Bác ái làm tất cả vì con cái mình

Giữa năm 1620 và 1621, khi sắp qua đời, Thánh Phanxicô đã viết cho một trong những linh mục của ngài một lá thư làm sáng tỏ quan điểm của ngài về thời đại mà ngài đã sống. Ngài khuyến khích ý của vị này muốn sáng tác những tác phẩm mới để đáp ứng các vấn đề mới, và cho thấy ngài nhận ra sự cần thiết của những tác phẩm như vậy. “Tôi phải nói với cha rằng khi tôi nhận thức rõ hơn mỗi ngày về những điều hài hước của thế giới, tôi càng khao khát tha thiết rằng Thiên Chúa, vì lòng nhân từ của Người, sẽ truyền cảm hứng cho một trong những tôi tớ của Người viết theo cách phù hợp với sở thích của thế giới nghèo khổ này” [21]. Ngài đưa ra quan điểm của riêng mình về thời đại làm lý do: “Thế giới đang trở nên mong manh đến mức, trong một thời gian ngắn nữa, sẽ không còn ai dám đụng tới nó ngoại trừ với đôi găng tay nhung, hoặc băng bó vết thương cho nó ngoại trừ bằng băng tẩm nước hoa; tuy nhiên, điều đó có quan trọng gì nếu không phải chỉ là những người đàn ông và đàn bà được chữa lành và cuối cùng được cứu vớt? Đức ái, nữ hoàng của chúng ta, làm mọi điều cho con cái của mình” [22]. Đây không phải là lời nói nhàm chán ngoan đạo hay biểu thức cam chịu khi đối diện với thất bại. Thay vào đó, đây là một việc nhận ra rằng thế giới đang thay đổi và là dấu hiệu của một ý thức hoàn toàn mang tính tin mừng về nhu cầu đáp ứng những thay đổi đó.



Thánh Phanxicô đã sớm nhận ra điều đó và ngài đã bày tỏ điều đó trong Lời nói đầu cuốn Khảo luận về Tình yêu Thiên Chúa: “Tôi đã xem xét lối suy nghĩ của con người thời đại này, và tôi không thể làm khác được: điều rất quan trọng là phải ghi nhớ thời đại khi người ta viết” [23]. Rồi, trong khi xin độc giả lượng thứ, ngài tiếp tục viết: “Nếu bạn thấy văn phong hơi khác so với văn phong mà tôi đã sử dụng trong Phần giới thiệu, và cả hai văn phong này đều khác với văn phong của cuốn Bảo vệ Thập giá, thì bạn nên biết rằng nhiều điều đã học được và bị lãng quên trong mười chín năm. Ngôn ngữ chiến tranh khác với ngôn ngữ hòa bình, và chúng ta nói cách này với các tập viên trẻ và nói cách khác với các anh em lớn tuổi hơn” [24]. Thế nhưng, để đáp ứng với thời gian thay đổi, người ta nên bắt đầu từ đâu, nếu không phải từ lịch sử đối xử của Thiên Chúa với nhân loại? Đây là mục đích cuối cùng của cuốn Khảo luận: “Ý định của tôi chỉ là trình bày, một cách đơn giản và thẳng thắn, không giả tạo và chắc chắn không có màu sắc giả tạo, lịch sử ra đời, tiến triển, suy tàn, vận hành, tính chất, ưu điểm và phẩm chất siêu phàm của tình yêu Thiên Chúa” [25].

Các yêu cầu của một sự thay đổi mang tính thời đại

Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về di sản của Thánh Phanxicô đệ Salê để lại cho thời đại chúng ta. Tôi thấy sự linh hoạt và tầm nhìn xa trông rộng của ngài có nhiều điều để nói với chúng ta. Một phần nhờ ơn Thiên Chúa và một phần nhờ tính cách của chính ngài, nhưng cũng nhờ sự trau dồi kinh nghiệm sống bền bỉ của ngài, Thánh Phanxicô nhận thức rõ ràng thời thế đang thay đổi. Tự sức riêng của ngài, có lẽ ngài không bao giờ tưởng tượng được rằng những thay đổi đó lại là một cơ hội tuyệt vời cho việc rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa mà ngài yêu mến từ thuở còn trẻ giờ đây đã mở ra trước mắt ngài nhiều chân trời mới và bất ngờ trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Nhiệm vụ tương tự đang chờ đợi chúng ta trong thời đại thay đổi mang tính thời đại này của chính chúng ta. Chúng ta được thách thức trở thành một Giáo hội hướng ngoại và thoát khỏi mọi tính chất thế tục, ngay cả khi chúng ta sống trong thế giới này, chia sẻ cuộc sống của mọi người và hành trình với họ trong sự lắng nghe và chấp nhận một cách chăm chú [26]. Đó là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê đã làm khi nhận ra các biến cố trong thời đại của ngài với sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa. Ngày nay, ngài kêu gọi chúng ta hãy gạt sang một bên mối quan tâm thái quá cho bản thân, cho các cơ cấu của chúng ta và cho những gì xã hội nghĩ về chúng ta, và thay vào đó hãy quan tâm đến những nhu cầu và mong đợi thiêng liêng thực sự của người dân chúng ta [27]. Trong thời đại của chúng ta cũng vậy, thật hữu ích khi xem xét lại một số quyết định quan trọng mà ngài đã đưa ra, để về phần chúng ta, chúng ta có thể đáp ứng những thay đổi của ngày hôm nay bằng sự khôn ngoan do Tin Mừng mang lại.

Gió và đôi cánh

Quyết định đầu tiên trong số đó là giải thích lại và đề xuất một lần nữa cho mỗi người nam và nữ, trong hoàn cảnh chuyên biệt của họ, vẻ đẹp của mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Lý do cuối cùng và mục đích thực tế của Khảo luận của ngài là để minh họa cho những người cùng thời với ngài sức hấp dẫn của tình yêu Thiên Chúa. Ngài hỏi: “Đâu là ‘sợi dây’ mà sự quan phòng của Thiên Chúa sử dụng để kéo trái tim chúng ta về với tình yêu của Người?” (28) Lặp lại lời lẽ của Tiên tri Hôxêa (11:4), ngài định nghĩa các phương tiện thông thường này là “các sợi dây nhân tính, bác ái và hữu nghị”. Ngài viết: “Rõ ràng, chúng ta không bị lôi cuốn tới Thiên Chúa bằng xiềng xích sắt, như bò mộng hay bò đực, nhưng bằng những lời mời gọi, lôi kéo và linh hứng thánh thiện; đó là những sợi dây của Ađam và của lòng tốt con người, phù hợp với trái tim con người, vốn tự do một cách tự nhiên” (30). Cũng bằng những sợi dây đó, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ, dạy họ biết đi và nắm tay họ như cha mẹ với con cái. Cách của ngài không phải là cách áp đặt bên ngoài, chuyên quyền và độc đoán, hay bạo lực, mà là cách thuyết phục tôn trọng quyền tự do của con người chúng ta. Thánh Phanxicô viết tiếp, chắc chắn nghĩ đến nhiều câu chuyện sống mà ngài đã gặp, “Sức mạnh của ân sủng không kìm hãm con tim, nhưng thu hút nó. Ân sủng sở hữu một sức mạnh thần thánh, không vi phạm quyền tự do của chúng ta nhưng hướng dẫn nó đến tình yêu. Ân sủng hành động mạnh mẽ, nhưng một cách dễ chịu đến nỗi ý chí của chúng ta không bị áp đảo bởi một sức mạnh quá mạnh mẽ; trong khi thúc đẩy chúng ta, nó không áp bức quyền tự do của chúng ta. Thành thử, trước mọi sức mạnh của nó, chúng ta có thể đồng ý hoặc chống lại những thúc đẩy của nó theo ý muốn của chúng ta” [31].

Trước đó, Thánh Phanxicô đã nói về mối quan hệ này bằng cách sử dụng một thí dụ gây tò mò rút ra từ khoa nói về chim: “Theotimos, có một số loài chim mà Aristốt gọi là ‘apodans’, bởi vì chúng có đôi chân ngắn và yếu đến mức chẳng có tác dụng gì đối với chúng; như thể thậm chí chúng không có chúng. Nếu rơi xuống đất, chúng vẫn ở đó, không thể bay vì nếu không sử dụng chân hoặc bàn chân, chúng không thể bay lên và cất cánh được. Do đó, chúng vẫn ở trên mặt đất và chết ở đó, trừ khi một cơn gió mạnh, bù đắp cho sự bất lực của chúng, nâng chúng lên, như thường xảy ra với những thứ khác. Trong trường hợp đó, nếu chúng đập cánh để đáp lại sức đẩy của gió, thì chính gió sẽ tiếp tục giúp chúng bằng cách đẩy chúng bay cao hơn nữa, để giúp chúng bay ngày càng cao hơn” [32]. Điều này cũng đúng với chúng ta: chúng ta được Chúa tạo ra để bay, để dang rộng đôi cánh đáp lại tiếng gọi của tình yêu, nhưng một khi chúng ta rơi xuống trái đất, trừ khi chúng ta chọn mở rộng đôi cánh đó trước làn gió của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ gặp nguy cơ không bao giờ có thể bay được nữa.

Như thế, đây là cách được ân sủng của Thiên Chúa dùng để đến với chúng ta: qua “dây Adam”, những mối liên kết nhân tính và tình yêu. Quyền năng của Đức Chúa Trời luôn có thể nâng chúng ta lên để cất cánh, tuy nhiên, sự dịu dàng, lòng nhân từ yêu thương của Người khiến Người tôn trọng sự tự do của chúng ta. Việc cất cánh hay ở lại trên mặt đất là tùy thuộc chúng ta. Ngay cả khi ban ân sủng của Người, Thiên Chúa sẽ không để chúng ta bay cao nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Do đó, Thánh Phanxicô có thể kết luận: “Theotimos, những linh hứng của Thiên Chúa dự ứng chúng ta và khiến chúng ta cảm thấy trước khi chúng ta nhận thức được chúng, nhưng một khi chúng ta nhận thức được chúng, thì chúng ta phải đồng ý và làm theo sự hướng dẫn của chúng, hoặc từ chối và bác bỏ chúng. Chúng làm chúng được cảm nhận bởi chúng ta mà không cần chúng ta; tuy nhiên, không có chúng ta, chúng không tạo ra sự đồng ý của chúng ta” [33]. Trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta luôn cảm nghiệm được một sự nhưng không chứng tỏ tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha dành cho chúng ta.

Đồng thời, ân sủng này không bao giờ làm cho chúng ta trở nên thụ động. Nó dẫn chúng ta đến chỗ nhận ra rằng tình yêu của Thiên Chúa hoàn toàn đi trước chúng ta, và hồng ân đầu tiên của Người chính là ở việc chúng ta chấp nhận tình yêu đó. Do đó, mỗi người có trách nhiệm hợp tác với sự viên mãn của chính mình, với việc dang rộng đôi cánh của mình một cách tín thác đầy tin tưởng vững chắc trước cơn gió mạnh của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng của ơn gọi làm người của chúng ta. “Trong câu chuyện Sáng thế, Thiên Chúa ra lệnh cho Ađam và Evà phải sinh sôi nảy nở. Nhân loại có sứ mệnh thay đổi, xây dựng, làm chủ sáng thế theo nghĩa tích cực là sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp tới không phụ thuộc vào một cơ chế vô hình nào đó, một tương lai mà nhân loại là khán giả thụ động. Không: chúng ta là những nhân vật chủ đạo, chúng ta là các người đồng sáng tạo, nếu tôi có thể kéo dài hạn từ này” [34]. Đó là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê đã nhận ra và tìm cách truyền lại qua chức vụ hướng dẫn tinh thần của mình.

Lòng sùng kính đích thực

Một quyết định quan trọng thứ hai của Thánh Phanxicô là tiếp cận vấn đề sùng kính. Ở đây cũng như trong thời đại của chúng ta, buổi bình minh của một thời đại mới đã đặt ra một số vấn đề. Hai khía cạnh của vấn đề cần được hiểu và đánh giá lại hiện nay. Thứ nhất liên quan đến chính ý tưởng về lòng sùng kính, thứ hai là tính chất phổ quát và phổ biến của nó.

Mở đầu cuốn Nhập Môn Đời Sống Sùng Kính, Thánh Phanxicô làm sáng tỏ ý nghĩa của lòng sùng kính: “Trước hết cần phải biết nhân đức sùng kính bao gồm những gì. Chỉ có một lòng sùng kính đích thực, và nhiều lòng sùng kính giả dối và hão huyền. Nếu không phân biệt được lòng sùng kính đích thực, bạn có thể rơi vào lầm lạc và lãng phí thời gian để chạy theo một số lòng sùng kính vô bổ và mê tín” [35].

Sự mô tả của Thánh Phanxiô về lòng sùng kính sai lầm thật thú vị và luôn hợp thời. Mọi người đều có thể liên hệ với nó, vì ngài thêm mắm thêm muối nó một cách hài hước. “Người nào gắn bó với việc ăn chay sẽ cho mình là mộ đạo vì không ăn, mặc dù lòng đầy cay đắng; và trong khi, do yêu thích sự tỉnh táo, họ sẽ không để một giọt rượu, hay thậm chí một giọt nước, đụng tới lưỡi của họ, nhưng họ lại không ngần ngại nhúng nó vào máu của người hàng xóm bằng những lời đàm tiếu và vu khống. Một người khác sẽ tự coi mình là người mộ đạo vì suốt ngày họ lầm bầm một chuỗi những lời cầu nguyện, nhưng vẫn không để ý đến những lời độc ác, cao ngạo và gây tổn thương mà lưỡi họ tung vào những người hầu và hàng xóm của họ. Lại có những người sẵn sàng mở hầu bao bố thí cho người nghèo, nhưng lại không thể moi ra một chút lòng thương xót nào để tha thứ cho kẻ thù của mình. Kẻ khác sẽ tha thứ cho kẻ thù của mình, nhưng thậm chí không bao giờ nghĩ đến việc trả nợ; phải cần một vụ kiện mới khiến họ làm như vậy”[36]. Tất nhiên, tất cả những điều này đều là những tật xấu và những cuộc đấu tranh muôn thuở, và chúng khiến thánh nhân kết luận rằng “tất cả những người tốt này, thường được coi là sùng đạo, nhưng chắc chắn là không phải vậy” [37].

Nguồn gốc của sự sùng kính đích thực được tìm thấy ở nơi khác; gốc rễ sâu xa nhất của nó là ở trong sự sống của Thiên Chúa ngự nơi lòng chúng ta. “Lòng sùng kính đích thực và sống động đòi hỏi phải có tình yêu đối với Thiên Chúa; thực vậy, đó không là gì khác hơn là một tình yêu Thiên Chúa đích thực, chứ không chung chung” [38]. Theo ngôn ngữ sống động của Thánh Phanxicô, lòng sùng kính là “một loại năng lực và sự tỉnh táo tâm linh, nhờ đó đức ái hành động trong chúng ta hoặc, chúng ta hành động nhờ nó, một cách nhanh chóng và đầy tình cảm” [39]. Vì lý do này, lòng sùng kính không tồn tại bên cạnh đức ái, mà là một trong những biểu hiện của đức ái, đồng thời dẫn trở lại đức ái. Lòng sùng kính giống như ngọn lửa đối với lửa: nó gia tăng cường độ của đức ái mà không làm thay đổi phẩm chất của nó. “Cuối cùng, đức ái và lòng sùng kính có thể nói là khác nhau như lửa với ngọn lửa. Đức ái là ngọn lửa tinh thần, khi được thổi bùng thành ngọn lửa được gọi là lòng sùng kính. Như vậy, lòng sùng kính không thêm gì vào ngọn lửa đức ái mà là ngọn lửa làm cho đức ái mau mắn, tích cực và siêng năng, không những trong việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa mà còn trong việc thực thi các lời khuyên và linh hứng của Thiên Chúa” [40]. Hiểu theo cách này, lòng sùng kính không phải là một điều gì trừu tượng. Thay vào đó, nó trở thành một phong cách sống, một cách sống hòa mình vào cuộc sống cụ thể hàng ngày của chúng ta. Nó bao trùm và khám phá ý nghĩa trong những điều nhỏ nhặt: thức ăn và quần áo, công việc và thư giãn, tình yêu và thiên chức làm cha mẹ, sự ý thức trong việc chu toàn bổn phận của chúng ta. Tóm lại, nó làm sáng tỏ ơn gọi của mỗi cá nhân.

Ở đây chúng ta bắt đầu thấy chiều kích bình dân của lòng sùng kính, vốn hiện diện ngay từ những lời đầu tiên của cuốn Dẫn nhập vào Đời sống Sùng kính: “Hầu như tất cả những ai từng đối xử với lòng sùng kính đều tìm cách hướng dẫn những người sống tách biệt với thế giới, hoặc ít nhất là họ đã dạy một loại sùng kính dẫn đến sự cô lập như vậy. Tôi có ý định đưa ra những lời dạy của mình cho những người sống ở các thành phố, trong các gia đình, tại tòa án và những người, do hoàn cảnh sống của họ, buộc phải sống giữa những người khác”[41]. Những người nghĩ rằng lòng sùng kính chỉ giới hạn trong một khung cảnh yên tĩnh và hẻo lánh nào đó là hết sức nhầm lẫn. Lòng sùng kính dành cho mọi người, trong mọi hoàn cảnh và mỗi người chúng ta có thể thực hành nó theo ơn gọi của mình. Như Thánh Phaolô VI đã viết vào dịp kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô đệ Salê, “Sự thánh thiện không phải là đặc quyền của bất cứ nhóm nào, nhưng là lời kêu gọi khẩn cấp gửi đến mọi Kitô hữu: ‘Bạn ơi, hãy lên cao hơn’ (Lc 14:10). Tất cả chúng ta đều được mời gọi lên núi Thiên Chúa, mặc dù không cùng một con đường. ‘Lòng sùng kính phải được thực hành khác nhau bởi những người sang trọng, thợ thủ công, thị thần, hoàng tử, góa phụ, thiếu nữ, các bà vợ. Hơn nữa, việc thực hành lòng sùng kính phải thích ứng với khả năng, công việc và bổn phận của mỗi người’” [42]. Sống giữa thành phố thế tục trong khi nuôi dưỡng đời sống nội tâm, kết hợp ước muốn hoàn thiện với mọi trạng thái của cuộc sống, và khám phá một sự bình an nội tâm không tách rời chúng ta ra khỏi thế giới nhưng dạy chúng ta cách sống trong đó và để đánh giá cao nó, nhưng cũng để duy trì một sự tách biệt thích hợp khỏi nó. Đó là mục tiêu của Thánh Phanxicô đệ Salê, và nó vẫn là một bài học quý giá cho những người đàn ông và đàn bà trong thời đại của chúng ta.

Đây cũng là giáo huấn của Công đồng Vatican II về ơn gọi nên thánh phổ quát: “Được củng cố bởi rất nhiều và những phương tiện cứu rỗi vĩ đại như vậy, tất cả các tín hữu, bất kể hoàn cảnh hay bậc sống nào, đều được Chúa mời gọi – mỗi người trong con đường riêng của họ – đến sự thánh thiện hoàn hảo nhờ đó chính Chúa Cha trở nên hoàn thiện” [43]. Mỗi người theo cách riêng của mình… “Chúng ta đừng nản lòng trước những mẫu gương thánh thiện dường như không thể đạt được” [44]. Mẹ Giáo hội đề xuất chúng với chúng ta không phải để sao chép chúng, nhưng để chúng ta có thể được thúc đẩy theo đuổi con đường chuyên biệt mà Chúa đã chọn cho mỗi người chúng ta. “Điều quan trọng nhất là mỗi tín hữu biện phân được con đường riêng của họ, để họ phát huy hết những gì tốt nhất của họ, những hồng ân riêng tư nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong lòng họ (x. 1 Cr 12:7)” [45].

Sự ngây ngất của cuộc sống

Như thế, Thánh Phanxicô xem toàn bộ đời sống Kitô hữu như “sự ngây ngất của công việc và cuộc sống” [46]. Đối với ngài, không nên nhầm lẫn Kitô giáo với chủ nghĩa thoát ly thực tế dễ dãi hoặc chỉ loay hoay với bản thân, càng không thể nhầm lẫn với việc vâng lời buồn tẻ ảm đạm. Chúng ta biết rằng mối nguy hiểm này luôn có thể hiện diện trong đời sống đức tin. Thật vậy, “có những Kitô hữu mà cuộc sống của họ dường như là Mùa Chay mà không có Lễ Phục Sinh”, và trong khi chúng ta có thể hiểu được nỗi đau buồn của những người phải chịu nhiều đau khổ, thì “tất cả chúng ta phải từ từ nhưng chắc chắn để cho niềm vui đức tin bắt đầu hồi sinh như một niềm tín thác âm thầm nhưng vững chắc, ngay trong lúc khốn cùng nhất” [47].

Cho phép niềm vui nở hoa trong trái tim chúng ta là điều mà Thánh Phanxicô đệ Salê muốn nói qua câu “sự ngây ngất của công việc và cuộc sống”. Bằng cách này, “chúng ta không chỉ sống một cuộc sống dân sự, trung thực và Kitô giáo, mà còn là một cuộc sống siêu phàm, thiêng liêng, sùng kính và xuất thần, một cuộc sống mà trong bất cứ trường hợp nào cũng vượt xa và trên cả tình trạng tự nhiên của chúng ta” [48]. Ở đây chúng ta đi tới những trang trung tâm, soi sáng của Khảo luận, trong đó "sự ngây ngất" được trình bày như một niềm vui phấn khởi của một đời sống Kitô hữu vượt lên trên sự tầm thường của việc tuân thủ đơn thuần. “Không được trộm cắp, nói dối, thề thốt vô ích; yêu thương và kính trọng cha mình; không sát sinh: đây là sống thuận theo lẽ tự nhiên. Nhưng từ bỏ tất cả của cải, yêu sự nghèo khó, gọi nó và coi nó như tình nhân tuyệt vời nhất, coi sự sỉ nhục, bắt bớ và tử đạo như hạnh phúc và phước lành, giữ gìn sự thanh tịnh tuyệt đối, sống trong đời trái ngược với mọi sự khôn ngoan của thế gian và chống lại thăng trầm của cuộc sống này bằng thói quen cam chịu, từ bỏ và các hành vi tự từ bỏ: đó không phải là sống trong chính chúng ta, mà ở trên và vượt ra ngoài chính chúng ta. Và bởi vì không ai có thể vượt lên trên chính mình theo cách này trừ khi Chúa Cha hằng hữu lôi kéo người ấy, nên loại cuộc sống này là một sự sung sướng vĩnh viễn và một trạng thái ngây ngất liên tục của hành động và hoạt động” [49].

Nói cách khác, một cuộc sống khám phá lại những nguồn vui và tránh được cám dỗ của việc tự cho mình là trung tâm. Vì “mối nguy hiểm lớn trong thế giới ngày nay, chủ nghĩa tiêu thụ lan tràn khắp nơi, là sự buồn phiền và thống khổ sinh ra từ một tấm lòng tự mãn nhưng tham lam, cuồng nhiệt theo đuổi những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Bất cứ khi nào đời sống nội tâm của chúng ta bị cuốn vào những lợi ích và mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được lắng nghe, niềm vui thầm lặng của tình yêu của Người không còn được cảm nhận, và mong muốn làm điều tốt cũng phai nhạt. Đây cũng là một mối nguy hiểm thực sự cho các tín hữu. Nhiều người trở thành con mồi của nó, và cuối cùng trở nên oán thù, giận dữ và bơ phờ” [50].

Đối với mô tả của mình về “sự ngây ngất của công việc và cuộc sống”, Thánh Phanxicô bổ sung thêm hai lời giải thích quan trọng vẫn còn giá trị cho chúng ta ngày nay. Điều đầu tiên đưa ra một tiêu chuẩn thực tế để biện phân tính chân thực của lối sống này, trong khi điều thứ hai liên quan đến nguồn gốc sâu xa nhất của nó. Là tiêu chuẩn của việc biện phân, ngài tuyên bố rằng trong khi, một mặt, trạng thái ngây ngất này đòi hỏi sự từ bỏ bản thân thực sự, thì mặt khác, nó không có nghĩa là chạy trốn khỏi cuộc sống. Chúng ta nên thường xuyên nhắc nhở bản thân về điều này, kẻo chúng ta có nguy cơ đi lạc khỏi con đường đúng đắn. Nói tóm lại, những ai nghĩ rằng họ đang tiến đến gần Thiên Chúa, nhưng lại không yêu thương người lân cận của mình, thì họ đang lừa dối cả chính họ và những người khác.

Ở đây chúng ta tìm thấy cùng một tiêu chuẩn được Thánh Phanxicô dùng để đo lường lòng sùng kính đích thực. “Nếu bạn thấy một người trong lúc cầu nguyện có những cơn ngây ngất nâng họ lên trên Thiên Chúa, nhưng lại không có sự ngây ngất đối với cuộc sống, nghĩa là người ấy không sống một cuộc sống được nâng cao và kết hợp với Thiên Chúa, nhất là nhờ đức ái liên lỉ, Theotimus, hãy tin tôi đi, tất cả những cơn ngây ngất của họ đều hết sức đáng ngờ và nguy hiểm”. Kết luận của ngài rất sắc bén: “Vượt lên trên chính chúng ta khi cầu nguyện, nhưng lại ở dưới chính chúng ta trong cuộc sống và hành động, như một thiên thần trong suy niệm, nhưng thô bạo trong cuộc trò chuyện, là một dấu hiệu thực sự cho thấy những trạng thái ngây ngất và xuất thần như vậy không là gì khác mà chỉ là những trò tiêu khiển và lừa dối của thần xấu” [51]. Trong yếu tính, đây là điều mà Thánh Phaolô đã chỉ ra cho người Côrintô trong “bài thánh ca về đức ái” của ngài: “Nếu tôi có quyền năng tiên tri, và hiểu biết mọi điều mầu nhiệm và mọi kiến thức, và nếu tôi có tất cả đức tin, dời núi mà không có tình yêu, tôi chẳng là gì cả. Nếu tôi cho đi tất cả những gì tôi có, và nếu tôi phó thân thể mình để bị thiêu đốt, mà không có tình yêu thương, thì tôi cũng chẳng được gì” (1Cr 13:2-3).

Như thế, đối với Thánh Phanxicô đệ Salê, dù đời sống Kitô hữu không bao giờ không có sự ngây ngất, thì sự ngây ngất không chân thực nếu tách rời khỏi một đời sống Kitô hữu thực sự. Thật vậy, cuộc sống không có sự ngây ngất có nguy cơ bị giảm xuống thành sự vâng lời mù quáng, một việc lấy hết niềm vui của Tin Mừng. Mặt khác, sự ngây ngất mà không có sự sống dễ trở thành mồi ngon cho những ảo tưởng và lừa dối của Thần ác. Các phân cực lớn lao của đời sống Kitô hữu không thể được giải quyết và loại bỏ. Có thể nói, cái này bảo tồn tính chân xác của cái kia. Do đó, sự thật không tồn tại nếu không có công lý, niềm vui không tồn tại nếu không có trách nhiệm, tính tự phát không tồi tại nếu không có luật pháp và ngược lại.

Về nguồn gốc sâu xa nhất của sự ngây ngất này, Thánh Phanxicô đã khéo léo truy nguyên nó đến tình yêu được biểu lộ bởi Chúa Con nhập thể. Nếu thực sự “tình yêu là hành động và nguyên tắc đầu tiên của đời sống tôn giáo hoặc tinh thần của chúng ta, qua đó chúng ta sống, cảm nhận và xúc động” và “đời sống tinh thần giống như các hoạt động tình cảm của chúng ta”, thì rõ ràng là “một trái tim không có tình cảm thì không có tình yêu”, và “một trái tim có tình yêu không phải là không có tình cảm” [52]. Nguồn gốc của tình yêu thu hút trái tim này là cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô. “Không có gì lay động trái tim con người bằng tình yêu”, và điều này thể hiện rõ nhất qua sự kiện “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì chúng ta; Người đã cho chúng ta sự sống thông qua cái chết của Người. Chúng ta sống chỉ vì Người đã chết, và chết cho chúng ta, như là cái chết của chúng ta và trong chúng ta” [53].

Những lời này rất cảm động; chúng không chỉ bộc lộ sự hiểu biết rõ ràng và sâu sắc về mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, mà còn cho thấy mối tương quan yêu mến sâu sắc giữa Thánh Phanxicô đệ Salê và Chúa Giêsu. Sự ngây ngất của cuộc sống và hành động không phải là một thực tại trừu tượng, nhưng tỏa sáng trong đức ái của Chúa Kitô mà tột đỉnh là thập giá. Tình yêu đó, không hề làm mất đi sự hiện hữu của chúng ta, mà làm cho nó tỏa sáng một cách sáng láng phi thường.

Vì lý do này, Thánh Phanxicô đệ Salê có thể diễn tả một cách hùng hồn đồi Canvê như “ngọn núi của những người yêu nhau” [54]. Vì ở đó và chỉ ở đó, chúng ta mới nhận ra rằng “không thể có cuộc sống nếu không có tình yêu, hoặc không có tình yêu nếu không có cái chết của Đấng Cứu Chuộc. Ngoại trừ ở đó, mọi sự hoặc là cái chết vĩnh cửu hoặc là tình yêu vĩnh cửu, và toàn bộ sự khôn ngoan của Kitô hữu hệ ở việc biết cách lựa chọn khéo giữa chúng với nhau” (55). Như thế, Thánh Phanxicô đã có thể kết luận Khảo luận của ngài bằng cách nại đến một bài giảng của Thánh Augustinô, “Còn gì kiên định hơn đức ái, không phải trong việc đền bù những tổn thương, mà là không tính đến chúng? Không quan tâm đến những thứ mau qua, mà quan tâm đến vĩnh cửu? Vì nó có niềm tín thác không lay chuyển vào những lời hứa hẹn ở sự sống tương lai, nên đức ái có thể bao dung mọi sự ở đời này. Nó có thể chịu đựng bất cứ điều gì nó phải chịu đựng ở đây dưới thế này, bởi vì nó hy vọng vào những lời hứa của thế giới sắp tới. Quả thật, đức ái không bao giờ thất bại. Như thế, hãy trau dồi nó, và suy nghĩ những tư tưởng thánh thiện, mang lại thành quả của công lý. Và nếu bạn khám phá ra điều gì khác để ca ngợi đức ái ngoài những gì tôi đã nói ở đây, hãy để điều đó trở nên rõ ràng trong cuộc sống của bạn” [56].

Tất cả những điều này đã được thể hiện cực kỳ rõ ràng trong cuộc đời của vị Giám mục thánh thiện của miền Annecy, và giờ đây, một lần nữa, nó được ủy thác cho mỗi người chúng ta. Ước gì lễ kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài giúp chúng ta tôn kính Thánh Phanxicô đệ Salê, và nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin Chúa ban nhiều ơn Chúa Thánh Thần trên hành trình của Dân thánh thiện và trung thành của Người.

Rôma, tại Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 28 tháng 12 năm 2022

Phanxicô

[1] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[2]ID., Lett.2103:À Monsieur Sylvestre de Saluces de la Mente, Abbé d’Hautecombe (3 Tháng 11, 1622), trong Œuvres de Saint François de Sales, XXVI, Annecy, 1932, 490-491.

[3]ID., Lett. 1961:À une Dame (19 Tháng 12, 1622), trong Œuvres de Saint François de Sales, XX (Lettres,X:1621-1622), Annecy, 1918, 395.

[4]ID.,Traité de l’amour de Dieu, I, 15: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 395.

[5]ID.,Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[6]Tông huấn Gaudete et Exsultate(19 Tháng Ba, 2018), 49:AAS110 (2018), 1124.

[7]Ibid., 57: AAS 110 (2018), 1127.

[8]Cf. ibid., các số. 37-39:AAS110 (2018), 1121-1122.

[9] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Entretiens spirituels, Dernier entretien [21]: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 1319.

[10]Ibid., 1308.

[11]Ibid.

[12] Letter to the Right Reverend Yves Boivineau, Bishop of Annecy, on the Fourth Centenary of the Episcopal Ordination of Saint Francis de Sales, 23 November 2002, 3:Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV/2 (2002), 767.

[13] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, Préface, ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 336.

[14] ĐỨC BENEDICTÔ XVI, Catechesis, 2 Tháng ba, 2011:Insegnamenti VII/1 (2011), 270.

[15] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Fragments d’écrits intimes, 3:Acte d’abandon heroïque, trong Œuvres de Saint François de Sales, XXII (Opuscules, I), Annecy, 1925, 41.

[16]Cf.Address to the International Theological Commission(29 November 2019): L’Osservatore Romano, 30 Tháng 11, 2019, p. 8.

[17] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Lett. 165:À Sa Sainteté Clément VIII(end of October, 1602), trong Œuvres de Saint François de Sales, XII (Lettres, II:1599-1604), Annecy, 1902, 128.

[18]H. BREMOND,L’humanisme dévôt: 1580-1660, inHistoire littéraire du sentiment religieux en France: depuis la fin des guerres de religion jusqu’à nos jours, I, Jérôme Millon, Grenoble, 2006, 131.

[19]SAINT THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Lett. 168:Aux religieuses du monastère des ‹‹Filles-Dieu››(22 November 1602), trong Œuvres de Saint François de Sales, XII (Lettres, II:1599-1604), Annecy, 1902, 105.

[20]] ĐỨC BENEDICTÔ XVI,Catechesis, 2 March 2011:Insegnamenti, VII/1 (2011), 272.

[21] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Lett. 1869:À M. Pierre Jay(1620 or 1621), trong Œuvres de Saint François de Sales, XX (Lettres, X:1621-1622) Annecy, 1918, 219.

[22]Ibid.

[23]ID.,Traité de l’amour de Dieu, Préface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 339.

[24]Ibid., 347.

[25]Ibid., 338-339.

[26]Cf.Address to Bishops, Priests, Religious, Seminarians and Catechists, Bratislava, 13 September 2021, L’Osservatore Romano, 13 Tháng 9, 2021, pp. 11-12.

[27]Cf. ibid.

[28] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, II, 12: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[29]“I led them with cords of human kindness [Vulgate:in funiculis Adam], with bands of love; I was to them like those who lift infants to their cheeks. I bent down to them and fed them”.

[30] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, II, 12: ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 444.

[31]Ibid., II, 12: 444-445.

[32]Ibid., II, 9: 434.

[33]Ibid., II, 12: 446.

[34]Let Us Dream. The Path to a Better Future.In conversation with Austen Ivereigh, New York, 2020, 4.

[35]THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Introduction à la vie dévote, I, 1: ed.RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 31.

[36]Ibid.: 31-32.

[37]Ibid.: 32.

[38]Ibid.

[39]Ibid.

[40]Ibid.: 33.

[41]Ibid., Preface: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 23.

[42]Tông thư Sabaudiae Gemma về Thế kỷ thứ tư Ngày sinh của Thánh Phanxicô đệ Salê, Tiến sĩ Hội thánh (29 Tháng Giêng, 1967):AAS59 (1967), 119.

[43] Công đồng Vaticna II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 11.

[44] Tông huấn Gaudete et Exsultate, 11:AAS110 (2018), 1114.

[45]Ibid.

[46] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ, Traité de l’amour de Dieu, VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682.

[47] Tông huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11, 2013),6:AAS105 (2013), 1021-1022

[48] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, VII, 6: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 682-683.

[49]Ibid.: 683.

[50] Tông huấn Evangelii Gaudium,2:AAS105 (2013), 1019-1020.

[51] THÁNH PHANXICÔ ĐỆ SALÊ,Traité de l’amour de Dieu, VII, 7: ed. RAVIER-DEVOS, Paris, 1969, 685.

[52]Ibid.: 684.

[53]Ibid., VII, 8: 687, 688.

[54]Ibid., XII, 13: 971.

[55]Ibid.

[56] Các Bài giảng, 350, 3: PL 39, 1535.