Theo tin Tòa Thánh, Đức Phanxicô vừa cho công bố Bức thư của ngài nói về vai trò của văn học trong việc đào tạo các linh mục tương lai. Bức thư được ký ngày 17 tháng 7, năm 2024 và được công bố ngày 4 tháng 8 vừa qua. Nhân dịp này, ngài cũng mở rộng phạm vi phổ biến bức thư tới mọi tín hữu Ki-tô giáo. Hãng tin Catholic World News cho hay: năm 2016, dưới sự lãnh đạo của Đức Phanxicô, Tòa Thánh đã công bố một tài liệu tái duyệt về việc đào tạo chủng sinh nhưng tài liệu này không nhắc gì tới vai trò của văn học, mặc dù nó là bản thay thế tài liệu năm 1985, công bố dưới thời Đức Gioan Phaolô II. Tài liệu vừa nhắc có nói tới việc đào tạo văn học.

Chúng tôi chuyển dịch toàn văn Bức thư của Đức Phanxicô, dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh
:

1. Ban đầu, tôi đã chọn đặt tiêu đề cho Bức thư này là đào tạo linh mục. Tuy nhiên, khi suy nghĩ thêm, chủ đề này cũng áp dụng cho quá trình đào tạo của tất cả những người tham gia vào công tác mục vụ, thực sự là của tất cả các Kitô hữu. Điều tôi muốn đề cập ở đây là giá trị của việc đọc tiểu thuyết và thơ như một phần trong con đường trưởng thành của một người.

2. Thường thì trong những khoảng thời gian buồn chán khi đi nghỉ, trong cái nóng và sự tĩnh lặng của một khu phố vắng vẻ nào đó, việc tìm thấy một cuốn sách hay để đọc có thể mang đến một ốc đảo giúp chúng ta tránh xa những lựa chọn khác kém lành mạnh hơn. Tương tự như vậy, trong những khoảnh khắc mệt mỏi, tức giận, thất vọng hoặc thất bại, khi chính việc cầu nguyện không giúp chúng ta tìm thấy sự thanh thản bên trong, một cuốn sách hay có thể giúp chúng ta vượt qua cơn bão cho đến khi chúng ta tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Thời gian dành cho việc đọc sách có thể mở ra những không gian nội tâm mới giúp chúng ta tránh bị mắc kẹt bởi một vài suy nghĩ ám ảnh có thể cản trở sự phát triển bản thân của chúng ta. Thật vậy, trước khi chúng ta tiếp xúc liên tục với phương tiện truyền thông xã hội, điện thoại di động và các thiết bị khác như hiện nay, đọc sách là một trải nghiệm phổ biến và những ai đã từng trải qua đều hiểu ý tôi. Nó không phải là thứ gì đó hoàn toàn lỗi thời.

3. Không giống như phương tiện truyền thông nghe nhìn, nơi sản phẩm có tính độc lập hơn và thời gian dành cho việc "làm phong phú" câu chuyện hoặc khám phá ý nghĩa của nó thường khá hạn chế, một cuốn sách đòi hỏi sự tham gia bản thân nhiều hơn từ phía người đọc. Theo một nghĩa nào đó, người đọc viết lại một văn bản, mở rộng phạm vi của nó thông qua trí tưởng tượng của họ, tạo ra toàn bộ thế giới bằng cách đưa vào sử dụng các kỹ năng, trí nhớ, ước mơ và lịch sử bản thân của họ, với tất cả sự kịch tính và biểu tượng của nó. Theo cách này, những gì xuất hiện là một văn bản hoàn toàn khác với văn bản mà tác giả dự định viết. Do đó, một tác phẩm văn học là một văn bản sống động và luôn hữu hiệu, luôn có khả năng nói theo những cách khác nhau và tạo ra một bản tổng hợp độc đáo từ phía mỗi người đọc. Trong quá trình đọc, chúng ta được làm giàu từ những gì chúng ta nhận được từ tác giả và điều này cho phép chúng ta phát triển nội tâm, để mỗi tác phẩm mới mà chúng ta đọc sẽ đổi mới và mở rộng thế giới quan của chúng ta.

4. Vì lý do này, tôi rất trân sự kiện ít nhất một số chủng viện đã phản ứng với nỗi ám ảnh về “màn hình” và tin tức giả mạo độc hại, hời hợt và bạo lực, bằng cách dành thời gian và sự chú ý cho văn học. Họ đã làm điều này bằng cách dành thời gian để đọc sách một cách yên tĩnh và thảo luận về những cuốn sách, mới và cũ, vẫn tiếp tục có nhiều điều để nói với chúng ta. Tuy nhiên, đáng tiếc là nền tảng đầy đủ về văn học thường không phải là một phần của các chương trình đào tạo cho chức thánh. Văn học thường chỉ được coi là một hình thức giải trí, một “nghệ thuật phụ” không nhất thiết phải nằm trong chương trình giáo dục các linh mục tương lai và quá trình chuẩn bị cho chức thánh. Ngoại trừ một số ít trường hợp, văn học được coi là không thiết yếu. Tôi cho rằng điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng cách tiếp cận như vậy là không lành mạnh. Nó có thể dẫn đến sự nghèo nàn nghiêm trọng về trí thức và tâm linh của các linh mục tương lai, những người sẽ bị tước mất quyền tiếp cận đặc quyền mà văn học mang lại cho chính trái tim của nền văn hóa nhân loại và cụ thể hơn là trái tim của mỗi cá nhân.

5. Với Bức thư này, tôi muốn đề xuất một sự thay đổi triệt để. Về vấn đề này, tôi đồng ý với quan sát của một nhà thần học rằng, “văn học… bắt nguồn từ cốt lõi không thể giản lược nhất của con người, bình diện mầu nhiệm [của hữu thể họ]… Văn học là cuộc sống, có ý thức về chính nó, đạt đến sự tự phat biểu đầy đủ thông qua việc sử dụng tất cả các nguồn lực khái niệm của ngôn ngữ”. [1]

6. Do đó, văn học phải liên quan, theo cách này hay cách khác, đến những mong muốn sâu sắc nhất của chúng ta trong cuộc sống này, vì ở bình diện sâu sắc, văn học gắn kết sự hiện hữu cụ thể của chúng ta, với những căng thẳng bẩm sinh, mong muốn và trải nghiệm có ý nghĩa của nó.

7. Khi còn là một giáo viên trẻ, tôi đã khám phá ra điều này với học sinh của mình. Từ năm 1964 đến năm 1965, ở tuổi 28, tôi đã dạy văn học tại một trường Dòng Tên ở Santa Fe. Tôi đã dạy hai năm cuối trung học và phải đảm bảo rằng học sinh của mình học El Cid. Học sinh không vui; chúng thường hỏi liệu chúng có thể đọc García Lorca thay thế không. Vì vậy, tôi quyết định rằng chúng có thể đọc El Cid ở nhà và trong các bài học, tôi sẽ thảo luận về các tác giả mà học sinh thích nhất. Tất nhiên, các em muốn đọc các tác phẩm văn học đương thời. Tuy nhiên, khi các em đọc những tác phẩm mà các em quan tâm vào thời điểm đó, các em đã phát triển một sở thích chung hơn đối với văn học và thơ ca, và do đó các em chuyển sang các tác giả khác. Cuối cùng, trái tim chúng ta luôn tìm kiếm điều gì đó lớn lao hơn, và các cá nhân sẽ tìm thấy con đường riêng của họ trong văn học. [2] Về phần mình, tôi yêu các nhà bi kịch, bởi vì tất cả chúng ta đều có thể đón nhận các tác phẩm của họ như của chính mình, như những biểu hiện của vở kịch bản thân của chúng ta. Khi khóc cho số phận của các nhân vật của họ, về cơ bản chúng ta đang khóc cho chính mình, cho sự trống rỗng, những thiếu sót và cô đơn của chính mình. Tất nhiên, tôi không yêu cầu bạn đọc những thứ giống như tôi đã đọc. Mọi người sẽ tìm thấynhững cuốn sách nói lên cuộc sống của chính họ và trở thành người bạn đồng hành đích thực cho hành trình của họ. Không có gì phản tác dụng hơn là đọc một điều gì đó vì cảm giác bổn phận, nỗ lực đáng kể chỉ vì người khác đã nói rằng điều đó là cần thiết. Ngược lại, trong khi luôn cởi mở với sự hướng dẫn, chúng ta nên chọn cách đọc của mình với một tâm trí cởi mở, sẵn sàng ngạc nhiên, có sự linh hoạt và sẵn sàng học hỏi nhất định, cố gắng khám phá những gì chúng ta cần ở mọi thời điểm trong cuộc sống của mình.

Đức tin và văn hóa

8. Văn học cũng chứng tỏ là điều cần thiết đối với những người tin chân thành tìm cách đối thoại với nền văn hóa của thời đại họ, hoặc đơn giản là với cuộc sống và kinh nghiệm của những người khác. Có lý do chính đáng, Công đồng Vatican II nhận xét rằng, “văn học và nghệ thuật… tìm cách thâm nhập vào bản chất của chúng ta” và “làm sáng tỏ nỗi đau khổ và niềm vui, nhu cầu và tiềm năng của chúng ta”. [3] Thật vậy, văn học lấy cảm hứng từ thực tế của cuộc sống hàng ngày của chúng ta, những đam mê và biến cố, “hành động, công việc, tình yêu, cái chết và tất cả những điều tồi tệ lấp đầy cuộc sống” của chúng ta. [4]

9. Làm sao chúng ta có thể tiếp cận được cốt lõi của các nền văn hóa cổ xưa và mới mẻ nếu chúng ta không quen thuộc, bỏ qua hoặc bác bỏ các biểu tượng, thông điệp, biểu hiện nghệ thuật và những câu chuyện mà chúng đã nắm bắt và gợi lên những lý tưởng và khát vọng cao cả nhất của họ, cũng như những đau khổ, nỗi sợ hãi và đam mê sâu sắc nhất của họ? Làm sao chúng ta có thể nói với trái tim của những người đàn ông và đànn bà nếu chúng ta bỏ qua, gạt sang một bên hoặc không đánh giá cao những "câu chuyện" mà họ tìm cách phja1t biểu và phơi bày sự kịch tính của trải nghiệm sống của họ trong các tiểu thuyết và bài thơ?

10. Trong kinh nghiệm truyền giáo của mình, Giáo hội đã học cách biểu lộ tất cả vẻ đẹp, sự tươi mới và mới lạ của mình trong cuộc gặp gỡ của mình - thường là thông qua văn học - với các nền văn hóa khác nhau mà đức tin của mình đã bén rễ, mà không ngần ngại tham gia và khai thác những điều tốt nhất mà mình tìm thấy trong mỗi nền văn hóa. Cách tiếp cận này đã giải thoát Giáo hội khỏi sự cám dỗ của một sự tự tham chiếu hẹp hòi, theo chủ nghĩa chính thống coi một "ngữ pháp" văn hóa-lịch sử cụ thể là có khả năng phát biểu toàn bộ sự phong phú và chiều sâu của Tin Mừng. [5] Nhiều lời tiên tri về ngày tận thế hiện đang tìm cách gieo rắc sự tuyệt vọng bắt nguồn chính từ niềm tin như vậy. Việc tiếp xúc với các phong cách văn học và ngữ pháp khác nhau sẽ luôn cho phép chúng ta khám phá sâu hơn tính đa âm của sự mặc khải thần linh mà không làm nghèo nàn nó hoặc giảm nó xuống theo nhu cầu hoặc cách suy nghĩ của riêng chúng ta.

11. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà thời cổ đại của Kitô giáo, chẳng hạn, đã nhận ra rõ ràng nhu cầu phải tham gia nghiêm túc vào nền văn hóa cổ điển của thời đại đó. Thánh Basilêô thành Xêdarêa, một trong những Giáo phụ của Giáo hội Đông phương, trong Bài diễn văn gửi đến giới trẻ, được sáng tác vào khoảng năm 370 đến 375, và rất có thể là dành cho các cháu trai và cháu gái của mình, đã ca ngợi sự phong phú của nền văn học cổ điển do hoi éxothen (“những người bên ngoài”) tạo ra, như ngài gọi các tác giả ngoại giáo. Ngài thấy điều này cả về mặt lập luận, tức là lógoi (các diễn ngôn), hữu ích cho thần học và chú giải, và nội dung đạo đức của nó, cụ thể là práxeis (hành vi, tác phong) hữu ích cho đời sống khổ hạnh và đạo đức. Thánh Basilêô kết thúc tác phẩm này bằng cách thúc giục các Ki-tô hữu trẻ xem các tác phẩm kinh điển như một ephódion (“viaticum” = của ăn đàng) cho nền giáo dục và đào tạo của họ, một phương tiện “lợi ích cho linh hồn” (IV, 8-9). Chính từ cuộc gặp gỡ giữa Ki-tô giáo và nền văn hóa thời đó mà một cách trình bày mới mẻ về sứ điệp Tin Mừng đã xuất hiện.

12. Nhờ sự phân định văn hóa theo tinh thần truyền giáo, chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong nhiều trải nghiệm của con người, nhìn thấy những hạt giống của sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã được gieo vào các biến cố, cảm xúc, mong muốn và khát khao sâu sắc hiện diện trong trái tim và trong các bối cảnh xã hội, văn hóa và tâm linh. Ví dụ, chúng ta có thể thấy điều này trong cách tiếp cận của Thánh Phao-lô trước Areopagus, như được kể lại trong Công vụ Tông đồ (17:16-34). Trong bài phát biểu của mình, Thánh Phao-lô nói về Chúa: “‘Trong Người, chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu’; và như một số nhà thơ của chính các bạn đã nói, ‘Chúng ta cũng là dòng dõi của Người’.” (Công vụ 17:28). Câu thơ này có hai trích dẫn: một trích dẫn gián tiếp từ nhà thơ Epimenides (thế kỷ thứ sáu TCN), và trích dẫn trực tiếp từ Phaenomena [các hiện tượng] của nhà thơ Aratus xứ Soli (thế kỷ thứ ba TCN), người đã viết về các chòm sao và các dấu hiệu của thời tiết tốt và xấu. Ở đây, “Thánh Phao-lô tiết lộ rằng ngài là một ‘người đọc’ đồng thời cũng chứng minh phương pháp tiếp cận văn bản văn học của ngài, đó là sự phân định văn hóa theo Tin Mừng. Người Athen coi ngài là một spermologos, một ‘kẻ ba hoa’, nhưng theo nghĩa chiểu tự là ‘một người thu thập hạt giống’. Điều chắc chắn được cho là một sự xúc phạm đã được chứng minh, thật trớ trêu, là sự thật sâu sắc. Thánh Phao-lô đã thu thập hạt giống của thơ ca ngoại giáo và vượt qua ấn tượng đầu tiên của mình (xem Công vụ 17:16), thừa nhận rằng người Athen ‘cực kỳ sùng đạo’ và nhìn thấy trong các trang văn học cổ điển của họ một praeparatio evangelica [chuẩn bị cho Tin Mừng] thực sự” [6].

13. Thánh Phao-lô đã làm gì? Ngài hiểu rằng “văn học làm sáng tỏ những vực thẳm bên trong bản vị con người trong khi sự mặc khải và sau đó là thần học tiếp quản để chỉ ra cách Chúa Kitô đi vào những chiều sâu này và soi sáng chúng”. [7] Đối diện với những chiều sâu này, văn học do đó là một “con đường” [8] giúp những người chăn dắt các linh hồn bước vào cuộc đối thoại hữu hiệu với nền văn hóa của thời đại họ.

Không bao giờ là một Chúa Kitô không có thân xác

14. Trước khi khám phá những lý do cụ thể tại sao nên khuyến khích nghiên cứu văn học trong quá trình đào tạo các linh mục tương lai, trước tiên tôi muốn nói đôi điều về bối cảnh tôn giáo đương thời. “Sự trở lại với điều thánh thiêng và việc tìm kiếm tâm linh đánh dấu thời đại của chúng ta là những hiện tượng mơ hồ. Ngày nay, thách thức của chúng ta không phải là chủ nghĩa vô thần mà là nhu cầu đáp ứng đầy đủ cơn khát Thiên Chúa của nhiều người, kẻo họ cố gắng thỏa mãn cơn khát đó bằng những giải pháp xa lạ hoặc bằng một Chúa Giêsu không có thân xác”. [9] Nhiệm vụ cấp bách là công bố Tin Mừng trong thời đại chúng ta đòi hỏi các tín hữu, và đặc biệt là các linh mục, phải đảm bảo rằng mọi người đều có thể gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô đã nhập thể, đã làm người, đã làm nên lịch sử. Chúng ta phải luôn cẩn thận không bao giờ đánh mất “xác thịt” của Chúa Giêsu Kitô: xác thịt được tạo nên từ những đam mê, cảm xúc và tình cảm, những lời thách thức và an ủi, những bàn tay chạm đến và chữa lành, những cái nhìn giải thoát và khích lệ, xác thịt được tạo nên từ lòng hiếu khách, sự tha thứ, sự phẫn nộ, lòng can đảm, sự không sợ hãi; nói một cách ngắn gọn, là tình yêu.

15. Chính ở bình diện này, sự quen thuộc với văn học có thể khiến các linh mục tương lai và tất cả những người làm công tác mục vụ nhạy cảm hơn với toàn bộ nhân tính của Chúa Giêsu, trong đó thần tính của Người hiện diện hoàn toàn. Theo cách này, họ có thể công bố Tin Mừng theo cách giúp mọi người có thể trải nghiệm chân lý trong giáo huấn của Công đồng Vatican II rằng, “chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, mầu nhiệm về con người mới thực sự trở nên sáng tỏ”. [10] Đây không phải là mầu nhiệm của một nhân tính trừu tượng nào đó, mà là của tất cả mọi người nam và nữ, với những tổn thương, ham muốn, ký ức và hy vọng của họ vốn là một phần cụ thể trong cuộc sống của họ.

Một điều tốt đẹp tuyệt vời

16. Theo quan điểm thực tế, nhiều nhà khoa học cho rằng thói quen đọc sách có nhiều tác động tích cực đến cuộc sống của con người, giúp họ có được vốn từ vựng rộng hơn và do đó phát triển khả năng trí thức rộng hơn. Nó cũng kích thích trí tưởng tượng và sự sáng tạo của họ, cho phép họ học cách kể câu chuyện của mình theo những cách phong phú và biểu cảm hơn. Nó cũng cải thiện khả năng tập trung, giảm mức độ suy giảm nhận thức và làm dịu căng thẳng và lo lắng.

17. Hơn thế nữa, việc đọc sách giúp chúng ta chuẩn bị để hiểu và do đó giải quyết các tình huống khác nhau phát sinh trong cuộc sống. Khi đọc, chúng ta đắm mình vào những suy nghĩ, mối quan tâm, bi kịch, nguy hiểm và nỗi sợ hãi của các nhân vật, những người cuối cùng đã vượt qua những thách thức của cuộc sống. Có lẽ, khi theo dõi một câu chuyện đến cuối, chúng ta cũng có được những hiểu biết sâu sắc mà sau này sẽ hữu ích trong cuộc sống của chính chúng ta.

18. Trong nỗ lực khuyến khích việc đọc sách này, tôi xin đề cập đến hai văn bản của các tác giả nổi tiếng, những người, tóm lại, có nhiều điều để dạy chúng ta:

Tiểu thuyết giải phóng “trong chúng ta, trong không gian của một giờ, tất cả những niềm vui và bất hạnh có thể có mà trong cuộc sống, chúng ta phải mất nhiều năm mới biết được dù chỉ một chút, và những điều dữ dội nhất sẽ không bao giờ được tiết lộ cho chúng ta vì sự chậm chạp mà chúng xảy ra ngăn cản chúng ta nhận ra chúng”. [11]

“Khi đọc những tác phẩm văn học vĩ đại, tôi trở thành một ngàn người đàn ông nhưng vẫn là chính mình. Giống như bầu trời đêm trong bài thơ Hy Lạp, tôi nhìn bằng vô số con mắt, nhưng tôi vẫn là người nhìn. Ở đây, giống như trong sự tôn thờ, trong tình yêu, trong hành động đạo đức và trong sự hiểu biết, tôi vượt qua chính mình; và không bao giờ là chính mình hơn khi tôi làm như vậy”. [12]

19. Tuy nhiên, tôi không có ý định chỉ tập trung vào những lợi ích bản thân có được từ việc đọc sách, mà là suy gẫm về những lý do quan trọng nhất để khuyến khích tình yêu đọc sách mới.

Lắng nghe tiếng nói của người khác

20. Khi nghĩ đến văn học, tôi nhớ đến điều mà nhà văn vĩ đại người Á Căn Đình Jorge Luis Borges [13] từng nói với học trò của mình, cụ thể là điều quan trọng nhất chỉ là đọc, tiếp xúc trực tiếp với văn học, đắm mình vào văn bản sống động trước mắt, thay vì tập trung vào các ý tưởng và bình luận phê bình. Borges giải thích ý tưởng này với học trò của mình bằng cách nói rằng lúc đầu, các em có thể hiểu rất ít về những gì mình đang đọc, nhưng trong mọi trường hợp, các em đều đang nghe thấy “tiếng nói của người khác”. Đây là định nghĩa về văn học mà tôi rất thích: lắng nghe tiếng nói của người khác. Chúng ta không bao giờ được quên rằng việc ngừng lắng nghe tiếng nói của người khác khi họ thách thức chúng ta là nguy hiểm như thế nào! Chúng ta ngay lập tức rơi vào trạng thái tự cô lập; chúng ta bước vào một loại “điếc tâm linh”, điều này có tác động tiêu cực đến mối quan hệ của chúng ta với chính mình và mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, bất kể chúng ta có học bao nhiêu thần học hay tâm lý học.

21. Cách tiếp cận văn học này, khiến chúng ta nhạy cảm với mầu nhiệm của người khác, dạy chúng ta cách chạm đến trái tim họ. Ở đây, tôi nghĩ đến lời kêu gọi can đảm mà Thánh Phaolô VI đã đưa ra cho các nghệ sĩ và do đó cũng cho các nhà văn vào ngày 7 tháng 5 năm 1964: “Chúng tôi cần các bạn. Sứ vụ của chúng tôi cần sự hợp tác của các bạn. Vì như các bạn biết, sứ vụ của chúng tôi là rao giảng và đảm bảo rằng thế giới của tinh thần, của điều vô hình, của điều không thể diễn tả, của Thiên Chúa, có thể tiếp cận và hiểu được, thực sự đang chuyển động. Và các bạn là bậc thầy trong công việc này, thể hiện thế giới vô hình theo những cách dễ tiếp cận và hiểu được”. [14] Đây là vấn đề: nhiệm vụ của các tín hữu, và đặc biệt là của các linh mục, chính là “chạm đến” trái tim của người khác, để họ có thể mở lòng đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu. Trong nhiệm vụ lớn lao này, sự đóng góp mà văn học và thơ ca có thể mang lại có giá trị vô song.

22. T.S. Eliot, nhà thơ có thi ca và tiểu luận phản ảnh đức tin Ki-tô giáo của ông, có vị trí nổi bật trong nền văn học hiện đại, đã mô tả một cách sâu xa cuộc khủng hoảng tôn giáo ngày nay là cuộc khủng hoảng về khả năng cảm xúc lan rộng. [15] Nếu chúng ta tin vào chẩn đoán này, thì vấn đề đối với đức tin ngày nay không phải chủ yếu là tin nhiều hơn hay tin ít hơn đối với các tín lý đặc thù. Đúng hơn, đó là sự bất lực của rất nhiều người đương thời của chúng ta không thể xúc động sâu sắc trước Thiên Chúa, tạo vật của Người và những con người khác. Ở đây, chúng ta thấy tầm quan trọng của việc chữa lành và làm giàu khả năng phản ứng của chúng ta. Khi trở về từ Chuyến tông du Nhật Bản, tôi được hỏi rằng tôi nghĩ phương Tây phải học gì từ phương Đông. Câu trả lời của tôi là, "Tôi nghĩ rằng phương Tây thiếu một chút thi ca". [16]

Một "sự đào tạo về phân định"

23. Vậy thì, một linh mục được lợi ích gì khi tiếp xúc với văn học? Tại sao cần phải xem xét và thúc đẩy việc đọc các tiểu thuyết lớn như một yếu tố quan trọng trong paideia [cái học] của linh mục? Tại sao điều quan trọng đối với chúng ta, trong quá trình đào tạo các ứng viên cho chức linh mục, là khôi phục lại sự sáng suốt của Karl Rahner rằng có một mối quan hệ tâm linh sâu sắc giữa linh mục và nhà thơ? [17]

24. Chúng ta hãy cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng cách lắng nghe những gì nhà thần học người Đức này muốn nói với chúng ta. [18] Đối với Rahner, những lời thơ của nhà thơ đầy hoài niệm, như thể chúng giống như “những cánh cổng vào vô cực, những cánh cổng vào điều không thể hiểu được. Chúng kêu gọi điều không có tên. Chúng vươn tới điều không thể nắm bắt được”. Thơ “tự nó không trao tặng điều vô hạn, nó không mang lại và chứa đựng điều vô hạn”. Đó là nhiệm vụ của lời Chúa và, như Rahner nói tiếp, “lời thơ kêu gọi lời Chúa”. [19] Đối với các Ki-tô hữu, Lời là Chúa, và tất cả những lời nói của con người chúng ta đều mang dấu vết của một khao khát nội tại đối với Chúa, một xu hướng hướng tới Lời đó. Có thể nói rằng lời thơ thực sự tham gia một cách tương tự vào Lời Chúa, như Thư gửi tín hữu Do Thái đã nêu rõ (x. Dt 4:12-13).

25. Theo quan điểm này, Karl Rahner có thể rút ra một song hành nổi bật giữa linh mục và nhà thơ: chỉ có từ ngữ mới có thể cứu chuộc được điều tạo nên sự giam cầm cuối cùng của mọi thực tại không được diễn tả bằng từ ngữ: sự câm lặng khi nhắc đến Thiên Chúa”. [20]

26. Do đó, văn học giúp chúng ta nhạy cảm hơn với mối quan hệ giữa các hình thức diễn đạt và ý nghĩa. Nó cung cấp một việc huấn luyện về phân định, mài giũa khả năng của linh mục tương lai để có được cái nhìn sâu sắc vào nội tâm của chính mình và vào thế giới xung quanh. Do đó, việc đọc trở thành “con đường” dẫn ngài đến với sự thật về hữu thể của chính mình và là cơ hội cho một quá trình phân định tâm linh sẽ không thiếu những khoảnh khắc lo lắng và thậm chí là khủng hoảng. Thật vậy, nhiều trang văn học tương ứng với những gì Thánh Inhaxiô gọi là “sự hoang tàn” [desolation] về mặt tâm linh.

27. Đây là cách Thánh Inhaxiô giải thích: “Tôi gọi sự hoang tàn là bóng tối của linh hồn, sự hỗn loạn của tinh thần, khuynh hướng về những gì thấp hèn và trần tục, sự bồn chồn xuất phát từ nhiều sự xáo trộn và cám dỗ dẫn đến thiếu đức tin, thiếu đức cậy, thiếu đức mến. Linh hồn hoàn toàn lười biếng, thờ ơ, buồn bã và tách biệt, như thể, khỏi Đấng Tạo Hóa và Thiên Chúa của mình”. [21]

28. Sự khó khăn hoặc nhàm chán mà chúng ta cảm thấy khi đọc một số văn bản nhất định không nhất thiết là xấu hay vô ích. Bản thân Thánh Inhaxiô đã quan sát thấy rằng ở “những người đang đi từ xấu đến tệ hơn”, tinh thần tốt lành hoạt động bằng cách khơi dậy sự bồn chồn, kích động và bất mãn. [22] Đây sẽ là ứng dụng theo nghĩa đen của quy tắc đầu tiên của Thánh Inhaxiô để phân định các tinh thần, liên quan đến những người “đi từ tội trọng này đến tội trọng khác”. Ở những người như vậy, tinh thần tốt lành, bằng cách “sử dụng ánh sáng của lý trí sẽ khơi dậy sự cắn rứt lương tâm và lấp đầy họ bằng sự hối hận”, [23] và theo cách này sẽ dẫn họ đến với điều tốt lành và vẻ đẹp.

29. Rõ ràng là người đọc không chỉ là người nhận được một thông điệp xây dựng, mà là một người được thử thách để tiến về phía trước trên một địa hình thay đổi, nơi ranh giới giữa sự cứu rỗi và sự diệt vong không phải là điều hiển nhiên và rõ ràng tiên thiên. Đọc, như một hành động “phân định”, liên quan trực tiếp đến người đọc với tư cách là “chủ thể” đọc và là “đối tượng” của những gì đang được đọc. Khi đọc một tiểu thuyết hoặc một tác phẩm thơ, người đọc thực sự trải nghiệm “việc được đọc” bởi những từ mà họ đang đọc. [24] Do đó, người đọc có thể được so sánh với những người chơi trên sân: họ chơi trò chơi, nhưng trò chơi cũng được chơi thông qua họ, theo nghĩa là họ hoàn toàn bị cuốn vào hành động. [25]

Chú ý và tiêu hóa

30. Về nội dung, chúng ta nên nhận ra rằng văn học giống như "một chiếc kính thiên văn", sử dụng hình ảnh nổi tiếng của Marcel Proust. [26] Như vậy, nó hướng đến các sinh vật và sự vật, và cho phép chúng ta nhận ra "khoảng cách vô tận" ngăn cách toàn bộ trải nghiệm của con người với nhận thức của chúng ta về nó. "Văn học cũng có thể được so sánh với một phòng thí nghiệm ảnh, nơi các bức ảnh về cuộc sống có thể được xử lý để làm nổi bật các đường nét và sắc thái của chúng. Đây chính là mục đích của văn học: nó giúp chúng ta "phát triển" bức tranh về cuộc sống" [27], thách thức chúng ta về ý nghĩa của nó và nói một cách khác, để trải nghiệm cuộc sống như nó vốn có.

31. Tuy nhiên, quan điểm thông thường của chúng ta về thế giới có xu hướng "bị thu hẹp" và bị thu hẹp bởi áp lực mà nhiều mục tiêu thực tế và ngắn hạn của chúng ta gây ra cho chúng ta. Ngay cả cam kết phục vụ của chúng ta – phụng vụ, mục vụ và bác ái– cũng chỉ có thể tập trung vào các mục tiêu cần đạt được. Tuy nhiên, như Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trong dụ ngôn về người gieo giống, hạt giống cần phải rơi vào đất sâu để chín muồi theo thời gian, mà không bị đất đá hay gai nhọn làm chết nghẹt (Mt 13:18-23). Luôn có nguy cơ này là việc quá quan tâm đến hiệu năng sẽ làm giảm khả năng phân định, làm suy yếu sự nhạy cảm và bỏ qua tính phức tạp. Chúng ta vô cùng cần phải cân bằng lại sự cám dỗ không thể tránh khỏi này đối với lối sống điên cuồng và thiếu phê phán bằng cách lùi lại, chậm lại, dành thời gian để nhìn và lắng nghe. Điều này có thể xảy ra khi một người chỉ dừng lại để đọc một cuốn sách.

32. Chúng ta cần khám phá lại những cách liên hệ với thực tại chào đón hơn, không chỉ mang tính chiến lược và chỉ nhắm đến kết quả, những cách cho phép chúng ta trải nghiệm sự vĩ đại vô hạn của hữu thể. Cảm giác về viễn cảnh, sự nhàn nhã và tự do là dấu hiệu của cách tiếp cận thực tại tìm thấy trong văn học một hình thức diễ đạt ưu tuyển, mặc dù không phải là độc quyền. Văn học do đó dạy chúng ta cách nhìn và thấy, cách phân định và khám phá thực tại của các cá nhân và tình huống như một mầu nhiệm chứa đầy ý nghĩa mà chỉ có thể hiểu được một phần thông qua các phạm trù, các lược đồ giải thích, động lực tuyến tính của nguyên nhân và kết quả, phương tiện và mục đích.

33. Một hình ảnh nổi bật khác về vai trò của văn học đến từ hoạt động của cơ thể con người, và cụ thể là hành động tiêu hóa. Đan sĩ William xứ Saint-Thierry thế kỷ thứ mười một và tu sĩ Dòng Tên Jean-Joseph Surin thế kỷ thứ mười bảy đã phát triển hình ảnh một con bò nhai lại thức ăn của mình - ruminatio - như một hình ảnh của việc đọc chiêm niệm. Surin đã nhắc đến "dạ dày của linh hồn", trong khi tu sĩ Dòng Tên Michel De Certeau đã nói về một "sinh lý học đích thực của việc đọc một cách tiêu hóa". [28] Văn học giúp chúng ta suy gẫm về ý nghĩa của sự hiện diện của chúng ta trên thế giới này, để "tiêu hóa" và đồng hóa nó, và nắm bắt những gì nằm bên dưới bề mặt trải nghiệm của chúng ta. Nói một cách khác, văn học phục vụ cho việc diễn giải cuộc sống, để phân định ý nghĩa sâu xa hơn và những căng thẳng cốt lõi của nó. [29]

Nhìn qua con mắt của người khác

34. Về mặt sử dụng ngôn ngữ, việc đọc một văn bản văn học đặt chúng ta vào vị trí “nhìn qua con mắt của người khác”, [30] do đó có được góc nhìn rộng mở giúp mở rộng nhân tính của chúng ta. Chúng ta phát triển sự tương cảm [empathy] giàu trí tưởng tượng cho phép chúng ta đồng nhất với cách người khác nhìn, trải nghiệm và phản ứng với thực tại. Nếu không có sự tương cảm như vậy, sẽ không có sự liên đới, chia sẻ, lòng cảm thương, lòng thương xót. Khi đọc, chúng ta khám phá ra rằng cảm xúc của chúng ta không chỉ đơn thuần là của riêng chúng ta, chúng mang tính phổ quát, và vì vậy ngay cả người thiếu thốn nhất cũng không cảm thấy cô đơn.

35. Sự đa dạng kỳ diệu của nhân tính, và tính đa nguyên dị đại [diachronic] và đồng đại [synchronic] của các nền văn hóa và lĩnh vực học tập, trong văn học, trở thành một ngôn ngữ có khả năng tôn trọng và diễn đạt mọi tính đa dạng của chúng. Đồng thời, chúng chuyển thành ngữ pháp tượng trưng khiến chúng có ý nghĩa đối với chúng ta, không xa lạ mà được chia sẻ. Sự độc đáo của văn học nằm ở chỗ nó truyền tải sự phong phú của trải nghiệm không phải bằng cách khách quan hóa nó như trong các mô hình mô tả của khoa học hay các phán đoán của phê bình văn học, mà bằng cách thể hiện và diễn giải ý nghĩa sâu xa hơn của nó.

36. Khi chúng ta đọc một câu chuyện, nhờ vào khả năng mô tả của tác giả, mỗi chúng ta có thể thấy trước mắt mình tiếng khóc của một cô gái bị bỏ rơi, một bà già kéo chăn đắp cho đứa cháu trai đang ngủ, những cuộc đấu tranh của một người bán hàng đang cố gắng kiếm sống, nỗi xấu hổ của một người phải chịu đựng những lời chỉ trích liên tục, cậu bé tìm nơi ẩn náu trong những giấc mơ như lối thoát duy nhất khỏi cuộc sống khốn khổ và bạo lực. Khi những câu chuyện này đánh thức những tiếng vọng yếu ớt của những trải nghiệm bên trong chúng ta, chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với những trải nghiệm của người khác. Chúng ta bước ra khỏi chính mình để bước vào cuộc sống của họ, chúng ta đồng cảm với những cuộc đấu tranh và mong muốn của họ, chúng ta nhìn mọi thứ qua con mắt của họ và cuối cùng chúng ta trở thành bạn đồng hành trên hành trình của họ. Chúng ta bị cuốn vào cuộc sống của người bán trái cây, gái mại dâm, đứa trẻ mồ côi, vợ của thợ nề, gái già vẫn tin rằng một ngày nào đó nàng sẽ tìm thấy hoàng tử quyến rũ của mình. Chúng ta có thể làm điều này bằng sự tương cảm và đôi khi bằng sự dịu dàng và hiểu biết.

37. Như Jean Cocteau đã viết cho Jacques Maritain: “Văn học là điều không thể. Chúng ta phải thoát khỏi nó. Không ích gì khi cố gắng thoát ra thông qua văn học; chỉ có tình yêu và đức tin mới giúp chúng ta thoát khỏi chính mình”. [31] Tuy nhiên, chúng ta có thể thực sự thoát khỏi chính mình nếu những đau khổ và niềm vui của người khác không bùng cháy trong trái tim chúng ta? Ở đây, tôi muốn nói rằng, đối với chúng ta là các Ki-tô hữu, không có gì là con người lại thờ ơ với chúng ta.

38. Văn học không phải là tương đối; nó không tước đi các giá trị của chúng ta. Biểu tượng tượng trưng cho thiện và ác, chân lý và sự dối trá, như những thực tại trong văn học mang hình thức của các cá nhân và biến cố lịch sử tập thể, không loại trừ sự phán xét về mặt đạo đức nhưng ngăn chúng ta khỏi sự lên án mù quáng hoặc hời hợt. Như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, “Sao anh thấy cái rác trong mắt người lân cận, mà lại không thấy cái xà trong mắt mình?” (Mt 7:3).

39. Khi đọc về bạo lực, sự hẹp hòi hoặc yếu đuối của người khác, chúng ta có cơ hội suy gẫm về những trải nghiệm của chính mình về những thực tại này. Bằng cách mở ra cho người đọc một góc nhìn rộng hơn về sự vĩ đại và đau khổ của trải nghiệm con người, văn học dạy chúng ta sự kiên nhẫn trong việc cố gắng hiểu người khác, sự khiêm nhường khi tiếp cận những tình huống phức tạp, sự nhu mì trong việc phán đoán cá nhân và sự nhạy cảm với tình trạng con người của chúng ta. Sự phán đoán chắc chắn là cần thiết, nhưng chúng ta không bao giờ được quên phạm vi hạn chế của nó. Sự phán đoán không bao giờ được đưa ra bản án tử hình, loại bỏ con người hoặc đàn áp nhân tính của chúng ta vì mục đích tuyệt đối hóa luật pháp một cách vô hồn.

40. Cái khôn sinh ra từ văn học truyền cho người đọc góc nhìn rộng hơn, ý thức về giới hạn, khả năng coi trọng kinh nghiệm hơn tư duy nhận thức và phản biện, và chấp nhận sự nghèo đói mang lại sự giàu có phi thường. Bằng cách thừa nhận sự vô ích và thậm chí là sự bất khả thi của việc thu hẹp mầu nhiệm của thế giới và nhân loại thành một cực đối lập giữa chân và giả hoặc đúng và sai, người đọc chấp nhận trách nhiệm đưa ra phán đoán, không phải như một phương tiện thống trị, mà là động lực để lắng nghe nhiều hơn. Và đồng thời, sự sẵn sàng tham gia vào sự phong phú phi thường của một lịch sử là do sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nhưng cũng được ban tặng như một ân sủng, một sự kiện không thể đoán trước và không thể hiểu được, không phụ thuộc vào hoạt động của con người, mà định nghĩa lại nhân tính của chúng ta theo hướng hy vọng được cứu rỗi.

Sức mạnh tinh thần của văn học

41. Tôi tin rằng, với những suy gẫm ngắn gọn này, tôi đã nhấn mạnh vai trò mà văn học có thể đóng góp trong việc giáo dục trái tim và khối óc của các mục tử và các mục tử tương lai. Văn học có thể kích thích rất nhiều việc sử dụng lý trí một cách tự do và khiêm tốn, sự công nhận hữu hiệu tính đa dạng của ngôn ngữ loài người, sự mở rộng các giác quan của con người và cuối cùng là sự cởi mở tinh thần to lớn để lắng nghe Tiếng nói phát ra qua nhiều giọng nói.

42. Văn học giúp người đọc lật đổ các thần tượng của một ngôn ngữ tự tham chiếu, tự mãn giả tạo và quy ước tĩnh tụ đôi khi cũng có nguy cơ làm ô nhiễm diễn ngôn giáo hội của chúng ta, giam cầm sự tự do của Lời. Từ ngữ văn học là một từ khiến ngôn ngữ chuyển động, giải phóng và thanh lọc ngôn ngữ. Cuối cùng, nó mở ra cho ngôn ngữ đó những viễn cảnh diễn đạt và mở rộng hơn nữa. Nó mở ra những lời nói của con người để chào đón Lời vốn đã hiện diện trong lời nói của con người, không phải khi nó tự coi mình là kiến thức đã đầy đủ, dứt khoát và hoàn chỉnh, mà là khi nó trở thành sự lắng nghe và mong đợi Đấng đến để làm mới mọi sự (x. Kh 21:5).

43. Cuối cùng, sức mạnh tinh thần của văn học đưa chúng ta trở lại với nhiệm vụ nguyên thủy mà Thiên Chúa giao phó cho gia đình nhân loại của chúng ta: nhiệm vụ “đặt tên” cho các hữu thể và sự vật khác (x. St 2:19-20). Sứ mệnh trở thành người quản lý công trình sáng tạo, được Thiên Chúa giao cho Ađam, đòi hỏi trước hết là sự công nhận phẩm giá của chính ông và ý nghĩa của sự hiện hữu của các hữu thể khác. Các linh mục cũng được giao phó nhiệm vụ nguyên thủy này là “đặt tên”, ban tặng ý nghĩa, trở thành công cụ hiệp thông giữa tạo vật và Ngôi Lời đã nhập thể và quyền năng của Người để soi sáng mọi chiều kích của thân phận con người chúng ta.

44. Do đó, mối quan hệ giữa linh mục và nhà thơ tỏa sáng trong sự kết hợp bí tích mầu nhiệm và không thể tách rời giữa Ngôi Lời thần thiêng và lời nói của con người, tạo nên một thừa tác vụ trở thành một việc phục vụ phát sinh từ sự lắng nghe và lòng cảm thương, một đặc sủng trở thành trách nhiệm, một tầm nhìn về chân lý và điều thiện tự bộc lộ dưới dạng vẻ đẹp. Làm sao chúng ta có thể không suy gẫm những lời mà nhà thơ Paul Celan để lại cho chúng ta: “Những ai thực sự học cách nhìn, sẽ đến gần hơn với những gì vô hình”. [32]

Ban hành tại Rome, tại Nhà thờ Thánh Gioan Latêranô, vào ngày 17 tháng 7 năm 2024, năm thứ mười hai của Triều đại Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

[1] R. LATOURELLE, ‘Văn học’, trong R. LATOURELLE & R. FISICHELLA, Từ điển Thần học Cơ bản, New York 2000, 604.

[2] So sánh A. SPADARO, “J. M. Bergoglio, người sáng tạo bậc thầy. Intervista all'alunno Jorge Milia”, trong La Civiltà Cattolica 2014 I 523-534.

[3] CÔNG ĐỒNG VATICAN THỨ HAI, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hiện đại Gaudium et Spes, 62. [4] K. Rahner, “Il futuro del libro religioso”, in Nuovi saggi II, Roma 1968, 647. [5 ] Xem Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 117. [6] A. SPADARO, Svolta di respiro. Spiritualità della vita contemporanea, Milano, Vita e Pensiero, 101.

[7] R. LATOURELLE, 'Văn học', trong R. LATOURELLE & R. FISICHELLA, Từ điển Thần học Cơ bản, New York 2000, 603.

[8] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 4 tháng 4 năm 1999, 6.

[9] Tông huấn Evangelii Gaudium, 89.

[10] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hiện đại Gaudium et Spes, 22.

[11] M. PROUST, À la recherche du temps perdu - Du côté chez Swann [Đi tìm thời gian đa mất ở phía Swann] Paris 1914, 104-105.

[12] C.S. LEWIS, Một thí nghiệm trong phê bình, 89.

[13] Xem J.L. BORGES, Borges, Oral, Buenos Aires 1979, 22.

[14] Thánh Phao-lô VI, Bài giảng, Thánh lễ với các nghệ sĩ, Nhà nguyện Sistine, ngày 7 tháng 5 năm 1964.

[15] XemT.S. Eliot, The Idea of a Christian Society [Ý niệm Xã hội Ki-tô giáo], London 1946, 30.

[16] Họp báo về chuyến bay trở về Rome, Chuyến tông du đến Thái Lan và Nhật Bản, ngày 26 tháng 11 năm 2019.

[17] So sánh A. SPADARO, La grazia della parola [ân sủng của lời]. Karl Rahner và thơ ca, Milano, Jaca Book, 2006.

[18] Xem K. Rahner, Theological Investigations (Các điều tra Thần học], Tập. III, Luân Đôn 1967, 294-317.

[19] Như trên 316-317.

[20] Như trên 302.

[21] THÁNH INHAXIÔ LOYOLA, Linh Thao, số 317. [22] Xem đa dẫn, số 335.

[23] Như trên, số 314

[24] Xem K. Rahner, Điều tra thần học, Tập. III, Luân Đôn 1967, 299.

[25] X. A SPADARO, La pagina che illumina. Scrittura creativa come esercizio spirituale[Trang chiếu sáng. Viết sáng tạo như một linh thao], Milano, Ares, 2023, 46-47.

[26] M. PROUST, À la recherche du temps perdu. Le temps retrouvé [đi tìm thời gian đã mất. Thời gian tìm lại], Vol. III, Paris 1954, 1041.

[27] A SPADARO, La pagina che illumina. Scrittura creativa come esercizio spirituale [Trang chiếu sáng. Viết sáng tạo như một linh thao], Milano, Ares, 2023, 14.

[28] M. DE CERTEAU, Il parlare angelico. Figure per una poetica della lingua (Secoli XVI e XVII) [Nói như thiên thần. Những hình tượng thi pháp ngôn ngữ (thế kỷ 16 và 17), Firenze 1989, 139 ff.

[29] A SPADARO, La pagina che illumina. Scrittura creativa come esercizio spirituale, Ares, 2023, 16.

[30] Cf. C.S. LEWIS, Một thử nghiệm về phê bình.

[31] J. COCTEAU – J. MARITAIN, Dialogo sulla fede [đối thoại về đức tin], Firenze, Passigli, 1988, 56; Cf. A SPADARO, La pagina che illumina. Scrittura creativa come esercizio spirituale, Milano, Ares, 2023, 12-11.

[32] P. CELAN, Microliti, Milano 2020, 101.