Yan Xuetong, Giáo sư và Khoa trưởng Viện Liên Hệ Quốc Tế của Đại Học Tsinghua, trên tờ Foreign Affairs số ngày 2 tháng 5, 2022, có bài nhận định như sau:
Cuộc chiến của Nga ở Ukraine đã tạo ra một tình thế khó khăn chiến lược cho Trung Quốc. Một mặt, xung đột đã làm gián đoạn hoạt động thương mại trị giá hàng tỷ đô la của Trung Quốc, làm gia tăng căng thẳng ở Đông Á và làm sâu xa thêm sự phân cực chính trị bên trong Trung Quốc bằng cách chia rẽ người dân thành các phe ủng hộ và chống Nga. Mặt khác, Trung Quốc đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã khiêu khích Nga ủng hộ NATO mở rộng và lo ngại rằng Washington sẽ tìm cách kéo dài xung đột ở Ukraine nhằm làm sa lầy Nga. Bắc Kinh nhận được rất ít lợi ích từ việc tham gia dàn đồng ca quốc tế lên án Mạc tư khoa.
Bất kể Trung Quốc nói gì hoặc làm gì để đáp ứng quyết định của Tổng thống Nga Vladimir Putin về việc tiến hành chiến tranh ở Ukraine, Washington khó có thể làm dịu chiến lược kiềm chế đối với Bắc Kinh. Và với tư cách là nước láng giềng lớn nhất và có khả năng quân sự nhất của Trung Quốc, Nga không phải là một cường quốc mà Bắc Kinh muốn đối kháng. Do đó, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã tìm cách tránh kích động một cách không cần thiết đối với cường quốc đối nghịch- bỏ phiếu trắng trong việc lên án Nga tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và lựa chọn cẩn thận các tuyên bố chính thức của nước này về cuộc chiến.
Chiến lược cân bằng này không phải là không trả giá. Việc từ chối lên án Nga đã làm căng thẳng quan hệ của Trung Quốc với một số nước láng giềng và khiến Bắc Kinh xa cách với nhiều quốc gia đang phát triển đã về phe chống đối cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Nó cũng đã gánh chịu những chi phí kinh tế bắt nguồn từ cuộc chiến của Nga có thể tiếp tục kéo dài trong tương lai. Tuy nhiên, để giảm thiểu thiệt hại chiến lược của mình, Trung Quốc có thể sẽ đi theo con đường trung dung này cho đến khi cuộc chiến ở Ukraine kết thúc. Một điều có thể làm thay đổi tính toán của Bắc Kinh và thúc đẩy họ đứng về phía Nga là nếu Hoa Kỳ hỗ trợ quân sự cho một tuyên bố độc lập rõ ràng của Đài Loan. Nếu không, Bắc Kinh có thể sẽ tiếp tục hành động cân bằng của mình, vì chính sách kiềm chế của Washington đối với Trung Quốc khiến Bắc Kinh rất khó đứng về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến ở Ukraine.
Mắc kẹt trong truyện gây phiền nhiễu
Kể từ khi bắt đầu xung đột, các cường quốc phương Tây đã cáo buộc Trung Quốc thụ động hoặc thậm chí hỗ trợ tích cực cho các hành động quân sự của Nga ở Ukraine. Chẳng hạn, vào tháng 3, The New York Times đưa tin chưa được xác minh rằng Nga đã chia sẻ kế hoạch chiến tranh với Trung Quốc trước xung đột. Nhưng như Qin Gang, đại sứ của Trung Quốc tại Hoa Kỳ, đã chỉ ra trong một bài đăng ngày 15 tháng 3 trên tờ The Washington Post, Trung Quốc đã mất nhiều thứ từ các hành động của Nga: “Có hơn 6,000 công dân Trung Quốc ở Ukraine. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của cả Nga lẫn Ukraine, đồng thời là nhà nhập khẩu dầu thô và khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới. Xung đột giữa Nga và Ukraine không có lợi cho Trung Quốc. Nếu Trung Quốc biết về cuộc khủng hoảng sắp xảy ra, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để ngăn chặn nó”.
Trên thực tế, Qin đã đánh giá không đủ tác động tiêu cực của chiến tranh đối với Trung Quốc. Xung đột đã làm chao đảo các thị trường hàng hóa và làm gián đoạn chuỗi cung ứng, dẫn đến thiệt hại hàng tỷ đô la cho các công ty Trung Quốc. Thí dụ, tập đoàn kền (nickel) khổng lồ của Trung Quốc Tsingshan Holding Group, đã mất 8 tỷ đô la vì những giao dịch không đúng lúc sau khi chiến tranh làm cho giá kền tăng đột ngột. Những gián đoạn liên quan đến chiến tranh cũng dẫn đến việc các đơn hàng xuất khẩu của Trung Quốc bị hủy quy mô lớn và làm suy yếu năng suất kỹ nghệ của Trung Quốc. Theo Cục Thống kê Quốc gia, Chỉ số Quản trị Mua hàng Sản xuất Trung Quốc – tức cơ quan theo dõi hoạt động kinh tế trong lĩnh vực sản xuất - đã giảm 0,7% trong tháng 3, một hiệu suất tồi tệ hơn nhiều so với dự báo của các nhà phân tích thị trường và mức giảm hàng tháng đầu tiên kể từ tháng 8 năm 2021.
Cuộc chiến tranh ở Ukraine đã đào sâu thêm sự phân cực chính trị trong nội bộ Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh cũng làm gia tăng căng thẳng giữa Trung Quốc và một số nước láng giềng. Khi sự cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh ngày càng gia tăng, nhiều quốc gia Đông Á đã áp dụng các chiến lược phòng ngừa rủi ro để cân bằng mối quan hệ với cả hai cường quốc. Nhưng cuộc xung đột ở Ukraine đã khiến một số quốc gia này nghiêng nhiều hơn về Hoa Kỳ. Ngoài ra, xung đột đã tạo cho Washington một cái cớ để phê duyệt khoản viện trợ quân sự trị giá 95 triệu đôla Mỹ khác cho Đài Loan - gói vũ khí thứ ba của Mỹ mà Đài Bắc nhận được kể từ khi Tổng thống Mỹ Joe Biden nhậm chức. Và không chỉ mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng của họ bị ảnh hưởng: vào tháng 3, 2/3 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu lên án Nga trong một cặp nghị quyết tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc trong khi chỉ có 5 nước bỏ phiếu không tán thành và 35 nước bỏ phiếu trắng. Sự hiện diện của Trung Quốc trong nhóm cuối cùng sẽ được nhiều nước vừa và nhỏ ghi nhớ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, cuộc chiến tranh đã khiến quan hệ giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ và các đồng minh của họ trở nên căng thẳng hơn nữa. Úc, Canada, Nhật Bản và Vương quốc Anh đều cho biết họ sẽ cùng Hoa Kỳ áp đặt các biện pháp trừng phạt thứ cấp đối với các công ty Trung Quốc vẫn tiếp tục kinh doanh như bình thường với Nga.
Cuối cùng, cuộc chiến tranh ở Ukraine đã đào sâu thêm sự phân cực chính trị trong nội bộ Trung Quốc. Trên WeChat và trên các diễn đàn truyền thông xã hội, các công dân Trung Quốc đã tập hợp lại thành các phe chống đối nhau, phe này ủng hộ Nga và phe kia chống lại. Ngay sau khi xung đột bắt đầu, một số cư dân mạng Trung Quốc chống Nga bắt đầu hâm lại sự bất công của Hiệp ước Aigun năm 1858, nhượng khoảng 230,000 dặm vuông lãnh thổ Trung Quốc cho Nga. Sự nhạy cảm chính trị của sự kiện lịch sử này trong quá khứ đã khiến Bắc Kinh rất thận trọng với việc hỗ trợ bất cứ nỗ lực nào của Nga trong việc mở rộng lãnh thổ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Bắc Kinh phải cân nhắc chân thành đến tình cảm chống Nga của một số công dân Trung Quốc.
"Đổ thêm dầu vào lửa"
Tuy nhiên, bất chấp những tác động tiêu cực của chiến tranh đối với Trung Quốc, Bắc Kinh không sẵn sàng chấp nhận cách tiếp cận của Washington đối với cuộc xung đột. Kể từ khi bắt đầu xung đột, chính phủ Trung Quốc đã cho rằng Hoa Kỳ khiêu khích Nga bằng cách thúc đẩy sự mở rộng NATO về phía đông. Hiện nó coi Washington đang cố tình leo thang chiến tranh để kéo dài cuộc chiến, do đó làm suy yếu cả Nga lẫn Trung Quốc. Trong một cuộc gọi ảo vào ngày 5 tháng 3, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken rằng Trung Quốc phản đối bất cứ động thái nào "đổ thêm dầu vào lửa" ở Ukraine. Các nhà lãnh đạo và nhà báo Trung Quốc kể từ đó đã lặp lại cụm từ này, nhấn mạnh sự không tin tưởng của Bắc Kinh vào ý định của Washington. Thí dụ, vào ngày 30 tháng 3, tờ People’s Daily do nhà nước điều hành đã đăng một bài xã luận lập luận rằng bằng cách “đổ thêm dầu vào lửa”, Hoa Kỳ “đang tạo ra những trở ngại lớn hơn cho một giải pháp chính trị của cuộc khủng hoảng này”.
Không thể ngăn cản Nga tiến hành chiến tranh ở Ukraine với những lời đe dọa trừng phạt kinh tế nghiêm khắc, Hoa Kỳ đã chuyển mục tiêu từ chấm dứt xung đột sang kéo dài xung đột. Trong một bài phát biểu tại Ba Lan vào ngày 26 tháng 3, Biden nói, “Trận chiến này sẽ không phân thắng bại trong ngày hay tháng. Chúng ta cần phải tôi luyện bản thân cho cuộc chiến dài hơi phía trước ”. Đối với Bắc Kinh, điều này được coi như một sự thừa nhận rằng Nhà Trắng không còn nhắm đến mục tiêu kết thúc chiến tranh mà là kéo dài nó để làm suy yếu và đánh bại Nga. Khi các nhà đàm phán của Nga và Ukraine vào tuần sau dường như đạt được tiến bộ đối với một kế hoạch hòa bình dự kiến, các quan chức hàng đầu của Mỹ bày tỏ sự hoài nghi về mong muốn của Nga trong việc hạn chế cuộc tấn công quân sự vào các thành phố Kyiv và Chernihiv. Về điều được cho là tiến bộ, Biden nói, "Tôi không suy diễn bất cứ điều gì về nó cho đến khi tôi thấy các hành động của [Nga] là gì." Ngày hôm sau, ông nói với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky rằng Hoa Kỳ có kế hoạch cung cấp cho Ukraine thêm 500 triệu mỹ kim viện trợ ngân sách trực tiếp. Theo nhận định của Bắc Kinh, Washington đang tăng cường viện trợ quân sự cho Ukraine để Nga bỏ tấn công ngoại giao nhằm rút quân của họ. Bình luận của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin vào tuần trước rằng “chúng tôi muốn thấy Nga suy yếu đến mức không thể làm những việc như họ đã làm khi xâm lược Ukraine” chỉ càng làm sâu đậm thêm niềm tin của Trung Quốc rằng ưu tiên của Hoa Kỳ là làm suy yếu nước Nga, chứ không phải để tìm kiếm một kết thúc nhanh chóng cho chiến tranh.
Bắc Kinh hiện coi Washington đang cố tình leo thang chiến tranh để kéo dài nó.
Trung Quốc cũng không tin rằng việc tìm kiếm cơ sở chung với Washington về cuộc chiến ở Ukraine sẽ có ý nghĩa cải thiện quan hệ Trung-Mỹ rộng rãi hơn. Ngay cả khi Bắc Kinh tham gia vào cuộc lên án của quốc tế đối với Nga, Hoa Kỳ sẽ không làm dịu chính sách ngăn chặn của mình đối với Trung Quốc. Kể từ khi cuộc chiến bắt đầu, một số quốc gia Đông Á đã công khai đặt câu hỏi liệu Washington có duy trì sự tập trung vào Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong khi châu Âu đang gặp khủng hoảng hay không. Đáp lại, chính quyền Biden đã nhanh chóng trấn an họ. Vào ngày 28 tháng 3, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Kathleen Hicks nói với các phóng viên: “Ngay cả khi chúng tôi đối đầu với các hoạt động ác ý của Nga, chiến lược quốc phòng mô tả bộ sẽ hành động khẩn cấp ra sao để duy trì và tăng cường khả năng răn đe với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong tư cách đối thủ cạnh tranh chiến lược và thách thức tiến độ nhất của chúng ta.” Ngày hôm sau, Biden nói với Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long rằng mặc dù Hoa Kỳ đang tập trung vào Ukraine, nhưng nước này “ủng hộ mạnh mẽ việc nhanh chóng thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có lý do gì để tin rằng bằng cách nào đó Washington sẽ thay đổi các ưu tiên này ngay cả khi Bắc Kinh tách rời khỏi Moscow. Trong mắt họ, việc lên án Nga một cách công khai và đứng về phía những bên đang thực thi các biện pháp trừng phạt chống lại nước này sẽ chỉ mở ra cơ hội cho Hoa Kỳ áp đặt các biện pháp trừng phạt thứ cấp đối với chính Trung Quốc. Hoa Kỳ đã đe dọa trừng phạt các công ty Trung Quốc làm ăn với Nga. Vào ngày 3 tháng 2, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Ned Price nói với các phóng viên: "Chúng tôi có một loạt các công cụ có thể triển khai nếu chúng tôi thấy các công ty nước ngoài, bao gồm cả những công ty ở Trung Quốc, cố gắng hết sức để che lấp các hành động kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ, để trốn tránh chúng, để làm ngơ chúng."
Sau khi quân đội Nga vượt biên giới sang Ukraine, Hoa Kỳ đã gây áp lực ngoại giao lên Trung Quốc. Vào giữa tháng 3, trước khi Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan gặp Yang Jiechi, Giám đốc Văn phòng Ủy ban Đối ngoại Trung ương Trung Quốc, Sullivan nói với báo chí: “Chúng tôi đang trực tiếp nói một cách riêng tư với Bắc Kinh rằng tuyệt đối sẽ có hậu quả cho các nỗ lực lớn nhằm trốn tránh lệnh trừng phạt hoặc hỗ trợ Nga trốn tránh chúng ”.
Con đường trung dung
Đây không phải là lần đầu tiên Bắc Kinh thấy mình bị kẹt giữa các cường quốc đối thủ lớn. Từ năm 1958 đến năm 1971, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phải đối mặt với môi trường quốc tế thù địch nhất trong lịch sử ngắn ngủi của mình. Trong thời kỳ này, nó phải đồng thời đương đầu với các mối đe dọa chiến lược từ Hoa Kỳ và Liên Xô. Đáp lại, chính phủ Trung Quốc dành toàn bộ nguồn lực kinh tế để chuẩn bị cho một cuộc chiến toàn diện chống lại một trong hai cường quốc. Để che chắn tốt hơn cơ sở kỹ nghệ của mình khỏi bị tấn công, họ đã chuyển nhiều nhà máy từ các khu vực phát triển hơn ở miền đông Trung Quốc sang các khu vực miền núi và kém phát triển phía tây, giấu chúng trong các hang động nhân tạo. Việc tái tổ chức kỹ nghệ quy mô lớn này đã đẩy Trung Quốc vào tình trạng khó khăn kinh tế nghiêm trọng, gây ra tình trạng thiếu hàng hóa trầm trọng và tình trạng nghèo đói lan rộng.
Ký ức về lịch sử tồi tệ này đã thông tri cho phản ứng của Trung Quốc đối với cuộc chiến ở Ukraine và củng cố cam kết tránh bị kẹp giữa Washington và Moscow một lần nữa. Do đó, các tuyên bố chính thức của Trung Quốc đã được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh kích động Nga. Chẳng hạn, trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng 3, ông Qin nói rõ rằng Bắc Kinh tìm kiếm mối quan hệ hợp tác với Moscow nhưng không ủng hộ cuộc chiến ở Ukraine. Ông nói: “Không có vùng cấm đoán nào đối với sự hợp tác giữa Trung Quốc và Nga, nhưng cũng có giới hạn cuối cùng, đó là các nguyên tắc và luật lệ được thiết lập trong Hiến chương Liên hiệp quốc,”. Trong một cuộc họp báo vào ngày 1 tháng 4, Wang Lutong, Tổng giám đốc phụ trách các vấn đề châu Âu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã tìm cách duy trì một thế thăng bằng tương tự: “Chúng tôi không cố tình làm bất cứ điều gì để lách khỏi các lệnh trừng phạt chống lại Nga do Mỹ và châu Âu áp đặt", Ông nói thế và nói thêm rằng" Trung Quốc không phải là một bên liên quan đến cuộc khủng hoảng ở Ukraine."
Khi lựa chọn con đường trung dung về vấn đề Ukraine, Trung Quốc đã hạn chế viện trợ quân sự cho Moscow nhưng vẫn duy trì quan hệ kinh doanh bình thường với Nga, một quyết định mà các nước khác cũng đã đưa ra. Thí dụ, Ấn Độ - một đối tác chiến lược của Hoa Kỳ - cũng đã áp dụng lập trường tương tự, đưa ra sự phân biệt rõ ràng giữa các vấn đề quân sự và kinh tế. Thậm chí, một số nước NATO đã tiếp tục mua khí đốt của Nga để sưởi ấm cho các ngôi nhà trong suốt mùa đông. Nếu cuộc chiến ở Ukraine kéo dài, nhiều quốc gia có thể bắt đầu bắt chước chính sách cân bằng của Trung Quốc để giảm thiểu thiệt hại kinh tế do chiến tranh gây ra.
Là cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc dự định đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các chuẩn mực kinh tế hoàn cầu. Nhưng nước này không có tham vọng đóng vai trò hàng đầu trong các vấn đề an ninh hoàn cầu, đặc biệt là trong các vấn đề chiến tranh, vì sự chênh lệch quân sự quá lớn giữa mình và Mỹ. Định hình một môi trường hòa bình thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc vẫn là một mục tiêu ngoại giao quan trọng. Chừng nào Hoa Kỳ không ủng hộ quân sự cho việc Đài Loan tuyên bố độc lập rõ ràng, thì Trung Quốc khó có thể đi chệch hướng khỏi con đường phát triển hòa bình này.