4. Một số vi phạm nghiêm trọng về nhân phẩm
33. Dưới ánh sáng của những suy tư trước đây về tính trung tâm của phẩm giá con người, phần cuối cùng của Tuyên bố này đề cập đến một số vi phạm chuyên biệt và nghiêm trọng đối với phẩm giá đó. Nó làm như vậy theo tinh thần riêng của huấn quyền Giáo hội, được phát biểu đầy đủ trong giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây, như đã đề cập trước đây. Chẳng hạn, một mặt Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ngừng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải tôn trọng phẩm giá con người: “Mọi người đều có quyền sống có phẩm giá và được phát triển toàn diện; quyền cơ bản này không thể bị từ chối bởi bất cứ quốc gia nào. Mọi người có quyền này ngay cả khi họ không có năng suất lao động hoặc sinh ra đã có hoặc đã phát triển những hạn chế. Điều này không làm mất đi phẩm giá cao quý của họ với tư cách là con người, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh mà dựa trên giá trị nội tại của con người họ. Trừ khi nguyên tắc cơ bản này được tôn trọng, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ cũng như cho sự sống còn của nhân loại.” [52] Mặt khác, ngài không ngừng chỉ ra những vi phạm cụ thể về phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, đồng thời kêu gọi mỗi chúng ta thức tỉnh trước trách nhiệm của chúng ta và sự cần thiết phải dấn thân vào một cam kết cụ thể về vấn đề này.
34. Khi đề cập một số trong nhiều vi phạm nghiêm trọng về phẩm giá con người ngày nay, chúng ta có thể dựa vào những giáo huấn của Công đồng Vatican II, trong đó nhấn mạnh rằng “tất cả các tội chống lại chính sự sống, như giết người, diệt chủng, phá thai, an tử và cố ý tự sát” phải được nhìn nhận là trái với phẩm giá con người.[53] Hơn nữa, Công đồng khẳng định rằng “tất cả những vi phạm đến sự toàn vẹn của con người, chẳng hạn như cắt xẻo, tra tấn về thể xác và tinh thần, những áp lực tâm lý quá mức,” cũng xâm phạm đến phẩm giá của chúng ta.[54] Cuối cùng, nó tố cáo “tất cả các hành vi vi phạm nhân phẩm, chẳng hạn như điều kiện sống dưới mức nhân bản, bỏ tù tùy tiện, trục xuất, làm nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, điều kiện làm việc xuống cấp nơi các cá nhân bị coi như công cụ kiếm lợi chứ không phải là những con người tự do và có trách nhiệm.” [55] Ở đây, người ta cũng nên đề cập đến án tử hình, vì điều này cũng vi phạm phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, bất kể hoàn cảnh nào. [56] Về vấn đề này, chúng ta phải thừa nhận rằng “việc kiên quyết bác bỏ án tử hình cho thấy mức độ có thể thừa nhận phẩm giá bất khả nhượng của mỗi con người và chấp nhận rằng họ có một vị trí trong vũ trụ này. Nếu tôi không phủ nhận phẩm giá đó đối với những tên tội phạm tồi tệ nhất thì tôi sẽ không phủ nhận nó với bất cứ ai. Tôi sẽ cho mọi người khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi, bất chấp mọi khác biệt của chúng ta.” [57] Cũng rất phù hợp để tái khẳng định phẩm giá của những người bị giam giữ, những người thường phải sống trong những điều kiện không xứng đáng. Cuối cùng, cần phải nói rằng – ngay cả khi ai đó đã phạm những tội ác nghiêm trọng – việc thực hành tra tấn hoàn toàn trái ngược với phẩm giá vốn có của mỗi con người.
35. Mặc dù không tuyên bố là đầy đủ, các đoạn văn sau đây lưu ý đến một số vi phạm nghiêm trọng về phẩm giá con người có liên quan đặc biệt.
Bi kịch nghèo đói
36. Một trong những hiện tượng đóng góp đáng kể vào việc phủ nhận phẩm giá của rất nhiều người là tình trạng nghèo đói cùng cực, có liên quan đến sự phân phối của cải không đồng đều. Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Một trong những bất công lớn nhất trong thế giới đương thời chính là ở chỗ: những người có nhiều thì tương đối ít và những người hầu như không có gì thì lại nhiều. Đó là sự bất công trong việc phân phối tồi tệ hàng hóa và dịch vụ mà khởi nguyên vốn dành cho mọi người.” [58] Hơn nữa, sẽ là sai lầm nếu phân biệt sơ sài giữa các quốc gia “giàu” và “nghèo”, vì Đức Bênêđíctô XVI đã thừa nhận rằng “việc của cải trên thế giới đang tăng lên về mặt tuyệt đối, nhưng sự bất bình đẳng lại gia tăng. Ở các nước giàu, các thành phần mới của xã hội đang rơi vào tình trạng nghèo đói và các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện. Ở những khu vực nghèo hơn, một số nhóm được hưởng một kiểu ‘siêu phát triển’ thuộc loại lãng phí và tiêu dùng, tạo thành một sự tương phản không thể chấp nhận được với tình trạng thiếu thốn phi nhân tính đang diễn ra”. Vụ “‘tai tiếng về sự bất bình đẳng rõ ràng’ vẫn tiếp tục,”[59] trong đó phẩm giá của người nghèo bị phủ nhận gấp đôi vì thiếu các nguồn lực sẵn có để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ và sự thờ ơ của những người xung quanh đối với họ.
37. Do đó, với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người ta phải kết luận rằng “sự giàu có đã tăng lên, nhưng cùng với sự bất bình đẳng, dẫn đến ‘các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện’. Chủ trương cho rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo được đưa ra bằng cách đo lường tình trạng nghèo đói với tiêu chuẩn từ quá khứ không tương ứng với các thực tại ngày nay.”[60] Kết quả là, nghèo đói “có thể mang nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về việc giảm chi phí lao động mà không quan tâm đến hậu quả nghiêm trọng của nó, vì tỷ lệ thất nghiệp mà nó trực tiếp tạo ra dẫn đến tình trạng nghèo đói gia tăng.”[61] Trong số “những tác động tàn phá của đế chế tiền bạc,”[62] cần phải thừa nhận rằng “không có sự nghèo đói nào tệ hại hơn tình trạng nghèo đói cướp đi việc làm và phẩm giá của việc làm.”[63] Hơn nữa, nếu một số người sinh ra ở một quốc gia hoặc gia đình mà họ có ít cơ hội phát triển hơn, chúng ta nên thừa nhận rằng điều này trái với phẩm giá của họ, vốn là phẩm giá giống như phẩm giá của những người sinh vào một gia đình hay quốc gia giàu có. Tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về sự bất bình đẳng rõ rệt này, mặc dù ở những mức độ khác nhau.
Chiến tranh
38. Một thảm kịch khác phủ nhận phẩm giá con người, cả trong quá khứ lẫn ngày nay, đó là chiến tranh: “Chiến tranh, các cuộc tấn công khủng bố, đàn áp chủng tộc hoặc tôn giáo, và nhiều hành vi xúc phạm phẩm giá con người […] 'đã trở nên phổ biến đến mức tạo nên cuộc 'Chiến tranh thế giới thứ ba' diễn ra từng phần.' thực sự.” [64] Với dấu vết tàn phá và đau khổ, chiến tranh tấn công phẩm giá con người trong cả ngắn hạn lẫn dài hạn: “Trong khi tái khẳng định quyền bất khả xâm phạm để tự vệ và trách nhiệm bảo vệ những người mà mạng sống bị đe dọa, chúng ta phải thừa nhận rằng chiến tranh luôn là 'thất bại của nhân loại'. Không có cuộc chiến nào đáng giá bằng những giọt nước mắt của người mẹ chứng kiến con mình bị cắt xẻo hoặc bị giết; không có cuộc chiến nào đáng để mất đi mạng sống của một con người, một hữu thể thánh thiêng được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Đấng Tạo Hóa; không có cuộc chiến nào đáng để đầu độc ngôi nhà chung của chúng ta; và không có cuộc chiến tranh nào đáng để những người bị buộc phải rời bỏ quê hương và bị tước đoạt, từ lúc này sang lúc khác, quê hương và tất cả gia đình, tình bạn, các mối quan hệ văn hóa và xã hội đã được xây dựng, đôi khi qua nhiều thế hệ, từ lúc này sang lúc khác.” [65] Tất cả các cuộc chiến tranh, chỉ vì chúng mâu thuẫn với phẩm giá con người, đều là “những xung đột không giải quyết được vấn đề mà chỉ làm tăng thêm vấn đề.” [66] Điểm này thậm chí còn quan trọng hơn trong thời đại chúng ta khi nó đã trở nên phổ biến đối với rất nhiều thường dân vô tội thiệt mạng ngoài phạm vi chiến trường.
39. Vì thế, ngay cả ngày nay, Giáo hội cũng không thể không biến những lời của các Đức Giáo Hoàng thành của mình, lặp lại cùng với Thánh Giáo hoàng Phaolô VI: “jamais plus la guerre, jamais plus la guerre!” [“không bao giờ chiến tranh nữa, không bao giờ chiến tranh nữa!”]. [67] Hơn nữa, cùng với Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hội nài xin “nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người: Đừng giết người! Đừng chuẩn bị sự hủy diệt và tiêu diệt con người! Hãy nghĩ tới những anh chị em của bạn đang phải chịu đói khát và đau khổ! Hãy tôn trọng phẩm giá và tự do của mỗi người!” [68] Hơn bao giờ hết, đây là tiếng kêu của Giáo hội và của toàn thể nhân loại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này bằng cách tuyên bố: “Chúng ta không còn có thể coi chiến tranh là một giải pháp vì những rủi ro của nó có thể sẽ luôn lớn hơn những lợi ích được cho là của nó. Theo quan điểm này, ngày nay rất khó viện dẫn các tiêu chuẩn hợp lý đã được xây dựng từ các thế kỷ trước để nói về khả năng xảy ra một 'cuộc chiến tranh chính nghĩa'. Không bao giờ chiến tranh nữa!”[69] Vì nhân loại thường rơi vào những sai lầm tương tự như thời chiến tranh quá khứ, “để biến hòa bình thành hiện thực, chúng ta phải tránh xa luận lý về tính hợp pháp của chiến tranh.”[70] Mối quan hệ mật thiết giữa đức tin và phẩm giá con người có nghĩa là sẽ mâu thuẫn nếu chiến tranh dựa trên niềm tin tôn giáo: “Người kêu cầu danh Thiên Chúa để biện minh cho chủ nghĩa khủng bố, bạo lực và chiến tranh là không đi theo con đường của Thiên Chúa. Chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành cuộc chiến chống lại chính tôn giáo.” [71]
Nỗi khổ cực của di dân
40. Di dân là một trong những nạn nhân đầu tiên của nhiều hình thức nghèo đói. Nhân phẩm của họ không chỉ bị phủ nhận ở quê hương, [72] mà mạng sống của họ cũng bị đe dọa vì họ không còn phương tiện để lập gia đình, làm việc hoặc để nuôi sống bản thân. [73] Một khi họ đã đến những quốc gia có thể chấp nhận họ, “những người di cư không được coi là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng họ có cùng phẩm giá nội tại như bất cứ người nào khác. […] Sẽ không ai công khai phủ nhận rằng họ là con người; tuy nhiên, trên thực tế, bằng những quyết định của chúng ta và cách chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta coi họ kém xứng đáng hơn, kém quan trọng hơn, kém nhân bản hơn.” [74] Vì vậy, điều cấp thiết cần nhớ là “mọi người di cư đều là một nhân vị, người, trong tư cách như vậy, có những quyền cơ bản, bất khả xâm phạm mà mọi người và trong mọi hoàn cảnh phải tôn trọng.”[75] Tiếp nhận người di cư là một cách quan trọng và có ý nghĩa để bảo vệ “phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo. ”[76]
Nạn buôn người
41. Nạn buôn người cũng phải được coi là một trong những vi phạm nghiêm trọng đến phẩm giá con người.[77] Mặc dù đây không phải là một hiện tượng mới, nhưng nó đã mang những chiều hướng bi thảm trước mắt chúng ta, đó là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án nó bằng những lời lẽ đặc biệt nhấn mạnh: “Tôi tái khẳng định ở đây rằng 'buôn bán người' là một hoạt động hèn hạ, một sự ô nhục đối với xã hội của chúng ta tự cho là văn minh! Những kẻ lợi dụng và khách hàng ở mọi bình diện nên tự vấn lương tâm một cách nghiêm túc cả nhân danh ngôi thứ nhất lẫn trước mặt Thiên Chúa! Ngày nay Giáo hội đang đổi mới lời kêu gọi khẩn cấp của mình rằng phẩm giá và vị trí trung tâm của mỗi cá nhân luôn được bảo vệ, bằng việc tôn trọng các quyền cơ bản, như giáo huấn xã hội của Giáo hội nhấn mạnh. Giáo hội yêu cầu những quyền này thực sự được mở rộng cho hàng triệu người nam nữ ở mọi châu lục, bất cứ nơi nào chúng không được công nhận. Trong một thế giới mà người ta nói nhiều về quyền lợi, nhân phẩm thường bị chà đạp biết bao! Trong một thế giới mà người ta nói rất nhiều về quyền, có vẻ như thứ duy nhất có quyền là tiền bạc.” [78]
42. Vì những lý do này, Giáo hội và nhân loại không ngừng đấu tranh chống lại những hiện tượng như “việc buôn bán các bộ phận và mô người, bóc lột tình dục các bé trai và bé gái, lao động nô lệ, bao gồm mại dâm, buôn bán ma túy và vũ khí, khủng bố, và tội phạm có tổ chức quốc tế. Mức độ nghiêm trọng của những tình huống này và tổn thất của chúng đối với những sinh mạng vô tội đến mức chúng ta phải tránh mọi cám dỗ rơi vào chủ nghĩa chỉ biết tuyên bố theo lối duy danh nhằm xoa dịu lương tâm của chúng ta. Chúng ta cần đảm bảo rằng các thể chế của chúng ta thực sự hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những tai họa này.” [79] Đối diện với những phủ nhận phẩm giá con người đa dạng và tàn bạo này, chúng ta cần ngày càng nhận thức được rằng “nạn buôn người là một tội ác chống lại loài người”. [80] Về cơ bản, nó phủ nhận phẩm giá con người ít nhất theo hai cách: “Việc buôn bán làm biến dạng sâu xa nhân tính của nạn nhân, xúc phạm đến tự do và phẩm giá của họ. Tuy nhiên, đồng thời, nó làm mất nhân tính của những người thực hiện nó.” [81]
Lạm dụng tình dục
43. Phẩm giá sâu sắc vốn có của con người trong toàn bộ tâm trí và thể xác cũng cho phép chúng ta hiểu tại sao tất cả các vụ lạm dụng tình dục đều để lại những vết sẹo sâu trong trái tim của những người phải chịu đựng nó. Thật vậy, những người bị lạm dụng tình dục phải chịu những vết thương thực sự về phẩm giá con người của họ. Đây là “những đau khổ kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể chữa lành được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng đến Giáo hội và là một trở ngại nghiêm trọng cho sứ mệnh của Giáo hội.” [82] Từ đó nảy sinh những nỗ lực không ngừng nghỉ của Giáo hội nhằm chấm dứt mọi hình thức lạm dụng, bắt đầu từ bên trong.
Bạo lực chống phụ nữ
44. Bạo lực đối với phụ nữ là một vụ tai tiếng hoàn cầu ngày càng được thừa nhận. Trong khi phẩm giá bình đẳng của phụ nữ có thể được thừa nhận bằng lời nói, sự bất bình đẳng giữa nữ giới và nam giới ở một số quốc gia vẫn rất nghiêm trọng. Ngay cả ở những quốc gia dân chủ và phát triển nhất, thực tế xã hội cụ thể cũng chứng tỏ rằng nữ giới thường không được coi trọng như nam giới. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh điều này khi ngài khẳng định rằng “tổ chức các xã hội trên toàn thế giới vẫn chưa phản ảnh rõ ràng rằng nữ giới có cùng phẩm giá và các quyền giống như nam giới. Chúng ta nói một điều bằng lời nói, nhưng những quyết định và thực tế của chúng ta lại kể một câu chuyện khác. Thật vậy, ‘nghèo gấp đôi là những phụ nữ phải chịu đựng những hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình.’” [83]
45. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thừa nhận rằng “còn nhiều việc phải làm để ngăn chặn sự phân biệt đối xử đối với những người đã chọn làm vợ và làm mẹ. […] Đây là nhu cầu cấp thiết để đạt được sự bình đẳng thực sự trong mọi lĩnh vực: trả lương ngang nhau cho công việc như nhau, bảo vệ các bà mẹ đang đi làm, công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng về mặt quyền gia đình và sự công nhận mọi điều thuộc về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một Nhà nước dân chủ.” [84] Thật vậy, sự bất bình đẳng trong các lĩnh vực này cũng là những hình thức bạo lực khác nhau. Ngài cũng nhắc lại rằng “đã đến lúc phải lên án mạnh mẽ các loại bạo lực tình dục thường nhắm vào phụ nữ và thông qua các đạo luật bảo vệ họ một cách hữu hiệu khỏi bạo lực như vậy. Chúng ta cũng không thể thất bại, nhân danh sự tôn trọng con người, lên án nền văn hóa hưởng lạc và thương mại đang lan rộng, khuyến khích việc khai thác tình dục một cách có hệ thống và làm hư hỏng ngay cả những cô gái còn rất trẻ để cho cơ thể của họ được sử dụng vì lợi nhuận.”[85 ] Trong số các hình thức bạo lực đối với phụ nữ, làm sao không kể đến cưỡng bức phá thai, ảnh hưởng đến cả mẹ lẫn con, thường nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ của nam giới? Và làm sao chúng ta có thể không đề cập đến việc thực hành chế độ đa thê? Như Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta, chế độ đa thê là trái với phẩm giá bình đẳng giữa nữ giới và nam giới; nó cũng “trái ngược với tình yêu vợ chồng vốn không phân chia và độc quyền.” [86]
46. Khi xem xét vấn đề bạo lực đối với phụ nữ, người ta không thể lên án đủ hiện tượng giết hại phụ nữ. Về mặt này, toàn bộ cộng đồng quốc tế phải có một cam kết phối hợp và cụ thể, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại: “Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm nhận được sự trân trọng và biết ơn đối với phụ nữ, đối với các bà mẹ của chúng ta, những người là pháo đài bảo vệ sự sống ở các thành phố của chúng ta. Hầu như luôn luôn trong im lặng, họ tiếp tục cuộc sống phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn chứng tá của chị em. […] Nhưng khi nghĩ đến mẹ và bà của chúng ta, tôi muốn mời các bạn chống lại một tai họa đang ảnh hưởng đến lục địa Châu Mỹ của chúng ta: vô số trường hợp phụ nữ bị giết. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ im lặng sau rất nhiều bức tường. Tôi yêu cầu các bạn đấu tranh chống lại nguồn gốc đau khổ này bằng cách kêu gọi xây dựng luật pháp và một nền văn hóa bác bỏ mọi hình thức bạo lực.” [87]
Nạn phá thai
47. Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta rằng “phẩm giá của mỗi con người có một đặc tính nội tại và có giá trị từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Chính việc khẳng định phẩm giá đó là điều kiện tiên quyết không thể tách rời để bảo vệ sự hiện hữu bản thân và xã hội, đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để tình huynh đệ và tình bạn xã hội được thể hiện giữa tất cả các dân tộc trên trái đất.”[88] Về giá trị vô hình của sự sống con người, huấn quyền của Giáo hội luôn lên tiếng chống lại việc phá thai. Về vấn đề này, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Trong số tất cả các tội ác có thể phạm đến sự sống, việc mua bán phá thai có những đặc điểm khiến nó trở nên đặc biệt nghiêm trọng và đáng trách. […] Nhưng ngày nay, trong lương tâm của nhiều người, nhận thức về tính nghiêm trọng của nó đã dần dần bị lu mờ. Việc chấp nhận việc phá thai trong tâm trí bình dân, trong hành vi và ngay cả trong chính luật pháp là một dấu hiệu rõ ràng về một cuộc khủng hoảng cực kỳ nguy hiểm về ý thức đạo đức, ngày càng trở nên mất khả năng phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản đến cuộc sống đang bị đe dọa. Trước tình hình nghiêm trọng như vậy, hơn bao giờ hết chúng ta cần có can đảm nhìn thẳng vào sự thật và gọi mọi thứ bằng đúng tên của chúng, không nhượng bộ trước những thỏa hiệp thuận tiện hoặc trước cám dỗ tự lừa dối. Về vấn đề này, lời khiển trách của Đấng Tiên Tri hết sức thẳng thắn: ‘Khốn thay cho những kẻ gọi ác là thiện, gọi thiện là ác, lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối’ (Is. 5:20). Đặc biệt trong trường hợp phá thai, có sự sử dụng rộng rãi các thuật ngữ mơ hồ, chẳng hạn như “sự gián đoạn thai kỳ”, có xu hướng che giấu bản chất thực sự của việc phá thai và làm giảm bớt tính nghiêm trọng của nó trong dư luận quần chúng. Có lẽ bản thân hiện tượng ngôn ngữ này là một triệu chứng của sự bất an trong lương tâm. Nhưng không lời nào có sức mạnh thay đổi thực tại của sự việc: phá thai là việc cố ý và trực tiếp giết hại một con người, bằng bất cứ phương tiện nào, trong giai đoạn đầu của cuộc đời họ, kéo dài từ khi thụ thai cho đến khi sinh ra. ” [89] Do đó, những đứa trẻ chưa sinh ra là “những đối tượng vô tội và không có khả năng tự vệ nhất trong số chúng ta. Ngày nay, người ta đang nỗ lực phủ nhận nhân phẩm của các em và làm bất cứ điều gì họ muốn với các em, tước đoạt mạng sống của của các em và thông qua luật ngăn cản bất kỳ ai cản trở việc này.”[90] Do đó, cần phải tuyên bố với tất cả sức mạnh và rõ ràng, ngay trong thời đại chúng ta, rằng “việc bảo vệ sự sống chưa sinh ra này gắn liền với việc bảo vệ mỗi nhân quyền khác. Nó liên quan đến niềm tin rằng con người luôn thánh thiêng và bất khả xâm phạm, trong mọi tình huống và mọi giai đoạn phát triển. Con người tự nó là mục đích và không bao giờ là phương tiện để giải quyết các vấn đề khác. Một khi xác tín này biến mất, thì những nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng sẽ luôn phụ thuộc vào những ý muốn bất chợt của các quyền lực hiện tại. Chỉ lý trí thôi cũng đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mỗi sự sống con người, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn vấn đề từ quan điểm đức tin, 'mọi vi phạm phẩm giá cá nhân của con người đều kêu tới Thiên Chúa để trả thù và là xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa của cá nhân'”. [91] Trong bối cảnh này, thật đáng nhắc lại sự dấn thân quảng đại và can đảm của Thánh Teresa Calcutta trong việc bảo vệ mọi người được thụ thai.
Mang thai hộ
48. Giáo hội cũng có lập trường chống lại việc thực hành mang thai hộ, qua đó đứa trẻ vô cùng xứng đáng trở thành một đồ vật đơn thuần. Về điểm này, những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có một sự rõ ràng đặc biệt: “Con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng sự sống, sự sống của mỗi con người, bắt đầu từ sự sống của thai nhi trong bụng mẹ, sự sống không thể bị đàn áp hay biến thành một đồ vật để buôn bán. Về vấn đề này, tôi thấy thật đáng trách về việc thực hành cái gọi là làm mẹ thay thế, một hành vi vi phạm nghiêm trọng phẩm giá của người phụ nữ và trẻ em, dựa trên việc khai thác những hoàn cảnh nhu cầu vật chất của người mẹ. Một đứa trẻ luôn là một hồng ân và không bao giờ là nền tảng của một hợp đồng thương mại. Do đó, tôi bày tỏ hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực ngăn cấm hành vi này trên hoàn cầu.” [92]
49. Trước hết, việc mang thai hộ vi phạm phẩm giá của đứa trẻ. Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều sở hữu một phẩm giá vô hình được thể hiện rõ ràng - mặc dù theo một cách độc đáo và khác biệt - ở mọi giai đoạn của cuộc đời: từ lúc thụ thai, khi sinh ra, lớn lên thành một cậu bé hay một cô bé và trở thành một người lớn. Vì phẩm giá bất khả xâm phạm này, đứa trẻ có quyền có nguồn gốc nhân bản hoàn toàn (chứ không phải giả tạo) và nhận được hồng ân sự sống thể hiện cả phẩm giá của người cho và phẩm giá của người nhận. Hơn nữa, việc thừa nhận phẩm giá của con người cũng đòi hỏi phải thừa nhận mọi chiều kích trong phẩm giá của việc kết hợp vợ chồng và của việc sinh sản con người. Xét đến điều này, ước muốn chính đáng có con không thể bị biến thành “quyền có con” không tôn trọng phẩm giá của đứa trẻ đó như là người nhận được hồng ân sự sống. [93]
50. Mang thai hộ cũng vi phạm phẩm giá của người phụ nữ, cho dù họ bị ép buộc hay tự do chọn cách phục tùng nó. Vì, trong thực hành này, người phụ nữ bị tách rời khỏi đứa trẻ đang lớn lên trong mình và trở thành một phương tiện đơn thuần phục tùng lợi ích hoặc ham muốn độc đoán của người khác. Điều này trái ngược hoàn toàn với phẩm giá cơ bản của mỗi con người và với quyền của mỗi người luôn được nhìn nhận một cách riêng tư chứ không bao giờ như một công cụ dành cho người khác.
An tử và tự sát được hỗ trợ
51. Có một trường hợp đặc biệt về vi phạm nhân phẩm diễn ra âm thầm hơn nhưng đang nhanh chóng lan rộng. Nó độc đáo ở chỗ nó sử dụng sự hiểu biết sai lầm về phẩm giá con người để biến khái niệm về phẩm giá chống lại chính sự sống. Sự nhầm lẫn này ngày nay đặc biệt rõ ràng trong các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề an tử. Ví dụ, luật cho phép an tử hoặc hỗ trợ tự tử đôi khi được gọi là “hành vi chết có nhân phẩm”. Với điều này, có một quan niệm phổ biến rằng an tử hoặc trợ tử là phù hợp một cách nào đó với việc tôn trọng phẩm giá con người. Tuy nhiên, để đáp lại điều này, cần phải mạnh mẽ nhắc lại rằng đau khổ không làm cho người bệnh mất đi phẩm giá, vốn là phẩm giá của họ một cách nội tại và bất khả chuyển nhượng. Thay vào đó, đau khổ có thể trở thành cơ hội để củng cố mối liên kết thuộc về nhau và đạt được nhận thức sâu sắc hơn về giá trị quý giá của mỗi người đối với toàn thể gia đình nhân loại.
52. Chắc chắn, phẩm giá của những người bị bệnh hiểm nghèo hoặc giai đoạn cuối đòi hỏi mọi nỗ lực phù hợp và cần thiết để xoa dịu nỗi đau khổ của họ thông qua việc chăm sóc giảm đau thích hợp và tránh các phương pháp điều trị tích cực hoặc các thủ tục y tế không cân xứng. Cách tiếp cận này tương ứng với “trách nhiệm lâu dài trong việc đánh giá cao các nhu cầu của người bệnh: nhu cầu chăm sóc, giảm đau, nhu cầu tình cảm và tinh thần.” [94] Tuy nhiên, nỗ lực có bản chất này hoàn toàn khác với—và thực sự trái ngược với —một quyết định kết thúc cuộc đời của chính mình hoặc của một người khác đang phải chịu gánh nặng đau khổ. Ngay cả trong tình trạng đau buồn, sự sống con người vẫn mang một phẩm giá phải luôn được đề cao, không bao giờ có thể bị mất đi và đòi hỏi sự tôn trọng vô điều kiện. Thật vậy, không có hoàn cảnh nào mà sự sống con người không còn có giá trị và do đó có thể bị chấm dứt: “Mỗi sự sống đều có giá trị và phẩm giá như nhau đối với mọi người: việc tôn trọng sự sống của người khác cũng y hệt như sự tôn trọng mạng sống của chính mình.”[95] Vì vậy, việc giúp người tự tử lấy đi mạng sống của họ là một hành vi xúc phạm khách quan đến nhân phẩm của người yêu cầu điều đó, ngay cả khi nhờ đó người đó sẽ hoàn thành mong muốn của họ: “Chúng ta phải đồng hành cùng mọi người hướng đến cái chết, nhưng không kích động cái chết hoặc tạo điều kiện cho bất cứ hình thức tự sát nào. Hãy nhớ rằng quyền được chăm sóc và điều trị cho tất cả mọi người phải luôn được ưu tiên để những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người già và người bệnh, không bao giờ bị bác bỏ. Sự sống là một quyền chứ không phải cái chết, nó phải được chào đón chứ không phải được quản lý. Và nguyên tắc đạo đức này liên quan đến tất cả mọi người, không chỉ các Kitô hữu hay các tín hữu.” [96] Như đã đề cập ở trên, phẩm giá của mỗi người, cho dù yếu đuối hay gánh nặng đau khổ đến đâu, cũng bao hàm phẩm giá của tất cả chúng ta.
Việc bị gạt ra ngoài lề xã hội của người khuyết tật
53. Một tiêu chuẩn để kiểm chứng xem phẩm giá của mỗi cá nhân trong xã hội có thực sự được quan tâm hay không là việc giúp đỡ những người thiệt thòi nhất. Đáng tiếc là thời đại chúng ta chưa có sự quan tâm như vậy; đúng hơn, một “nền văn hóa vứt bỏ” đang ngày càng tự áp đặt chính nó.[97] Để chống lại xu hướng này, tình trạng của những người gặp phải những hạn chế về thể lý hoặc tinh thần cần được quan tâm và quan tâm đặc biệt. Những tình trạng dễ bị tổn thương nghiêm trọng như vậy [98]—được nêu bật trong các Tin Mừng—đặt ra những câu hỏi phổ quát về ý nghĩa của việc làm một con người, đặc biệt bắt đầu từ tình trạng suy yếu hoặc khuyết tật. Câu hỏi về sự không hoàn hảo của con người cũng mang những hàm ý văn hóa xã hội rõ ràng vì một số nền văn hóa có xu hướng gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí áp bức những người khuyết tật, coi họ như “những thứ bị loại bỏ”. Tuy nhiên, sự thật là mỗi con người, bất kể những tổn thương của họ, đều nhận được phẩm giá của mình chỉ từ việc họ được Thiên Chúa ước muốn và yêu thương. Vì vậy, cần thực hiện mọi nỗ lực để khuyến khích sự hòa nhập và tham gia tích cực của những người bị ảnh hưởng bởi tình trạng yếu đuối hoặc khuyết tật vào đời sống xã hội và Giáo hội. [99]
54. Ở một góc độ rộng hơn, cần phải nhớ rằng “bác ái này, vốn là trái tim tinh thần của chính trị, luôn là một tình yêu ưu tiên dành cho những người cần giúp đỡ nhất; nó hỗ trợ mọi việc chúng ta làm thay mặt họ. […] ‘Để chăm sóc những người gặp khó khăn cần có sức mạnh và sự dịu dàng, nỗ lực và lòng quảng đại giữa một tư duy chức năng hóa và tư nhân hóa, điều này chắc chắn sẽ dẫn đến một ‘văn hóa vứt bỏ’ […]. Nó liên quan đến việc chịu trách nhiệm về hiện tại với những tình huống hoàn toàn bị gạt ra ngoài lề xã hội và đau khổ, đồng thời có khả năng ban cho nó phẩm giá.' Nó cũng sẽ truyền cảm hứng cho những nỗ lực mãnh liệt để đảm bảo rằng 'mọi việc phải được thực hiện để bảo vệ địa vị và phẩm giá của con người. '” [100]
Lý thuyết phái tính
55. Trước hết, Giáo hội mong muốn “tái khẳng định rằng mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục, phải được tôn trọng phẩm giá của mình và được đối xử với sự quan tâm, đồng thời phải cẩn thận tránh ‘mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công’, đặc biệt là bất cứ hình thức xâm lược và bạo lực nào.”[101] Vì lý do này, cần phải lên án việc đi ngược lại phẩm giá con người là việc, ở một số nơi, không ít người bị cầm tù, tra tấn, và thậm chí bị tước đoạt sự sống. chỉ vì xu hướng tính dục của họ.
56. Đồng thời, Giáo hội nhấn mạnh những vấn đề quan trọng nhất định có trong lý thuyết phái tính. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng “con đường dẫn đến hòa bình kêu gọi tôn trọng nhân quyền, phù hợp với công thức đơn giản nhưng rõ ràng trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà chúng ta vừa kỷ niệm 75 năm. Những nguyên tắc này là hiển nhiên và được chấp nhận rộng rãi. Đáng tiếc là trong những thập niên gần đây, đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra các quyền mới nhưng không hoàn toàn phù hợp với những quyền được xác định ban đầu và cũng không phải lúc nào cũng được chấp nhận. Chúng đã dẫn đến những trường hợp thuộc địa hóa về mặt ý thức hệ, trong đó lý thuyết phái tính đóng vai trò trung tâm; điều vừa kể cực kỳ nguy hiểm vì nó hủy bỏ những khác biệt trong tuyên bố của mình là khiến mọi người đều bình đẳng.”[102]
57. Về lý thuyết phái tính, mà tính mạch lạc khoa học của nó là chủ đề gây tranh cãi đáng kể giữa các chuyên gia, Giáo hội nhắc nhở rằng sự sống con người trong mọi chiều kích, cả thể lý lẫn tinh thần, là một hồng ân từ Thiên Chúa. Hồng ân này phải được đón nhận với lòng biết ơn và phục vụ những điều tốt đẹp. Mong muốn quyền tự quyết cá nhân, như lý thuyết phái tính quy định, ngoài sự thật cơ bản rằng sự sống con người là một hồng ân, không khác gì một sự nhượng bộ trước cám dỗ lâu đời muốn biến mình thành Thiên Chúa, bước vào cuộc cạnh tranh với Thiên Chúa thực sự của tình yêu được mạc khải cho chúng ta trong Tin Mừng.
58. Một khía cạnh nổi bật khác của lý thuyết phái tính là nó nhằm mục đích phủ nhận sự khác biệt lớn nhất có thể hiện hữu giữa các sinh vật: sự khác biệt về giới tính. Sự khác biệt cơ bản này không chỉ là sự khác biệt lớn nhất có thể tưởng tượng được mà còn là sự khác biệt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất trong số đó. Trong cặp nam nữ, sự khác biệt này đạt được sự hỗ tương kỳ diệu nhất. Do đó, nó trở thành nguồn gốc của phép lạ không ngừng làm chúng ta ngạc nhiên: sự xuất hiện của những con người mới trên thế giới.
59. Theo nghĩa này, việc tôn trọng cơ thể của chính mình và cơ thể của người khác là rất quan trọng trong bối cảnh ngày càng có nhiều yêu sách về các quyền mới được lý thuyết phái tính đề cao. Hệ tư tưởng này “hình dung một xã hội không có sự khác biệt giới tính, do đó loại bỏ nền tảng nhân học của gia đình. ” [103] Do đó, không thể chấp nhận được rằng “một số hệ tư tưởng thuộc loại này, vốn tìm cách đáp lại những gì đôi khi là những khát vọng có thể hiểu được, lại cố gắng khẳng định mình là tuyệt đối và không thể nghi ngờ, thậm chí còn ra lệnh cho trẻ em phải được nuôi dạy như thế nào. Cần phải nhấn mạnh rằng 'giới tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính (phái tính) có thể được phân biệt nhưng không thể tách rời.'”[104] Do đó, mọi mưu toan nhằm che đậy việc nhắc đến sự khác biệt giới tính không thể loại bỏ giữa nam và nữ cần được bác bỏ: “Chúng ta không thể tách biệt nam tính và nữ tính khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, vốn có trước mọi quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và là nơi tồn tại các yếu tố sinh học không thể bỏ qua.”[105] Chỉ bằng cách thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt này trong sự hỗ tương, mỗi người có thể khám phá đầy đủ bản thân, phẩm giá và bản sắc của mình.
Thay đổi giới tính
60. Phẩm giá của thân xác không thể bị coi là thấp kém hơn phẩm giá của con người. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo rõ ràng mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng “thân xác con người chia sẻ phẩm giá của 'hình ảnh Thiên Chúa'” [106] Một sự thật như vậy đáng được ghi nhớ, đặc biệt khi nói đến vấn đề chuyển đổi giới tính, vì con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn, một cách không thể tách rời được. Trong việc này, thân xác đóng vai trò là bối cảnh sống động trong đó tính nội tâm của linh hồn tự bộc lộ và biểu lộ, cũng như thông qua mạng lưới các mối quan hệ giữa con người với nhau. Làm nên hữu thể con người, linh hồn và thể xác đều tham gia vào phẩm giá đặc trưng của mỗi con người.[107] Hơn nữa, thân xác tham gia vào phẩm giá đó vì nó mang những ý nghĩa bản vị, đặc biệt trong điều kiện giới tính của nó.[108] Chính trong cơ thể mà mỗi người nhận ra mình được người khác tạo ra, và chính qua cơ thể của mình mà đàn ông và đàn bà có thể thiết lập một mối quan hệ yêu thương có khả năng tạo ra những người khác. Khi dạy về sự cần thiết phải tôn trọng trật tự tự nhiên của con người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định rằng “công trình sáng tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một hồng ân. Đồng thời, chúng ta được kêu gọi bảo vệ nhân tính của mình, và điều này có nghĩa trước hết là chấp nhận và tôn trọng nó như nó đã được tạo ra.” [109] Theo đó, bất kỳ sự can thiệp chuyển đổi giới tính nào, như một quy luật, đều có nguy cơ đe dọa phẩm giá độc đáo mà con người đã nhận được từ lúc thụ thai. Điều này không loại trừ khả năng một người có những bất thường về bộ phận sinh dục đã biểu hiện rõ ràng khi sinh ra hoặc phát triển sau này có thể chọn nhận sự hỗ trợ của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe để giải quyết những bất thường này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, thủ tục y tế như vậy sẽ không cấu thành sự chuyển đổi giới tính theo nghĩa dự định ở đây.
Bạo lực kỹ thuật số
61. Mặc dù sự tiến bộ của các kỹ thuật kỹ thuật số có thể mang lại nhiều khả năng thăng tiến phẩm giá con người, nhưng nó cũng ngày càng có xu hướng tạo ra một thế giới trong đó sự bóc lột, loại trừ và bạo lực gia tăng, thậm chí đến mức làm tổn hại đến phẩm giá con người. Ví dụ, hãy xem xét việc những phương tiện này dễ dàng gây tổn hại đến danh tiếng của một người bằng những tin tức giả mạo và vu khống như thế nào. Về điểm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng “việc nhầm lẫn giữa giao tiếp với tiếp xúc ảo đơn thuần là không lành mạnh. Quả thực, 'môi trường kỹ thuật số cũng là một nơi của sự cô đơn, bị thao túng, bóc lột và bạo lực, thậm chí đến trường hợp cực đoan là 'mạng lưới đen tối'. Phương tiện kỹ thuật số có thể khiến con người có nguy cơ bị nghiện, bị cô lập và dần mất liên lạc với thực tại cụ thể, cản trở sự phát triển của các mối quan hệ liên ngã đích thực. Các hình thức bạo lực mới đang lan rộng qua mạng xã hội, chẳng hạn như bắt nạt trên mạng. Internet cũng là một kênh để truyền bá nội dung khiêu dâm và bóc lột con người vì mục đích tình dục hoặc thông qua cờ bạc.'” [110] Theo cách này, một nghịch lý là càng có nhiều cơ hội tạo kết nối trong lĩnh vực này thì mọi người càng thấy mình bị cô lập và trở nên nghèo nàn trong các mối quan hệ liên ngã: “Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa mọi điều ra công khai; cuộc sống của mọi người bị chải chuốt, bị vạch trần và bị băng bó, thường là ẩn danh. Sự tôn trọng dành cho người khác bị tan vỡ, và ngay cả khi chúng ta gạt bỏ, phớt lờ hoặc giữ khoảng cách với người khác, chúng ta vẫn có thể trơ tráo nhìn vào từng chi tiết trong cuộc sống của họ.” [111] Những xu hướng như vậy thể hiện mặt tối của tiến bộ kỹ thuật số.
62. Theo quan điểm này, nếu kỹ thuật phục vụ phẩm giá con người và không làm tổn hại đến nó, và nếu nó thúc đẩy hòa bình thay vì bạo lực, thì cộng đồng nhân loại phải chủ động giải quyết những xu hướng này liên quan đến phẩm giá con người và cổ vũ điều tốt: “Trong thế giới hoàn cầu hóa ngày nay, 'các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần gũi nhau hơn, tạo ra cảm giác đoàn kết của gia đình nhân loại, từ đó có thể truyền cảm hứng cho tình đoàn kết và những nỗ lực nghiêm túc nhằm đảm bảo một cuộc sống xứng đáng hơn cho tất cả mọi người. […] Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta rất nhiều trong vấn đề này, đặc biệt là ngày nay, khi mạng lưới truyền thông của con người đã đạt được những tiến bộ chưa từng có. Đặc biệt, Internet mang lại những khả năng to lớn cho sự gặp gỡ và đoàn kết. Đây thực sự là một điều tốt lành, một hồng ân của Thiên Chúa.' Chúng ta cần phải liên tục đảm bảo rằng các hình thức truyền thông ngày nay trên thực tế đang hướng dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ quảng đại với người khác, thành thật theo đuổi toàn bộ sự thật, phục vụ, gần gũi với những người bị thiệt thòi và thúc đẩy ích chung.”[112]
Kết luận
63. Nhân kỷ niệm 75 năm ban hành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948), Đức Giáo Hoàng Phanxicô tái khẳng định rằng tài liệu này “giống như một kế hoạch tổng thể, từ đó có nhiều bước đã được thực hiện, nhưng vẫn còn nhiều bước cần phải thực hiện, và thật không may, đôi khi đã có những bước thụt lùi. Cam kết về nhân quyền không bao giờ kết thúc! Về vấn đề này, tôi gần gũi với tất cả những người, không phô trương, trong cuộc sống cụ thể hàng ngày, đấu tranh và đích thân trả giá để bảo vệ quyền lợi của những người không đáng kể.”[113]
64. Theo tinh thần này, Giáo hội, với Tuyên bố này, nhiệt thành thúc giục việc tôn trọng phẩm giá con người trong mọi hoàn cảnh phải được đặt ở trung tâm của việc dấn thân vì công ích và ở trung tâm của mọi hệ thống pháp luật. Thật vậy, việc tôn trọng phẩm giá của mỗi người là nền tảng không thể thiếu cho sự hiện hữu của bất cứ xã hội nào tuyên bố được thành lập dựa trên luật công bằng chứ không dựa trên sức mạnh quyền lực. Thừa nhận phẩm giá con người tạo thành nền tảng cho việc đề cao các quyền cơ bản của con người, vốn đi trước và đặt nền tảng cho mọi sự chung sống công dân. [114]
65. Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng nhân bản đều có trách nhiệm thực hiện cụ thể và thực tế phẩm giá con người. Trong khi đó, nhiệm vụ của các Quốc gia không chỉ là bảo vệ phẩm giá con người mà còn phải đảm bảo những điều kiện cần thiết để nó phát triển trong việc thăng tiến toàn diện con người: “Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng 'bất chấp cá vẻ bề ngoài, mọi người đều hết sức thánh thiện và xứng đáng được chúng ta yêu thương và tận tụy phục vụ.'”[115]
66. Ngay cả ngày nay, trước rất nhiều vi phạm nhân phẩm đe dọa nghiêm trọng đến tương lai của gia đình nhân loại, Giáo hội khuyến khích việc thăng tiến phẩm giá của mỗi con người, bất kể thể lý, tinh thần, văn hóa, xã hội và đặc điểm tôn giáo. Giáo hội thực hiện điều này với niềm hy vọng, tin tưởng vào sức mạnh tuôn chảy từ Chúa Kitô Phục sinh, Đấng đã mạc khải đầy đủ phẩm giá toàn diện của mọi người nam nữ. Sự chắc chắn này trở thành lời kêu gọi trong những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi đến mỗi người chúng ta: “Tôi kêu gọi mọi người trên khắp thế giới đừng quên phẩm giá này của chúng ta. Không ai có quyền lấy nó từ chúng ta.”[116]
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tại buổi tiếp kiến dành cho Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin có chữ ký dưới đây, cùng với Thư ký Phân ban Giáo lý của Bộ, vào ngày 25 tháng 3 năm 2024, đã phê chuẩn Tuyên bố này, được quyết định tại Phiên họp thường kỳ của Bộ này vào ngày 28 tháng 2 năm 2024, và ngài đã ra lệnh công bố nó.
Ban hành tại Rôma, tại Bộ Giáo lý Đức tin, vào ngày 2 tháng 4 năm 2024, kỷ niệm 19 năm ngày mất của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Hồng Y Víctor Manuel. Fernández
Bộ trưởng
Đức ông Armando Matteo
Thư ký Ban Giáo lý
Tại buổi yết kiến ngày 25.03.2024
Phanxicô
Kỳ sau: Các Ghi Chú