ viva voce (lời nói trực tiếp, lời dịch của người chuyển ngữ).
1039 Người kháng cáo, và một số nhân chứng bào chữa chủ yếu không bị thách thức, đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm cho mỗi một trong ba ngày trong đó, việc bị cáo buộc là vi phạm có thể xảy ra. Như đã thảo luận trước đây, người kháng cáo đã thách thức các bản án của mình trên cơ sở các lời kết án (verdicts) không hợp lý, hoặc không thể được hỗ trợ, liên quan đến bằng chứng.
1040 Quan trọng đối với các mục đích hiện tại, Tòa án Tối cao cho rằng các thành viên của Tòa phúc thẩm hình sự đã không sai lầm khi từ chối xem cho mình đoạn video ghi lại cuộc phỏng vấn của người khiếu nại. Người kháng cáo đã không xác định được bất cứ mục đích pháp y nào có thể hữu ích bằng cách xem bản ghi âm đó [257].
1041 Đa số trong vụ SKA tuyên bố rằng thông thường, trình thuật được đưa ra, và ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhân chứng, có sẵn cho tòa phúc thẩm trung gian từ bản ghi chép, sẽ đủ để cho phép việc duyệt xét đúng mức các bằng chứng tại phiên tòa. Người ta dự ước rằng nếu có bất cứ điều gì có thể được phân định chỉ bằng cách nhìn, hoặc bằng cách nghe, có thể ảnh hưởng đến cách xem của bằng chứng của Tòa án, thì nó phải được nhận diện. Để một tòa án buộc phải đi xa hơn, và xem một bản ghi bằng chứng thực tế, một điều gì đó trong các hoàn cảnh của vụ án sẽ bắt buộc phải tiếp nhận diễn trình đó.
1042 Một cách có liên quan, đa số trong vụ SKA bày tỏ mối lo ngại đối với tiềm năng có sự tập chú không thích đáng vào một khía cạnh của toàn bộ bằng chứng, nếu chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại mà thôi. Điều đó cũng có thể tạo ra một thất bại, về phía Tòa án, trong việc xem xét toàn bộ bằng chứng, vốn là nhiệm vụ cần phải được thi hành.
1043 Trở lại trường hợp hiện tại, người khiếu nại đưa ra bằng chứng của mình trong hơn hai ngày. Ông đã được đối chất khá dài, và mạnh mẽ, như được dự kiến. Ông Richter thách thức cả sự khả tín lẫn sự đáng dựa vào trong trình thuật của ông.
1044 Khi các bên được thông báo bằng văn bản về ý muốn của Tòa án này được xem bản ghi âm bằng chứng của người khiếu nại, cũng như bản ghi âm của một số nhân chứng chủ yếu khác, đương đơn thoạt đầu đã phản đối việc này. Ông đệ trình rằng nếu các thành viên của Tòa án này đuợc lưu ý tự mình xem người khiếu nại đã hành xử ra sao khi đưa ra bằng chứng tại phiên tòa, họ cũng nên xem bằng chứng được ghi lại của một số nhân chứng khác. Tên của những nhân chứng được coi là có liên quan đặc biệt, về phương diện này, đã được nêu ra một cách chuyên biệt.
1045 Theo yêu cầu của đương đơn, các thành viên của Tòa án này, trước khi nghe miệng đơn này, đã xem các bằng chứng được ghi lại không những của người khiếu nại, mà còn của một số nhân chứng khác. Trong trường hợp của tôi, tôi đã xem các bản ghi bằng chứng được đưa ra bởi Portelli, Potter, McGlone, Connor, Finnigan, Cox, Mallinson, Rodney Dearing, David Dearing, Parissi và Bonomy. Diễn trình đó mất một số ngày, nhưng cuối cùng, đã được chứng minh là có giá trị đáng kể.
1046 Tôi nên nói rằng trước khi xem bản ghi âm của những nhân chứng này, tôi đã đọc toàn bộ bản ghi chép của phiên tòa, cũng như một số lượng đáng kể các tài liệu khác. Điều đó bao gồm bản ghi chép của hồ sơ phỏng vấn đương đơn, cũng như các tuyên bố thống nhất về sự kiện.
1047 Các bản ghi âm đều nhất loạt có chất lượng cao. Tương đối khá đơn giản để theo dõi các bằng chứng được đưa ra bởi mỗi nhân chứng, trong khi đồng chỉnh (align) những gì thực sự nói ra với những gì xuất hiện trong bản ghi chép. Trong chừng mực thái độ ứng xử là một nhân tố có liên quan cần phải tính đến khi đánh giá các vấn đề về độ đáng tin và đáng dựa vào, các bản ghi âm, đối với tôi, dường như cung cấp một cơ sở vững chắc để từ đó hình thành một quan điểm về những vấn đề đó.
1048 Tôi chấp nhận rằng bồi thẩm đoàn trong trường hợp hiện tại có một số lợi thế so với các thành viên của Tòa án này trong việc đánh giá tầm quan trọng của các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa. Vì một là, họ đã có mặt trong phòng xử án trong suốt thời gian toàn bộ bằng chứng đó. Họ quan sát nó như nó được đưa ra cách tuần tự. Họ đã nhìn thấy nhiều người, mặc dù không phải tất cả, trong số các nhân chứng, trong khi tôi không thấy gì ngoài những bản ghi bằng chứng của họ. Do đó, bồi thẩm đoàn đã được chìm đắm trong ‘bầu không khí của phiên tòa’, một cách mà không một thành viên nào của tòa phúc thẩm có thể hy vọng tái tạo được.
1049 Hơn nữa, các bồi thẩm viên còn có thể nhìn và nghe các diễn từ mở màn và kết thúc của luật sư công tố, trong khi các thành viên của Tòa án này chỉ có thể đọc những gì họ nói. Các bồi thẩm viên cũng có thể nhìn và nghe thẩm phán xét xử đưa ra điều rõ ràng là một nhiệm vụ thấu suốt và có cấu trúc rất tốt. Một lần nữa, các thành viên của Tòa án này chỉ có thể dựa vào bản ghi chép những gì Quan tòa nói.
1050 Có lẽ quan trọng nhất, các thành viên của bồi thẩm đoàn đã có lợi điểm nghe các quan điểm của nhau trong các cuộc thảo luận của họ. Họ có thể đem đến kinh nghiệm sống và lương tri của họ, để chịu đựng, để thực hiện nhiệm vụ trước mắt họ. Sự kiện bồi thẩm đoàn đạt tới phán quyết nhất trí về tội lỗi, trong phiên tòa này, nhất định không phải là một điều để xem nhẹ. Nó xác lập mức độ cản trở cao mà đương đơn phải vượt qua để thành công trên cơ sở kháng cáo này. Tuy nhiên, tôi coi lợi thế mà bồi thẩm đoàn được nhìn và nghe bằng chứng được đưa ra trong phiên tòa này là có phần kém hơn so với các vụ án thông thường.
Kỳ tới: Kết luận về Cơ sở 1