(2) Không thể có việc đương đơn đã ở trong phòng áo của các Linh mục trong vòng ít phút sau khi kết thúc Thánh lễ
682 Đệ trình tiếp theo của Ông Richter trước bồi thẩm đoàn về sự ‘bất khả’ liên quan đến các di chuyển của đương đơn ngay sau khi cử hành Thánh lễ vào mỗi một trong hai ngày của tháng Mười Hai.
683 Sự đệ trình đó dựa rất nhiều vào bằng chứng của cả Portelli lẫn Potter. Ông Richter lập luận rằng bằng chứng của Portelli về các di chuyển của đương đơn sau Thánh Lễ đã rõ ràng và không mơ hồ. Portelli đặc biệt nhớ rằng vào mỗi một trong hai dịp đầu tiên trong đó, Đức Tổng Giám Mục mới đã cử hành Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa, Portelli đã chờ đợi ngài trên các bậc thềm phía trước. Ông đã có mặt trong khi đương đơn tham gia cuộc trò chuyện với các giáo dân. Mỗi lần, cuộc ‘gặp gỡ và chào hỏi’ đó đã kéo dài ít nhất 10 phút. Portelli nói thêm rằng đây là thói quen bất biến của đương đơn sau Thánh lễ từ đó về sau.
684 Nếu bằng chứng của Portelli về việc ‘gặp gỡ và chào đón’ vào hai ngày tháng Mười Hai đó được chấp nhận [191], thì trình thuật của người khiếu nại không thể noà chính xác, theo bất cứ ý nghĩa thực tế nào. Về mặt thực tế, trình thuật của ông ta sẽ ‘bất khả’. Chủ trương này sẽ giống như chứng cứ ngoại phạm đã được nêu ra, mà công tố không thể, ở mức độ cần thiết, bác bỏ [192].
685 Nếu, dựa vào toàn bộ bằng chứng, một hành vi bị cáo buộc là phạm tội chỉ có thể được thực hiện vào một thời điểm chuyên biệt hoặc trong một khoảng thời gian chuyên biệt, khi đối diện với điều tương đương với 'bằng chứng ngoại phạm', cơ hội để phạm hành vi phạm tội đó ở thời gian đó, hoặc trong khoảng thời gian đó, vì mọi mục đích thực tế, có thể trở thành một yếu tố chủ yếu của hành vi phạm tội.
686 Đã có đệ trình trước Tòa án này, nơi ban bào chữa đưa ra bằng chứng ngoại phạm, hoặc tương đương, rằng bồi thẩm đoàn không được tự hỏi liệu họ có chấp nhận bằng chứng ngoại phạm đó là sự thật hay không. Luật pháp yêu cầu họ phải tha bổng trừ khi được thuyết phục quá sự nghi ngờ hợp lý rằng bằng chứng ngoại phạm đã hoàn toàn bị bác bỏ [193]. Gánh nặng (onus) bác bỏ bằng chứng ngoại phạm đặt lên công tố hoàn toàn. Để làm như vậy, công tố phải loại bỏ ngay cả ‘khả thể hợp lý’, rằng bằng chứng ngoại phạm có thể là sự thật.
687 Bằng chứng của Portelli về vấn đề của đương đơn đã chờ đợi trên các bậc thềm của Nhà thờ, sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, vào cả ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, như sau:
ÔNG RICHTER: Đức ông sẽ đứng đợi với ngài?
PORTELLI: Đúng, đúng.
ÔNG RICHTER: Đức ông có đứng đợi với ngài không?
PORTELLI: Tôi có làm thế.
ÔNG RICHTER: Bởi vì Đức ông nhớ những dịp đó, hai dịp đó, không phải sao?
PORTELLI: Phải.
ÔNG RICHTER: Bởi vì chúng đặc biệt. Không theo nghĩa giống như Lễ Giáng sinh, nhưng chúng đặc biệt bởi vì đây là hai lần đầu tiên Đức ông đi cùng với ngài trong tư cách chuởng nghi của ngài?
PORTELLI: Đúng. Đúng.
688 Sau đó, trong cuộc đối chất của ông Richter, bằng chứng tiếp tục:
ÔNG RICHTER: Được. Và trong hai dịp đầu tiên khi ngài đọc Thánh lễ Chúa Nhật, Thánh lễ trọng thể năm 96, vào hai dịp khi ngài nói Thánh lễ đó, Đức ông đã nhắc đến khoảng thời gian trong đó ngài sẽ đứng bên ngoài để chào đón giáo dân - - -?
PORTELLI: Vâng.
ÔNG RICHTER: - - - và khách?
PORTELLI: Vâng.
ÔNG RICHTER: Đức ông đã cho một khoảng thời gian trong đó những điều này có thể xảy ra. Ngài sẽ ở đó ít nhất mười phút, bất kể giới hạn trên đó là gì. Có đúng không?
PORTELLI: Đúng. Đúng.
ÔNG RICHTER: Đức ông nhớ điều đó?
PORTELLI: Tôi nhớ, đúng.
689 Ông Richter đệ trình rằng Portelli sẽ có lý do tốt để nhớ hai dịp đầu tiên trong đó Đức Tổng Giám Mục mới cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa.
690 Người ta nhớ rằng Portelli thừa nhận rằng có thể đã có một dịp khi đương đơn không ở lại các bậc thềm để nói chuyện với các giáo dân, sau Thánh lễ. Ông nói rằng nếu có một dịp như vậy, nó sẽ rất hiếm. Mặc dù vậy, ông khăng khăng, ông sẽ luôn ở bên đương đơn, theo Luật Giáo hội.
691 Việc Ông Gibson kiểm tra lại Portelli, một việc hợp pháp được diễn ra dưới hình thức đối chất, đã không thách thức khẳng định căn bản của ông ta về việc chuyên biệt nhớ mỗi một trong hai dịp đầu tiên trong đó đương đơn đọc Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa. Ông Gibson đã không nói với Portelli rằng ông ta nói dối, trước đây ông đã đặc biệt tránh bất kỳ gợi ý nào như thế [194]. Điều quan trọng là ông Gibson cũng không gợi ý với Portelli rằng ông ta mưu toan, dù có ý thức hay không, hỗ trợ bên bảo chữa cho đương đơn.
Trả lời của công tố - Có thể đương đơn đã ở trong phòng áo của các Linh mục trong vòng vài phút sau khi kết thúc Thánh lễ
692 Giống như đã làm khi khai mở lý lẽ cho bồi thẩm đoàn, trong diễn từ kết thúc của mình, ông Gibson đã chấp nhận rằng một số lượng đáng kể các nhân chứng đã đưa ra bằng chứng mà, nếu xét như một toàn thể, sẽ mâu thuẫn gay gắt với trình thuật của người khiếu nại.
693 Ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn phân biệt giữa điều ông mô tả như hai câu hỏi riêng biệt. Câu đầu tiên là liệu, như lời bên bào chữa, một điều gì đó đơn giản không thể xảy ra (‘bất khả’). Câu thứ hai là liệu, như công tố đã lập luận, bằng chứng mà bên bào chữa dựa vào về phương diện đó, thực sự không đi xa hơn là việc xác lập rằng đơn giản có ít cơ hội cho việc vi phạm đã xảy ra.
694 Ông Gibson xác định đúng và chính xác như một vấn đề căn bản để bồi thẩm đoàn xem xét liệu, như bên bào chữa tuyên bố, đương đơn, sau Thánh lễ ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, vẫn ở trên các bậc Nhà thờ Chính tòa, trong một thời gian kéo dài. Ông nhận rằng nếu đúng như vậy, lý lẽ truy tố liên quan đến biến cố đầu tiên khó có thể thành công. Ông đã mời bồi thẩm đoàn kết luận rằng những nhân chứng mà bằng chứng ủng hộ ‘chứng cớ ngoại phạm’ không nên được chấp nhận, và làm như vậy trên cơ sở cho rằng ký ức về các sự kiện của họ là không đáng dựa vào.
695 Thay vào đó, ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn thấy ra rằng ngay cả khi đương đơn đã đứng trên các bậc thềm trong một thời gian sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật vào hai ngày tháng Mười Hai, ông ta làm như vậy trong một thời gian ngắn, một điều sẽ cho phép hành vi phạm tội theo mô tả của người khiếu nại xảy ra.
696 Ông Gibson đã đệ trình rằng, về các bằng chứng nói chung, ‘hoàn toàn có thể’ đương đơn đã không ở lại các bậc thềm trong 10 phút hay hơn, vào các ngày được đề cập. Và nếu ông ta vẫn ở trên các bậc thềm, vào một trong hai ngày của tháng Mười Hai, thì ‘hoàn toàn có thể’ ông ta đã không làm như vậy vào ngày thứ hai.
697 Ông Gibson nhận rằng có những nguy hiểm khi tiếp cận vấn đề này về điều tôi đã mô tả như ‘bằng chứng ngoại phạm’ trên cơ sở liệu đó có phải ‘hoàn toàn có thể’ việc đương đơn có thể không đứng trên các bậc thềm trong một thời gian dài. Ông ta nói với bồi thẩm đoàn rằng khi sử dụng kiểu nói ‘hoàn toàn có thể’, ông ta không có ý định đảo ngược gánh nặng phải chứng minh, hoặc hạ thấp nó bất cứ cách nào. Ông ta nói rằng ông ta chỉ đơn giản trả lời đệ trình của ban bào chữa vốn ẩn núp dưới kiểu nói duy tuyệt đối ‘bất khả’.
698 Tuy nhiên, ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn bác bỏ bằng chứng của McGlone. Ông ta tương phản điều ông ta mô tả như ký ức có tuyên thệ của McGlone về cuộc gặp gỡ giữa mẹ ông ta và đương đơn trên các bậc thềm của Nhà thờ Chính tòa (mà, theo đệ trình của ông ta, có khả năng có ý nghĩa cùng lắm là ngoại vi, liên quan đến McGlone), với trí nhớ của người khiếu nại về việc bị lạm dụng tình dục (mà, theo đệ trình của ông ta, chắc chắn phải có tầm quan trọng sâu xa nhất trong cuộc đời ông ta).
699 Khi ông Gibson phải đối phó với bằng chứng của Portelli, ông tập chú vào ngôn ngữ mà Portelli đã sử dụng trong một số câu trả lời của ông ta. Ông cho rằng một số bằng chứng của Portelli khá mơ hồ và hạn chế (qualified). Ông lập luận rằng trí nhớ của Portelli phải được coi là nghi ngờ. Thí dụ, Portelli chỉ có thể nói rằng 'có vẻ đúng' rằng lần đầu tiên đương đơn cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật với tư cách là Tổng giám mục 'có thể là' ngày 15 tháng 12 năm 1996. Tại một điểm khác, Portelli nói, khi trả lời cùng một câu hỏi, rằng 'có thể đúng'.
700 Ông Gibson, mặc dù đã nói rõ ràng rằng ông ta không cho rằng Portelli nói dối, đã nhận xét về 'trí nhớ tuyệt vời' của ông ta khi đối chất, nhưng nhận xét một cách chua chát rằng trí nhớ của ông ta 'không tốt như thế...' khi nói ở lúc kiểm tra lại. Ông lưu ý rằng Portelli tuyên bố có một ký ức chuyên biệt và khá sống động về hai Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật đầu tiên mà đương đơn cử hành, nhưng không thể nhớ, tự một mình mình, liệu đương đơn có cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật ngày 10 hay ngày 17 tháng 11 năm 1996 hay không. Ông ta cũng không nhớ nơi Thánh lễ đã diễn ra, giả sử đương có cử hành.
701 Ông Gibson đã đưa ra một lý thuyết khác thay thế. Ông đệ trình rằng thói quen đương đơn đứng trên các bậc của Nhà thờ Chính tòa ngay sau Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật có thể không bắt đầu vào tháng 12 năm 1996, nhưng có thể bắt đầu muộn hơn nhiều vào năm 1997.
702 Để hỗ trợ cho việc biến đổi đặc thù đó trong lý lẽ của công tố, ông Gibson nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng Portelli đã thừa nhận rằng ngay từ đầu trong nhiệm kỳ của đương đơn, 'đã có một số lỗi trong hệ thống cần được chấn chỉnh’. Ông ta mời họ coi câu trả lời đó như hỗ trợ cho đệ trình của ông rằng việc thói quen đứng lại trên các bậc thềm đã không bắt đầu cho đến mãi về sau trong nhiệm kỳ của đương đơn với tư cách là Tổng Giám mục.
703 Cuối cùng, về điểm này, ông Gibson lưu ý rằng cả đương đơn, trong hồ sơ phỏng vấn của ông ta và Portelli , trong bằng chứng của mình, đã đồng ý rằng nếu có một cam kết khác được lên kế hoạch sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, cuộc gặp gỡ ở các bậc thềm với giáo có thể bị rút ngắn.
704 Mặc dù không có bằng chứng thực sự nào về một cuộc cam kết khác thuộc loại đó được lên kế hoạch vào ngày 15 hoặc 22 tháng 12 năm 1996, ông Gibson nêu ra khả thể có thể có một cam kết như vậy.
705 Ông Gibson cũng nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng Portelli, mặc dù bề ngoài rõ ràng về những gì diễn ra vào hai ngày tháng 12, đã không thể nhớ một cách chuyên biệt liệu đám rước vào những ngày đó là ở bên trong hay ở bên ngoài [195]. Do đó, ông mời bồi thẩm đoàn thấy ra rằng trí nhớ của Portelli không đáng dựa vào.
706 Theo các nhân chứng khác nói về 'thói quen bất biến' của đương đơn trong việc dừng lại tại các bậc thềm, ông Gibson đã đệ trình rằng 'thói quen' này có thể đã không được khai triển cho đến mãi sau này, vào năm 1997. Ông không đề cập đến sự khó khăn liên quan tới lập luận đặc thù phát sinh từ bằng chứng của Finnigan rằng ông ta đã thấy đương đơn đứng trên các bậc thềm, nói chuyện với giáo dân sau Thánh lễ, trước khi rời chức vụ của mình tại Nhà thờ Chính tòa, một điều sẽ được nhắc lại, vào Giáng sinh năm 1996.
707 Khi nói đến bằng chứng của McGlone, ông Gibson đã đệ trình rằng nó nên bị bác bỏ một cách quả quyết. Ông đã mời bồi thẩm đoàn kết luận rằng nếu biến cố liên quan đến mẹ McGlone, đã xảy ra, thì nhiều khả năng hơn là không rằng nó xảy ra vào năm 1997, thay vì năm 1996 [196]. Ông nói thêm rằng, ngay cả khi bồi thẩm đoàn bác bỏ đệ trình đặc thù đó, ‘chứng cớ ngoại phạm’ của McGlone vẫn sẽ chỉ đúng cho một trong hai ngày vào tháng 12. Điều đó có nghĩa là ngày khác kia có thể là dịp mà biến cố đầu tiên đã xảy ra.
Kỳ tới: Trở ngại chắc chắn thứ ba: (3) Không thể có việc đương đơn mặc áo lễ và ở một mình sau Thánh lễ
682 Đệ trình tiếp theo của Ông Richter trước bồi thẩm đoàn về sự ‘bất khả’ liên quan đến các di chuyển của đương đơn ngay sau khi cử hành Thánh lễ vào mỗi một trong hai ngày của tháng Mười Hai.
683 Sự đệ trình đó dựa rất nhiều vào bằng chứng của cả Portelli lẫn Potter. Ông Richter lập luận rằng bằng chứng của Portelli về các di chuyển của đương đơn sau Thánh Lễ đã rõ ràng và không mơ hồ. Portelli đặc biệt nhớ rằng vào mỗi một trong hai dịp đầu tiên trong đó, Đức Tổng Giám Mục mới đã cử hành Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa, Portelli đã chờ đợi ngài trên các bậc thềm phía trước. Ông đã có mặt trong khi đương đơn tham gia cuộc trò chuyện với các giáo dân. Mỗi lần, cuộc ‘gặp gỡ và chào hỏi’ đó đã kéo dài ít nhất 10 phút. Portelli nói thêm rằng đây là thói quen bất biến của đương đơn sau Thánh lễ từ đó về sau.
684 Nếu bằng chứng của Portelli về việc ‘gặp gỡ và chào đón’ vào hai ngày tháng Mười Hai đó được chấp nhận [191], thì trình thuật của người khiếu nại không thể noà chính xác, theo bất cứ ý nghĩa thực tế nào. Về mặt thực tế, trình thuật của ông ta sẽ ‘bất khả’. Chủ trương này sẽ giống như chứng cứ ngoại phạm đã được nêu ra, mà công tố không thể, ở mức độ cần thiết, bác bỏ [192].
685 Nếu, dựa vào toàn bộ bằng chứng, một hành vi bị cáo buộc là phạm tội chỉ có thể được thực hiện vào một thời điểm chuyên biệt hoặc trong một khoảng thời gian chuyên biệt, khi đối diện với điều tương đương với 'bằng chứng ngoại phạm', cơ hội để phạm hành vi phạm tội đó ở thời gian đó, hoặc trong khoảng thời gian đó, vì mọi mục đích thực tế, có thể trở thành một yếu tố chủ yếu của hành vi phạm tội.
686 Đã có đệ trình trước Tòa án này, nơi ban bào chữa đưa ra bằng chứng ngoại phạm, hoặc tương đương, rằng bồi thẩm đoàn không được tự hỏi liệu họ có chấp nhận bằng chứng ngoại phạm đó là sự thật hay không. Luật pháp yêu cầu họ phải tha bổng trừ khi được thuyết phục quá sự nghi ngờ hợp lý rằng bằng chứng ngoại phạm đã hoàn toàn bị bác bỏ [193]. Gánh nặng (onus) bác bỏ bằng chứng ngoại phạm đặt lên công tố hoàn toàn. Để làm như vậy, công tố phải loại bỏ ngay cả ‘khả thể hợp lý’, rằng bằng chứng ngoại phạm có thể là sự thật.
687 Bằng chứng của Portelli về vấn đề của đương đơn đã chờ đợi trên các bậc thềm của Nhà thờ, sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, vào cả ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, như sau:
ÔNG RICHTER: Đức ông sẽ đứng đợi với ngài?
PORTELLI: Đúng, đúng.
ÔNG RICHTER: Đức ông có đứng đợi với ngài không?
PORTELLI: Tôi có làm thế.
ÔNG RICHTER: Bởi vì Đức ông nhớ những dịp đó, hai dịp đó, không phải sao?
PORTELLI: Phải.
ÔNG RICHTER: Bởi vì chúng đặc biệt. Không theo nghĩa giống như Lễ Giáng sinh, nhưng chúng đặc biệt bởi vì đây là hai lần đầu tiên Đức ông đi cùng với ngài trong tư cách chuởng nghi của ngài?
PORTELLI: Đúng. Đúng.
688 Sau đó, trong cuộc đối chất của ông Richter, bằng chứng tiếp tục:
ÔNG RICHTER: Được. Và trong hai dịp đầu tiên khi ngài đọc Thánh lễ Chúa Nhật, Thánh lễ trọng thể năm 96, vào hai dịp khi ngài nói Thánh lễ đó, Đức ông đã nhắc đến khoảng thời gian trong đó ngài sẽ đứng bên ngoài để chào đón giáo dân - - -?
PORTELLI: Vâng.
ÔNG RICHTER: - - - và khách?
PORTELLI: Vâng.
ÔNG RICHTER: Đức ông đã cho một khoảng thời gian trong đó những điều này có thể xảy ra. Ngài sẽ ở đó ít nhất mười phút, bất kể giới hạn trên đó là gì. Có đúng không?
PORTELLI: Đúng. Đúng.
ÔNG RICHTER: Đức ông nhớ điều đó?
PORTELLI: Tôi nhớ, đúng.
689 Ông Richter đệ trình rằng Portelli sẽ có lý do tốt để nhớ hai dịp đầu tiên trong đó Đức Tổng Giám Mục mới cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa.
690 Người ta nhớ rằng Portelli thừa nhận rằng có thể đã có một dịp khi đương đơn không ở lại các bậc thềm để nói chuyện với các giáo dân, sau Thánh lễ. Ông nói rằng nếu có một dịp như vậy, nó sẽ rất hiếm. Mặc dù vậy, ông khăng khăng, ông sẽ luôn ở bên đương đơn, theo Luật Giáo hội.
691 Việc Ông Gibson kiểm tra lại Portelli, một việc hợp pháp được diễn ra dưới hình thức đối chất, đã không thách thức khẳng định căn bản của ông ta về việc chuyên biệt nhớ mỗi một trong hai dịp đầu tiên trong đó đương đơn đọc Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa. Ông Gibson đã không nói với Portelli rằng ông ta nói dối, trước đây ông đã đặc biệt tránh bất kỳ gợi ý nào như thế [194]. Điều quan trọng là ông Gibson cũng không gợi ý với Portelli rằng ông ta mưu toan, dù có ý thức hay không, hỗ trợ bên bảo chữa cho đương đơn.
Trả lời của công tố - Có thể đương đơn đã ở trong phòng áo của các Linh mục trong vòng vài phút sau khi kết thúc Thánh lễ
692 Giống như đã làm khi khai mở lý lẽ cho bồi thẩm đoàn, trong diễn từ kết thúc của mình, ông Gibson đã chấp nhận rằng một số lượng đáng kể các nhân chứng đã đưa ra bằng chứng mà, nếu xét như một toàn thể, sẽ mâu thuẫn gay gắt với trình thuật của người khiếu nại.
693 Ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn phân biệt giữa điều ông mô tả như hai câu hỏi riêng biệt. Câu đầu tiên là liệu, như lời bên bào chữa, một điều gì đó đơn giản không thể xảy ra (‘bất khả’). Câu thứ hai là liệu, như công tố đã lập luận, bằng chứng mà bên bào chữa dựa vào về phương diện đó, thực sự không đi xa hơn là việc xác lập rằng đơn giản có ít cơ hội cho việc vi phạm đã xảy ra.
694 Ông Gibson xác định đúng và chính xác như một vấn đề căn bản để bồi thẩm đoàn xem xét liệu, như bên bào chữa tuyên bố, đương đơn, sau Thánh lễ ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, vẫn ở trên các bậc Nhà thờ Chính tòa, trong một thời gian kéo dài. Ông nhận rằng nếu đúng như vậy, lý lẽ truy tố liên quan đến biến cố đầu tiên khó có thể thành công. Ông đã mời bồi thẩm đoàn kết luận rằng những nhân chứng mà bằng chứng ủng hộ ‘chứng cớ ngoại phạm’ không nên được chấp nhận, và làm như vậy trên cơ sở cho rằng ký ức về các sự kiện của họ là không đáng dựa vào.
695 Thay vào đó, ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn thấy ra rằng ngay cả khi đương đơn đã đứng trên các bậc thềm trong một thời gian sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật vào hai ngày tháng Mười Hai, ông ta làm như vậy trong một thời gian ngắn, một điều sẽ cho phép hành vi phạm tội theo mô tả của người khiếu nại xảy ra.
696 Ông Gibson đã đệ trình rằng, về các bằng chứng nói chung, ‘hoàn toàn có thể’ đương đơn đã không ở lại các bậc thềm trong 10 phút hay hơn, vào các ngày được đề cập. Và nếu ông ta vẫn ở trên các bậc thềm, vào một trong hai ngày của tháng Mười Hai, thì ‘hoàn toàn có thể’ ông ta đã không làm như vậy vào ngày thứ hai.
697 Ông Gibson nhận rằng có những nguy hiểm khi tiếp cận vấn đề này về điều tôi đã mô tả như ‘bằng chứng ngoại phạm’ trên cơ sở liệu đó có phải ‘hoàn toàn có thể’ việc đương đơn có thể không đứng trên các bậc thềm trong một thời gian dài. Ông ta nói với bồi thẩm đoàn rằng khi sử dụng kiểu nói ‘hoàn toàn có thể’, ông ta không có ý định đảo ngược gánh nặng phải chứng minh, hoặc hạ thấp nó bất cứ cách nào. Ông ta nói rằng ông ta chỉ đơn giản trả lời đệ trình của ban bào chữa vốn ẩn núp dưới kiểu nói duy tuyệt đối ‘bất khả’.
698 Tuy nhiên, ông Gibson đã mời bồi thẩm đoàn bác bỏ bằng chứng của McGlone. Ông ta tương phản điều ông ta mô tả như ký ức có tuyên thệ của McGlone về cuộc gặp gỡ giữa mẹ ông ta và đương đơn trên các bậc thềm của Nhà thờ Chính tòa (mà, theo đệ trình của ông ta, có khả năng có ý nghĩa cùng lắm là ngoại vi, liên quan đến McGlone), với trí nhớ của người khiếu nại về việc bị lạm dụng tình dục (mà, theo đệ trình của ông ta, chắc chắn phải có tầm quan trọng sâu xa nhất trong cuộc đời ông ta).
699 Khi ông Gibson phải đối phó với bằng chứng của Portelli, ông tập chú vào ngôn ngữ mà Portelli đã sử dụng trong một số câu trả lời của ông ta. Ông cho rằng một số bằng chứng của Portelli khá mơ hồ và hạn chế (qualified). Ông lập luận rằng trí nhớ của Portelli phải được coi là nghi ngờ. Thí dụ, Portelli chỉ có thể nói rằng 'có vẻ đúng' rằng lần đầu tiên đương đơn cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật với tư cách là Tổng giám mục 'có thể là' ngày 15 tháng 12 năm 1996. Tại một điểm khác, Portelli nói, khi trả lời cùng một câu hỏi, rằng 'có thể đúng'.
700 Ông Gibson, mặc dù đã nói rõ ràng rằng ông ta không cho rằng Portelli nói dối, đã nhận xét về 'trí nhớ tuyệt vời' của ông ta khi đối chất, nhưng nhận xét một cách chua chát rằng trí nhớ của ông ta 'không tốt như thế...' khi nói ở lúc kiểm tra lại. Ông lưu ý rằng Portelli tuyên bố có một ký ức chuyên biệt và khá sống động về hai Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật đầu tiên mà đương đơn cử hành, nhưng không thể nhớ, tự một mình mình, liệu đương đơn có cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật ngày 10 hay ngày 17 tháng 11 năm 1996 hay không. Ông ta cũng không nhớ nơi Thánh lễ đã diễn ra, giả sử đương có cử hành.
701 Ông Gibson đã đưa ra một lý thuyết khác thay thế. Ông đệ trình rằng thói quen đương đơn đứng trên các bậc của Nhà thờ Chính tòa ngay sau Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật có thể không bắt đầu vào tháng 12 năm 1996, nhưng có thể bắt đầu muộn hơn nhiều vào năm 1997.
702 Để hỗ trợ cho việc biến đổi đặc thù đó trong lý lẽ của công tố, ông Gibson nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng Portelli đã thừa nhận rằng ngay từ đầu trong nhiệm kỳ của đương đơn, 'đã có một số lỗi trong hệ thống cần được chấn chỉnh’. Ông ta mời họ coi câu trả lời đó như hỗ trợ cho đệ trình của ông rằng việc thói quen đứng lại trên các bậc thềm đã không bắt đầu cho đến mãi về sau trong nhiệm kỳ của đương đơn với tư cách là Tổng Giám mục.
703 Cuối cùng, về điểm này, ông Gibson lưu ý rằng cả đương đơn, trong hồ sơ phỏng vấn của ông ta và Portelli , trong bằng chứng của mình, đã đồng ý rằng nếu có một cam kết khác được lên kế hoạch sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, cuộc gặp gỡ ở các bậc thềm với giáo có thể bị rút ngắn.
704 Mặc dù không có bằng chứng thực sự nào về một cuộc cam kết khác thuộc loại đó được lên kế hoạch vào ngày 15 hoặc 22 tháng 12 năm 1996, ông Gibson nêu ra khả thể có thể có một cam kết như vậy.
705 Ông Gibson cũng nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng Portelli, mặc dù bề ngoài rõ ràng về những gì diễn ra vào hai ngày tháng 12, đã không thể nhớ một cách chuyên biệt liệu đám rước vào những ngày đó là ở bên trong hay ở bên ngoài [195]. Do đó, ông mời bồi thẩm đoàn thấy ra rằng trí nhớ của Portelli không đáng dựa vào.
706 Theo các nhân chứng khác nói về 'thói quen bất biến' của đương đơn trong việc dừng lại tại các bậc thềm, ông Gibson đã đệ trình rằng 'thói quen' này có thể đã không được khai triển cho đến mãi sau này, vào năm 1997. Ông không đề cập đến sự khó khăn liên quan tới lập luận đặc thù phát sinh từ bằng chứng của Finnigan rằng ông ta đã thấy đương đơn đứng trên các bậc thềm, nói chuyện với giáo dân sau Thánh lễ, trước khi rời chức vụ của mình tại Nhà thờ Chính tòa, một điều sẽ được nhắc lại, vào Giáng sinh năm 1996.
707 Khi nói đến bằng chứng của McGlone, ông Gibson đã đệ trình rằng nó nên bị bác bỏ một cách quả quyết. Ông đã mời bồi thẩm đoàn kết luận rằng nếu biến cố liên quan đến mẹ McGlone, đã xảy ra, thì nhiều khả năng hơn là không rằng nó xảy ra vào năm 1997, thay vì năm 1996 [196]. Ông nói thêm rằng, ngay cả khi bồi thẩm đoàn bác bỏ đệ trình đặc thù đó, ‘chứng cớ ngoại phạm’ của McGlone vẫn sẽ chỉ đúng cho một trong hai ngày vào tháng 12. Điều đó có nghĩa là ngày khác kia có thể là dịp mà biến cố đầu tiên đã xảy ra.
Kỳ tới: Trở ngại chắc chắn thứ ba: (3) Không thể có việc đương đơn mặc áo lễ và ở một mình sau Thánh lễ