Linh mục tiến sĩ James Bradley, Giảng sư Giáo luật tại Đại học Công Giáo America ở Washington, DC, và là một linh mục của Bản quyền Tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, nhân dịp Đức Bênêđictô qua đời, đã thuật lại ảnh hưởng của vị Giáo hoàng này trong việc ngài từ Anh giáo chuyển sang Công Giáo (https://catholicherald.co.uk/benedict-xvis-most-tangible-legacy-the-ordinariates):
Tôi không biết mình đã từng gặp một người Công Giáo thực hành đạo nào trước khi vào đại học chưa. Tôi được biết một người bạn ở trường có tên họ Ái nhĩ lan và cha mẹ anh có đi lễ. Nhưng lớn lên trong một gia đình Anh giáo và theo học các trường Anh giáo, kiến thức của tôi về Công Giáo trước đó là con số không. Một trải nghiệm duy nhất xẩy ra trong một chuyến đi Rome. Chúng tôi ở đó vài ngày, và một số ít người trong chúng tôi quyết định thử gặp Đức Giáo Hoàng.
Chúng tôi nhận được vé dự Buổi yết kiến chung, và vào một buổi sáng thứ Tư buồn tẻ, đứng trong phòng yết kiến Phaolô VI khi Đức Gioan Phaolô II, lúc đó đã khá già và không được khỏe, đi ngang qua chúng tôi ở lối đi giữa. Tôi đã chụp một bức ảnh của vị giáo hoàng ốm yếu và nhớ đã khoe nó khi tôi về nhà như một trong nhiều điểm tham quan trong chuyến đi, cùng với Pantheon, Forum và chiếc bánh pizza mà chúng tôi đã ăn vào đêm cuối cùng.
Đến lúc đó, đức tin của tôi, ngược lại, đang tăng trưởng. Tôi được hưởng ơn ích từ một nền tảng Anh giáo vững chắc: giáo xứ nông thôn tốt, ca đoàn nhà thờ và tuyên úy trường học tận tụy. Nhưng Công Giáo không nằm trong tầm ngắm của tôi. Tôi không có ác cảm với nó - ít nhất là không hơn bất cứ cậu học sinh nào có giáo viên lịch sử dường như không buộc phải bắt kịp các bài viết của Eamon Duffy - tôi chỉ đơn giản là không có quan điểm mạnh mẽ nào về nó.
Điều trên đã thay đổi khi tôi tiếp xúc với Anh-Công Giáo. Tôi bắt đầu đánh giá cao nghi thức và nghi lễ của Công Giáo trong việc thờ phượng, và qua đó bắt đầu hỏi nó đến từ đâu và tại sao nó lại quan trọng. Điều này lần lượt dẫn đến việc khám phá ra đức tin mà sự thờ phượng đặc biệt này đã tìm cách thể hiện, và chẳng mấy chốc, tôi đã trở thành một người theo chủ nghĩa Giáo hoàng Anh đầy thuyết phục…
Cái bước đi nước kiệu hướng tới Giáo Hội Công Giáo này đã có một hướng rõ ràng hơn khi tôi được chấp nhận làm mục vụ trong Giáo hội Anh. Tại trường thần học ở Oxford, tôi bắt đầu củng cố bằng lý luận thần học những gì tôi đã tiếp nhận theo bản năng. Các Giáo phụ rất quan trọng, nhưng các tác phẩm của các vị giáo hoàng sau này và của Công đồng Vatican II cũng vậy. Những điều này đã được trình bày và trở nên rõ ràng như là những nguồn học thuyết mạch lạc và đáng tin cậy – ít nhất là vào thời điểm đó – chỉ đơn giản là khẳng định một cách thuận tiện các quan điểm hiện có.
Giáo hội Anh vào đầu thập niên 2000 không phải là nơi thích hợp để đưa ra những kết luận này. Cuộc tranh cãi về các nữ linh mục một thập niên trước đó vẫn chưa lắng xuống, và một cơn bão mới đang ập đến với kế hoạch phong chức giám mục cho phụ nữ. Đây là một vấn đề mà tôi đã cố gắng hết sức để tránh có một quan điểm chắc chắn. Nhưng sự mơ hồ của tôi đã kết thúc khi những mệnh lệnh mà tôi khao khát nhận được ngày càng gần hơn. Đối với tôi, ít nhất, tính toàn vẹn của những gì chúng tôi đã làm trong Giáo hội, của những gì chúng tôi nói chúng tôi tin và của các nguồn mà chúng tôi tìm cho cả hai, chỉ có ý nghĩa - chỉ có tính toàn vẹn - nếu chúng tôi “tất cả đều ở trong”. Tất nhiên, điều này dẫn đến một con đường rõ ràng hơn.
Đức Bênêđictô XVI đã bước vào cái ngưỡng quá độ [liminality] này. Từng bị thuyết phục trước các chân lý của đức tin Công Giáo nhưng ý thức sâu sắc rằng mình đang ở bên ngoài những giới hạn hữu hình của nó, tôi đứng “trên bờ sông Babylon” mà không biết phải rẽ vào đâu. Trong sự bối rối này xuất hiện một vị giáo hoàng người Bavaria, người ngay lập tức dường như hiểu chính xác cách chúng tôi tri nhận cuộc sống Kitô hữu của mình, chính xác cách chúng tôi sa vào sự hỗn độn của giáo hội, và (môt cách quan trọng) chính cách chúng tôi xem việc thờ phượng không những chỉ là nghĩa vụ đơn thuần, mà còn là biểu hiện cao nhất và sống động nhất của sự sống trong Chúa Giêsu Kitô. Đáng ngạc nhiên hơn nữa, nhân vật này – người ngẫu nhiên bị nhiều người có vẻ không thích - muốn chúng tôi mang tất cả những điều đó vào Giáo Hội Công Giáo, và thậm chí nhờ đó làm phong phú thêm cuộc sống của chính Giáo hội này.
Như tôi đã nói, trước thời điểm này, tôi không có ác cảm với Giáo Hội Công Giáo. Nó chỉ đơn giản là có vẻ không có liên quan. Tuy nhiên, ở Đức Bênêđictô, tôi không những chỉ thấy một nhà lãnh đạo giáo hội cống hiến tất cả những gì mà trái tim Anh giáo quanh co của chúng tôi tìm kiếm, mà còn làm như vậy không phải trong sự cô lập vốn đã trở thành tiêu chuẩn của chúng tôi, mà với tư cách là Mục tử tối cao của Giáo hội hoàn vũ. Nói tóm lại: tôi đã nhìn thấy ở ngài, và lần đầu tiên, vị giáo hoàng của thiên niên kỷ thứ nhất mà tôi đã thấy ở các Giáo phụ, và do đó, theo bản năng, tôi đã tin tưởng ngài khi ngài cho thấy định chế này vẫn còn được tìm thấy trong ngôi giáo hoàng ngày nay.
Hiện thân của cuộc hành trình bản thân này, mà tôi luôn coi như phát triển từ mối liên kết bản thân với Đức Giáo Hoàng Bênêđictô, đã xẩy đến với tông hiến Anglicanorum coetibus năm 2010. Các tòa Bản quyền tòng nhân là di sản hữu hình nhất của triều đại giáo hoàng Bênêđictô, được thiết lập vĩnh viễn viễn kiến phụng vụ và giáo hội học của ngài trong các cơ cấu. Tất nhiên, đây là lý do tại sao việc mất ngài đối với chúng tôi ngay lập tức là một nguyên nhân gây nên nỗi buồn và lòng biết ơn.
Chúng tôi sẽ vô cùng hoài nhớ ngài và chúng tôi thương tiếc sự ra đi của ngài, nhưng chúng tôi cũng biết rằng sự phong phú trong suy nghĩ và niềm tin của ngài vẫn tiếp tục trong cộng đồng của chúng tôi, trong sự thờ phượng của chúng tôi và trong cuộc sống của hàng ngàn cựu tín hữu Anh giáo giờ đây đang vui mừng trong sự hiệp thông trọn vẹn và hòa bình của những gì Thánh John Henry Newman gọi là “một đoàn chiên của Đấng Cứu Chuộc”.