Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, ảnh chụp ngày 20 tháng 9 năm 2023. Nguồn: © Mazur/cbcew.org.uk.


Edgar Beltrán, trong bản tin ngày 05/11/2025 của The Pillar, tường trình rằng: Hôm thứ Ba, Bộ Giáo lý Đức tin đã trình bày một bản ghi chú giáo lý về các tước hiệu khác nhau của Đức Mẹ và sự hợp tác của Đức Mẹ trong công trình cứu độ.

Tài liệu dài hơn 13,000 từ, được công bố ngày 4 tháng 11, đã có cách tiếp cận mang tính phê phán đối với các tước hiệu như "Đồng Công Cứu Chuộc" và "Đấng Trung Gian của mọi Ân Sủng".

Trình bày văn bản tại một cuộc họp báo tại Giáo triều Dòng Tên ở Rome, Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin (DDF), cho biết các danh xưng này “gây nhầm lẫn đức tin của người dân thường với những vấn đề không bổ sung bất cứ điều gì thiết yếu”.

Đáng chú ý nhất, văn kiện mới xác định rằng nên tránh sử dụng danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” vì nó “có nguy cơ che khuất sự trung gian cứu độ độc nhất của Chúa Kitô và do đó có thể tạo ra sự nhầm lẫn và mất cân bằng trong sự hài hòa của các chân lý đức tin Kitô giáo”.

Văn bản thừa nhận rằng danh xưng này đã được nhiều giáo hoàng sử dụng, bao gồm cả Thánh Gioan Phaolô II. Mặc dù những người ủng hộ cho rằng thần học đằng sau danh xưng “Đồng Công Cứu Chuộc” có thể bắt nguồn từ các Giáo Phụ, nhưng bản thân danh xưng này đã được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 15 và chỉ được sử dụng rộng rãi vào thế kỷ 19.

Mặc dù các định nghĩa có khác nhau, nhưng những người ủng hộ thường hiểu “Đồng Công Cứu Chuộc” là Đức Trinh Nữ Maria có sự cộng tác đặc biệt vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhưng phải phục tùng Người. Tuy nhiên, danh xưng này đã bị chỉ trích trong lịch sử, với những người phản đối cảnh báo rằng tiền tố “co-” có thể bị hiểu lầm là ám chỉ Đức Maria là “đấng đồng cứu chuộc” ngang hàng với Chúa Kitô.



Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã ký văn kiện sau khi được phê chuẩn trong Phiên họp Thường kỳ của Thánh bộ vào ngày 26 tháng 3.

Đức Hồng Y Fernández nói với tờ The Pillar rằng văn kiện này không có những thay đổi lớn sau khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô qua đời vào ngày 21 tháng 4.

Đức Hồng Y nói, “Sau [Phiên họp Thường kỳ], các thành viên của Bộ Giáo lý Đức tin có thể gửi một số đề xuất thay đổi, chi tiết nhỏ, chỉnh sửa văn phong… [nhưng chỉ] những thay đổi nhỏ”.

ĐHY Fernández nói thêm rằng văn kiện được trình bày vào ngày 4 tháng 11 về cơ bản giống với phiên bản đã được Bộ Giáo lý Đức tin phê duyệt và bỏ phiếu vào tháng 3.

Đức Hồng Y lưu ý rằng buổi trình bày tài liệu diễn ra tại hội trường của Giáo triều Dòng Tên chứ không phải tại văn phòng báo chí của Vatican vì "tài liệu không phù hợp cho việc đối thoại giữa các nhà báo và Bộ."

Nhưng khi buổi ra mắt tài liệu được công khai, một người đàn ông giấu tên đã ngắt lời ĐHY Fernández khi ngài đang cố gắng đưa ra một ví dụ về một loại "chủ nghĩa cực đoan về Đức Mẹ" mà người Công Giáo nên tránh.

Người đàn ông nói rằng ví dụ đó chính là "giáo huấn của Giáo hội và chân lý vĩnh cửu của Giáo hội", và cho rằng tài liệu mới được "xây dựng mà không cân nhắc đến cảm xúc của dân Chúa."



Trong phần giới thiệu, tài liệu cho biết mục đích là làm rõ "theo nghĩa nào thì một số tước hiệu và cách diễn đạt liên quan đến Đức Mẹ có thể chấp nhận được [và] đào sâu nền tảng đúng đắn của lòng sùng kính Đức Mẹ bằng cách xác định vị trí của Đức Mẹ trong mối quan hệ của Mẹ với các tín hữu dưới ánh sáng của Mầu nhiệm Chúa Kitô là Đấng Trung Gian và Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Điều này đòi hỏi một lòng trung thành sâu sắc với bản sắc Công Giáo, đồng thời cũng đòi hỏi một nỗ lực đại kết đặc biệt."

Văn bản cho biết một số lòng sùng kính và yêu cầu tín điều về Đức Mẹ không thể được coi là “lòng sùng kính phổ biến” và chúng “cuối cùng đề xuất một sự phát triển tín điều cụ thể và thể hiện mạnh mẽ thông qua mạng xã hội, thường gây hoang mang cho các tín hữu bình thường”, điều này đã thúc đẩy Bộ Giáo lý Đức tin công bố ghi chú tín lý.

Ghi chú cho biết: “Tài liệu này xem xét những đề xuất như vậy để cho thấy một số người đáp ứng lòng sùng kính Đức Mẹ một cách chân chính ra sao khi lấy cảm hứng từ Tin Mừng, và những người khác nên tránh ra sao vì lòng sùng kính của họ không thúc đẩy sự chiêm niệm đúng đắn về sự hài hòa của toàn bộ sứ điệp Kitô giáo”.

Ghi chú cho biết nó phù hợp với Quy tắc năm 2024 của Bộ Giáo lý Đức tin về Tiến trình Phân định các Hiện tượng Được cho là Siêu nhiên, vì các diễn đạt và danh xưng mà tài liệu đề cập đến “thường được sử dụng liên quan đến các hiện tượng như vậy”.

Tuy nhiên, tài liệu cho rằng “những tước hiệu này – một số đã xuất hiện trong các tác phẩm của các Giáo Phụ – không phải lúc nào cũng được sử dụng chính xác, và ý nghĩa của chúng đôi khi bị thay đổi hoặc giải thích sai… Một số tước hiệu gây ra những khó khăn đáng kể về nội dung vì chúng thường có thể dẫn đến sự hiểu lầm về vai trò của Đức Maria.”

Do đó, tài liệu này nhằm mục đích “duy trì sự cân bằng cần thiết phải được thiết lập trong các mầu nhiệm Kitô giáo giữa sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô và sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ, và tài liệu này tìm cách thể hiện điều này qua các tước hiệu khác nhau của Đức Maria.”



Những người ủng hộ thuật ngữ “Đồng Công Cứu Chuộc” cho rằng họ không có ý nói rằng Đức Mẹ có một vị thế ngang bằngvới Chúa Kitô trong công trình cứu chuộc nhân loại, nhưng đúng hơn, Mẹ là người cộng tác đầu tiên với Chúa Kitô trong công trình cứu chuộc.

Ví dụ, nhà Thánh Mẫu học người Pháp thế kỷ 20, Cha Emile Neubert, S.M., đã định nghĩa giáo lý này bằng cách nói rằng “chúng ta được cứu rỗi trước hết và chủ yếu là nhờ Chúa Kitô, và thứ yếu là nhờ hành động của Đức Maria trong sự phục tùng hành động của Chúa Kitô.”

Mặc dù tài liệu không trực tiếp chỉ trích ý tưởng này, nhưng nó nói rằng “khi một cách diễn đạt đòi hỏi nhiều lần giải thích lặp đi lặp lại để tránh đi chệch khỏi ý nghĩa đúng đắn, thì nó không phục vụ đức tin của dân Chúa và trở nên vô ích.”

Tài liệu nói: “[Điều đó] không giúp tôn vinh Đức Maria là người cộng tác đầu tiên và quan trọng nhất trong công trình Cứu chuộc và ân sủng, vì nó có nguy cơ làm lu mờ vai trò độc nhất của Chúa Giêsu Kitô… điều này sẽ không phải là một vinh dự thực sự dành cho Mẹ của Người”.

Những người ủng hộ danh hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” bắt nguồn từ các Giáo Phụ, như Thánh Irênê thành Lyon trong tác phẩm Chống Lại Các Dị Giáo đã gọi Đức Maria là “nguyên nhân cứu độ, cho cả chính Mẹ và toàn thể nhân loại”.

Bản ghi chú đề cập rằng Thánh Augustinô thành Hippo cũng gọi Đức Mẹ là “người cộng tác” trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, “nhấn mạnh cả hành động của Đức Maria bên cạnh Chúa Kitô cũng như sự tùng phục của Mẹ đối với Người, vì Đức Maria cộng tác với Chúa Kitô để ‘các tín hữu được sinh ra trong Giáo Hội.’”

Bản ghi chú lưu ý rằng các giáo hoàng như Thánh Piô X, Piô XI và Thánh Gioan Phaolô II đã sử dụng danh hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc”, nhưng “không giải thích nhiều về ý nghĩa của nó”.

Bản ghi chú cho biết: “Nhìn chung, các ngài đã trình bày danh hiệu này theo hai cách cụ thể: ám chỉ đến chức làm mẹ thần thiêng của Đức Maria (trong chừng mực Mẹ, với tư cách là Mẹ, đã làm cho Công trình Cứu Chuộc mà Chúa Kitô đã hoàn thành) hoặc ám chỉ đến sự kết hợp của Mẹ với Chúa Kitô trên Thập Giá cứu chuộc”.

Tài liệu nhắc lại rằng Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, tương lai sẽ là Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, đã phát biểu trong một cuộc họp của Văn phòng Giáo lý Vatican năm 1996 rằng yêu cầu định nghĩa giáo lý “Đồng Công Cứu Chuộc” hay “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” là không thể chấp nhận.

Đức Ratzinger, lúc đó là người đứng đầu Văn phòng Giáo lý, cho biết: “Ý nghĩa chính xác của những tước hiệu này không rõ ràng, và giáo lý chứa đựng trong đó chưa chín muồi… Điều không rõ ràng là giáo lý được diễn đạt trong những tước hiệu này hiện diện như thế nào trong Kinh Thánh và truyền thống tông đồ.”

Năm 2002, Đức Ratzinger cũng công khai tuyên bố rằng “công thức ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ đi quá xa khỏi ngôn ngữ của Kinh Thánh và của các Giáo Phụ, do đó gây ra nhiều hiểu lầm.”

Tài liệu biện minh cho nhu cầu làm rõ như vậy bằng cách nói rằng: “Vì cần phải giải thích vai trò phụ thuộc của Đức Maria đối với Chúa Kitô trong công trình Cứu Chuộc, nên việc dùng danh xưng ‘Đồng Công Cứu Chuộc’ để định nghĩa sự hợp tác của Đức Maria là không phù hợp. Danh xưng này có nguy cơ che khuất sự trung gian cứu độ độc nhất của Chúa Kitô và do đó có thể tạo ra sự nhầm lẫn và mất cân bằng trong sự hài hòa của các chân lý đức tin Kitô giáo.”

Tại buổi họp báo công bố tài liệu, Đức Hồng Y Fernández phát biểu: “Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô không từ chối một số danh xưng vì thiếu tình yêu đối với Đức Mẹ, ngược lại, đó là một hành động yêu thương đối với Đức Mẹ.”



Tài liệu cũng chỉ trích danh xưng “Đấng Trung Gian”. Tài liệu nói rằng “Đức Maria có vai trò trung gian thực sự trong việc cho phép Con Thiên Chúa Nhập Thể trong nhân loại chúng ta, vì Đấng Cứu Chuộc sẽ được ‘sinh ra bởi một người nữ’ (Gl 4:4)… Lời đáp trả của Đức Maria đã mở ra cánh cổng Cứu Chuộc mà toàn thể nhân loại đã mong đợi.”

Tài liệu bổ sung: “Thuật ngữ của Công đồng Vatican II về sự trung gian chủ yếu ám chỉ Chúa Kitô; đôi khi cũng ám chỉ Đức Maria, nhưng theo một cách rõ ràng là phụ thuộc. Thực tế, Công đồng đã muốn sử dụng một thuật ngữ khác cho Đức Maria: một thuật ngữ tập trung vào sự hợp tác hoặc sự trợ giúp của người mẹ… chúng ta không thể nói về bất cứ sự trung gian nào khác trong ân sủng ngoài sự trung gian của Con Thiên Chúa nhập thể.”

Sự chỉ trích của tài liệu đối với danh xưng “Đấng Trung Gian” cũng tương tự như sự chỉ trích đối với danh xưng “Đồng Cứu Chuộc”. Mặc dù văn bản không chỉ trích thần học nền tảng của thuật ngữ này, ĐHY Fernández cho rằng thuật ngữ này có thể gây nhầm lẫn.

Tài liệu cho biết: “Cụm từ ‘trung gian tham dự’ có thể diễn tả một ý nghĩa chính xác và giá trị về vai trò của Đức Maria, nhưng nếu bị hiểu sai, nó có thể dễ dàng làm lu mờ hoặc thậm chí mâu thuẫn với nó. Sự trung gian của Chúa Kitô, trong một số khía cạnh có thể ‘bao gồm’ hoặc được chia sẻ, trong những khía cạnh khác lại mang tính loại trừ và không thể truyền đạt”.

Tài liệu này cũng đặt câu hỏi về danh hiệu “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng”, cho rằng Đức Maria “đôi khi được miêu tả như thể ngài sở hữu một kho tàng ân sủng tách biệt với Thiên Chúa… Ngài cũng thường được miêu tả hoặc tưởng tượng như một nguồn mạch tuôn chảy mọi ân sủng.”

Tài liệu cho biết: “Trong một ý niệm như vậy, điều không mấy rõ ràng là chính Chúa – với sự toàn năng quảng đại và tự do của Người – đã muốn liên kết ngài với việc chia sẻ sự sống thần linh phát xuất từ trung tâm duy nhất là Trái Tim Chúa Kitô, chứ không phải từ Trái Tim của Đức Maria… Những quan niệm như vậy nâng Đức Maria lên cao đến mức vị trí trung tâm của chính Chúa Kitô có thể biến mất hoặc ít nhất, bị ràng buộc”.

Tài liệu lưu ý rằng Đức Hồng Y Ratzinger, trong thời gian đứng đầu văn phòng giáo lý, đã nói rằng danh hiệu này không được đặt nền tảng rõ ràng trong Sách Khải Huyền, và DDF hiện nhận ra “những khó khăn mà danh hiệu này đặt ra, cả về mặt suy tư thần học lẫn linh đạo”.

Tài liệu minh xác rằng trong khi “Thiên Chúa nâng chúng ta lên để vượt qua sự mất cân xứng vô hạn ngăn cách chúng ta với sự sống thần linh; chỉ có Người hành động trong chúng ta với sự ngự trị Ba Ngôi của Người; chỉ có Người mới đi vào trong chúng ta và biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành những người được thông phần vào sự sống thần linh của Người”, thì sự hợp tác như vậy “trong trường hợp của Đức Maria, được phân biệt với sự hợp tác của bất cứ con người nào khác do đặc tính từ mẫu mà chính Chúa Kitô đã ban cho Mẹ khi ở trên thập giá”.

Theo tài liệu, danh hiệu “Đấng Trung Gian của Mọi Ân Sủng” có nguy cơ “trình bày Đức Maria như là người phân phối các ân huệ hoặc năng lượng thiêng liêng ngoài mối quan hệ bản thân của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô”.

Tuy nhiên, ghi chú cũng cho thấy cũng có một cách diễn giải chấp nhận được về thuật ngữ “Mẹ Ân Sủng” hay “Mẹ trong trật tự Ân Sủng”, khi “được xem xét liên quan đến sự trợ giúp từ mẫu của Đức Maria trong nhiều khoảnh khắc khác nhau trong cuộc sống của chúng ta… Theo cách này, Đức Maria, với tư cách là Mẹ, có sự hiện diện trong đời sống hằng ngày của các tín hữu lớn lao hơn nhiều so với sự gần gũi mà bất cứ vị thánh nào khác có thể có.”

Tài liệu cho biết nên sử dụng danh hiệu “Mẹ trong trật tự Ân Sủng”, như được sử dụng trong văn kiện Lumen Gentium của Công đồng Vatican II, nhưng bất cứ cách hiểu nào về danh hiệu này cũng cần đặc biệt chú ý đến ba tiêu chuẩn.

Thứ nhất, tài liệu nói rằng, “chúng ta phải suy gẫm về cách Đức Maria nuôi dưỡng ‘sự kết hợp trực tiếp’ của chúng ta với Chúa – điều mà chính Chúa tạo ra bằng cách ban ân sủng và chúng ta chỉ có thể nhận được từ Thiên Chúa – và không nên nghĩ rằng sự kết hợp của chúng ta với Đức Maria trực tiếp hơn sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô.”

Thứ hai, tài liệu viết, “Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng ‘ảnh hưởng cứu độ của Đức Trinh Nữ Maria trên con người không bắt nguồn từ bất cứ sự cần thiết nội tại nào mà từ sự sắp đặt của Thiên Chúa’... Do đó, không thể chấp nhận việc trình bày hành động của Đức Maria như thể Thiên Chúa cần đến ngài để hoàn thành ơn cứu độ.”

Thứ ba, tài liệu viết, “khi giải thích sự trung gian của Đức Maria, cần nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Cứu Độ chúng ta và chỉ có Thiên Chúa mới áp dụng công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, công nghiệp duy nhất cần thiết và hoàn toàn đủ cho sự công chính hóa của chúng ta. Đức Maria không thay thế Chúa trong bất cứ hành động nào mà Người chưa làm... và cũng không bổ sung cho Người.”

Tài liệu nói: “Vì Đức Maria không thêm bất cứ điều gì vào sự trung gian cứu độ của Chúa Kitô trong việc thông truyền ân sủng, nên không nên coi Đức Maria là tác nhân công cụ của sự ban tặng tự do đó. Nếu Đức Maria đồng hành với một hành động của Chúa Kitô — nhờ công trình của chính Người — thì không bao giờ nên coi Đức Maria ngang hàng với Người”.

Ghi chú của biên tập viên: Đoạn thứ hai của bài viết này đã ghi sai rằng tài liệu của Vatican chỉ trích danh hiệu "Mẹ của mọi ân sủng". Thay vào đó, tài liệu chỉ trích danh hiệu "Đấng Trung gian của mọi ân sủng".