Chương II. Buenos Aires (1992, 1994, 1996)

Tiền đề phải có để hiểu các biến cố ở Buenos Aires, Sokółka và Legnica



Linh mục nên làm gì khi Mình Thánh đã bị vấy bẩn - vô tình hoặc do xúc phạm - và khó có thể rước được nữa? Các chính sách của Giáo hội cổ xưa thực sự đã đưa ra câu trả lời cho ngay cả những trường hợp đáng kinh ngạc nhất có thể nảy sinh trong quá trình cử hành Hy tế Thánh lễ, bao gồm cả cái chết của người chủ tế. Năm 1962, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã phê chuẩn bản sửa đổi mới nhất của Missale Romanum (Sách Lễ Rôma), trong chương “De Defectibus” (“Về những khiếm khuyết”), đoạn X, Số 7 viết như sau: “Nếu có chất độc chạm vào Mình Thánh Chúa,... nó có thể được đặt vào một chén đầy nước, như đã nêu ở trên liên quan đến Máu ở số 6.” Số 6 nói: “Để hình bánh có thể hòa tan và nước đó được đổ vào giếng thánh.”

Vì vậy, người ta mong đợi được nhìn thấy bánh không men tan rã hoàn toàn. Một khi hình bánh bị mất đi do bị hòa tan trong nước thì bản thể của Mình Thánh Chúa chúng ta cũng được cho là bị mất đi. Chỉ ở giai đoạn đó, nước mới có thể được xả đi, mặc dù không chảy vào cống chung mà vào giếng thánh: một lối thoát xuống đất trong khuôn viên nhà thờ đã thánh hiến.

Điều đáng lưu ý là, đây là phần bổ sung mới năm 1962 cho phiên bản Sách lễ trước đó vốn cho rằng thay vào đó “cùng hình bánh này sẽ được bảo quản ở một nơi riêng biệt bên trong Nhà tạm cho đến khi hình bánh này bị phân hủy và chỉ sau đó mới được đổ vào giếng thánh”.

Phép lạ năm lần

Năm biến cố Thánh Thể lạ lùng đã diễn ra từ năm 1992 đến năm 1996, tất cả đều diễn ra tại cùng một giáo xứ ở Buenos Aires. Không lý lẽ nào của con người có thể giải thích được sự phong phú của các hồng phúc này: Há những phép lạ này không thể được phân bổ một cách “công bằng” hơn trên khắp thế giới này của chúng ta, một thế giới đang khao khát những dấu hiệu hữu hình của sự hiện diện của Thiên Chúa hay sao? Như thể những lời của Chúa Kitô vinh hiển trong Ngày Khải Huyền đang vang vọng lại: “Này, ta đứng ngoài cửa và gõ”. Việc Chúa Kitô gõ cửa cánh cửa đó ở Buenos Aires thực sự rất dai dẳng.

Tuy nhiên, hầu hết mọi người hầu như không biết gì về những biến cố này, ngay cả ở Á Căn Đình. Ở Ý, những vấn đề này chỉ mới được thảo luận gần đây sau cuộc bầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô và chỉ từ khi giới truyền thông – đặc biệt là các blogger Công Giáo – chuyển sự chú ý của họ sang giáo phận “ở nơi tận cùng thế giới” nơi Đức Phanxicô xuất thân này. Một trong những nhà báo Công Giáo giỏi nhất người Ý, Maurizio Blondet, đã dành hai tuần ở Buenos Aires vào năm 2014 cho một cuộc điều tra độc quyền, sau đó dẫn tới cuốn sách Un cuore per la vita eterna (Một Trái tim cho sự sống vĩnh cửu) của ông, mà tôi đặc biệt đề nghị làm tài liệu tham khảo để tìm hiểu thêm về các sự kiện.

Phát biểu từ kinh nghiệm du lịch Buenos Aires của chính tôi (chính xác vào thời điểm đó vì lý do gia đình), nếu bạn nhờ một tài xế taxi địa phương đưa bạn đến Nhà thờ Đức Bà trên Đại lộ La Plata 286, rất có thể anh ta sẽ ngắt lời bạn bằng một cử chỉ hiểu biết, khi nói: "Vâng, nhà thờ." Không, bạn không nghĩ đến cùng một câu trả lời. Ngay ở Á Căn Đình, rất ít người biết các sự kiện mà chúng ta sắp thảo luận. “Nhà thờ có đồng hồ!” sẽ là câu trả lời nhiệt tình của anh ta: anh ta luôn kiểm tra thời gian khi lái xe phía trước nó.

Hãy tưởng tượng bạn đang ở trung tâm Buenos Aires, trong một khu phố rất bình thường và không mấy gây ấn tượng: không phải là một nơi tồi tàn, nhưng chắc chắn khác xa với những khu phố cổ kính và trang nhã hơn được hầu hết khách du lịch ghé thăm. Nhà thờ theo lối tân Rôma bằng gạch đỏ này rất có thể chỉ mới một trăm năm tuổi. Nó có vẻ bình dị nhưng trang nghiêm, giống như khu phố xung quanh. Năm 2006, một nhà nguyện chầu Thánh Thể dành riêng đã được thêm vào gian giữa bên trái. Mọi Thứ Sáu của tuần thứ ba trong tháng lúc 8 giờ tối và vào lúc 11 giờ sáng Thứ Bảy của tuần thứ tư hàng tháng, sẽ có những buổi định kỳ giải thích sự thật về các sự kiện đã diễn ra ở đó cho các tín hữu đến thăm.

Sau một thời gian dài chờ đợi, vì tôi và gia đình không đến thăm vào một trong các phiên hàng tháng, nên cha xứ đã gửi chúng tôi đến gặp một giáo dân: một quý ông vui vẻ, người đã giải thích cặn kẽ và kín đáo các biến cố của những năm 1990 cho chúng tôi bằng tiếng Tây Ban Nha chậm rãi và dễ hiểu. Cuối cùng, ngài mở một nhà tạm trên bức tường phía sau mặt nhật sang trọng giữ Mình Thánh Chúa trong nhà nguyện tôn thờ. Mặt nhật trang trí đặt phía trước Nhà tạm là mặt nhật hiện đại, được làm bằng hồ thủy tinh [glass paste] và kim loại. Thiết kế của nó giống với hoa nahui ollin, một loài hoa bốn cánh đơn giản tượng trưng cho sự hiện diện quyền năng của Chúa đối với người Aztec cổ thời. Bông hoa tương tự cũng được tìm thấy trên áo của Đức Trinh Nữ Guadalupe, chính xác hơn là trên bụng ngài, như một lời nhắc nhở về việc mang thai của Đức Maria. Sau một lúc im lặng tôn giáo cảm động, ngài lấy từ nhà tạm một mặt nhật đơn giản khác giữ lớp vỏ máu nhỏ năm 1992 giữa hai tấm kính và cho chúng tôi xem bằng cách chiếu sáng nó với một chiếc đèn pin nhỏ.

Các sự kiện

Năm 1992

Vào tối thứ Sáu, ngày 1 tháng 5 năm 1992, Carlos Dominguez, một thừa tác viên Thánh Thể giáo dân, nhận thấy hai mảnh bánh thánh hình lưỡi liềm nằm trên khăn thánh (11) trước nhà tạm. Rất có thể chúng đã rơi ra khỏi bình thánh (12) trước đó. Ông đã đề cập điều đó với cha xứ, Cha Juan Salvador Carlomagno, người đã yêu cầu ông bắt đầu diễn trình hòa tan, đã giải thích trước đó rằng chúng không còn tươi và ăn được nữa. Do đó, hai mảnh bánh thánh được ngâm trong nước trong một hộp sứ nhỏ rồi khóa bên trong Nhà tạm.

Sáng ngày 8 tháng 5, Cha Juan kiểm tra chiếc hộp lần đầu tiên và rất ngạc nhiên. Ngài nói về những gì ngài thấy với các linh mục khác sống trong cùng giáo xứ: Cha Eduardo Pérez Dal Lago, Cha Eduardo Graham và Phó tế Marcelo Pablo Tomaino. Ba cục máu đông đã hình thành trong nước, ban đầu được bao phủ bởi một lớp “lông tơ” màu trắng, sau đó biến mất. Có những vệt máu trên thành thùng chứa, như thể chúng được tạo ra bởi một loại “vụ nổ” nào đó của chính bánh thánh. Họ đã thông báo cho văn phòng trung ương [curia] của giáo phận: Đức Hồng Y Antonio Quarracino (người tiền nhiệm trực tiếp của Bergoglio) vắng mặt, và vì vậy họ đã thảo luận vấn đề này qua điện thoại với Đức cha Eduardo Miras, Giám Mục Phụ Tá của Buenos Aires, người đã đề nghị lượng giá y khoa. Như chúng ta sẽ thấy, lượng giá này xác nhận bản chất biểu kiến của chất này là máu. Marcelo Antonini, một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, cũng được triệu tập và ông đã ghi lại những thay đổi liên tục của mẫu vật diễn ra trong những ngày tiếp theo.

Vào hôm Chúa Nhật, ngày 10 tháng 5, trong cả thánh lễ lúc 7 giờ tối, do cha xứ cử hành lẫn thánh lễ lúc 8 giờ 15 tối, được cử hành bởi Cha Graham, một biến cố lạ lùng mới đã diễn ra hai lần. Đĩa thánh (13) đựng Mình Thánh đã được truyền phép dính máu - không chỉ một mà là hai đĩa riêng biệt: một đĩa bằng đồng và một đĩa bằng thiếc hình con cá.

Các linh mục giáo xứ Đức Bà đang sống qua những giây phút vui mừng và sợ hãi. Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao điều này lại đặc biệt xảy ra với họ, ngay trong tay họ? Tôi phải khuyên bạn nên đọc cuốn nhật ký tâm linh cảm động do Cha Eduardo Pérez viết vào chính những ngày đó và được tìm thấy trong cuốn sách của Blondet. Vị linh mục trẻ ba mươi tuổi đã có sự can dự bản thân sâu sắc vào mầu nhiệm Sự Hiện Diện Thực Sự vào thời điểm đó. Trong khi chờ đợi tuyên bố chính thức từ Giáo quyền, các linh mục ở giáo xứ Đức Bà đã quyết định không nói gì về các biến cố bên ngoài vòng rất nhỏ của họ, ngay cả khi việc duy trì sự kín miệng là chuyện khá khó khăn.

Trong khi đó, theo lời của Cha Pérez, "'thứ máu' này vẫn sáng bóng, giống như thịt gan, mặc dù có màu đỏ tươi và không phải màu tía, không có một chút mùi hôi nào." Sau một thời gian, nước trong hộp bay hơi và còn sót lại một ít lớp vỏ ở đáy trước khi bong ra vài năm sau đó. Đó là lớp vỏ nhỏ màu đỏ - có kích thước nhiều nhất là vài cm - mà tôi cũng có cơ hội nhìn thấy.

Năm 1994

Trong thánh lễ buổi sáng dành cho trẻ em Chúa nhật ngày 24 tháng 7 năm 1994, thừa tác viên giáo dân phân phối Mình Thánh Chúa nhận thấy một giọt máu chảy ở mép trong của bình thánh. Tình tiết này không có nhiều tiếng vang vì nó bị chen vào giữa các biến cố “lớn” năm 1992 và 1996. Khi ở Buenos Aires, tôi nhìn thấy một bức ảnh chụp chiếc bình thánh đó với một vệt máu trên thành trong của nó, và tôi đã giữ lại một ký ức không thể xóa nhòa về nó. Người đã sống và chứng kiến tận mắt tình tiết đó chắc chắn không coi đó là một sự việc “nhỏ nhặt”!

Năm 1996

Khi kết thúc việc trao Mình Thánh Chúa vào Thánh lễ lúc 7 giờ tối, Chúa nhật ngày 18 tháng 8 năm 1996, một tín hữu đã hướng về linh mục chủ tế, Cha Alejandro Pezet, vô cùng bối rối. Cô đã nhận thấy một Mình Thánh được giấu dưới chân nến trước tượng chịu nạn, cho đến ngày nay vẫn còn ở gian giữa bên phải. Cha Alejandro nhìn qua và nhặt Mình Thánh chắc chắn đã bị ai đó có ý đồ xúc phạm bỏ rơi. Ngài đã nghĩ đến việc tự mình tiêu thụ nhưng nó quá bẩn và bụi bặm.

Vì vậy, ngài đã yêu cầu Emma Fernandez - một giáo dân bảy mươi bảy tuổi, nhúng nó vào nước và khóa nó trong nhà tạm theo thủ tục thông thường. Người đọc có cái nhìn sâu sắc bây giờ chắc hẳn đang cảm thấy một chuyện đã xẩy ra [déjà vu]. Bà Fernandez, giáo dân duy nhất được đụng tới nhà tạm, quả thực đã nhìn thấy điều gì đó kỳ lạ trong chiếc hộp thủy tinh tròn mà bà đã để trong đó và đã thảo luận những gì bà nhìn thấy với Cha Pezet vào ngày 26 tháng 8. Sau khi ngay lập tức thông tri cho Cha Eduardo Graham, Cha Pezet cũng nhận thấy bánh thánh đang biến đổi thành một thứ gì khác, một thứ gì đó có màu đỏ và sẽ phát triển trong những tuần tiếp theo. Tất nhiên, ngài biết các sự kiện của các năm 1992 và 1994, mặc dù lúc đó ngài chưa đến giáo xứ Đức Bà. Vì vậy, ngay lập tức, ngài nghi ngờ có nguyên nhân siêu nhiên nào đó dẫn đến chuyện đang xảy ra. Ngài đã thông báo cho văn phòng trung ương của giáo phận, và Jorge Mario Bergoglio, một trong bốn Giám Mục Phụ Tá của Buenos Aires vào thời điểm đó, đã đề nghị nên bắt đầu chụp những bức ảnh chuyên nghiệp. Như năm 1992, những bức ảnh chụp vào ngày 26 tháng 8 và ngày 6 tháng 9 của Marcelo Antonini đều có sẵn cả trong các văn bản được tham chiếu trong thư mục của tôi và trên mạng. Bánh thánh hòa tan ngày càng khó phân biệt, mặc dù nước ngày càng đục hơn bởi một chất “giống như đám mây” màu đỏ và các khối “giống như thạch” sẫm màu hơn có kết cấu giống như máu đông. Những bông hoa “giống như nấm mốc” sẫm màu hơn được nhìn thấy trên bề mặt của những cục được cho là máu này.

Sau khoảng một tháng, “vật lạ” còn sót lại được chuyển vào một chai nước cất đậy kín: đây không hẳn là phương tiện bảo quản tốt nhất để bảo quản mô sống! Thật không may, nó vẫn tồn tại trong nước cất ít nhất ba năm cho đến khi cuộc điều tra của Bác sĩ Castañón bắt đầu.

Các đánh giá khoa học

Các năm 1992–1995

Vào tháng 5 năm 1992, linh mục giáo xứ, Cha Carlomagno, nói với Đức Cha Miras điều đang xảy ra. Chính vị giám mục đã khuyến nghị nên thực hiện việc đánh giá y khoa. Hai bác sĩ đã tham gia từ rất sớm, một bác sĩ ung thư (14) và một bác sĩ huyết học. (15)

Bác sĩ BOTTO

Tiếp theo lời kể của Cha Pérez về các biến cố, cuộc điều tra ban đầu được giao cho Bác sĩ Isabel Botto, một bác sĩ chuyên khoa ung thư sống gần giáo xứ. Bà đã cố gắng dùng ống chích hút một ít thứ trông giống như máu từ khối chính trong chiếc bình gốm từ ngày 1 tháng 5, nhưng không thể làm được vì nó quá cứng. Sau đó, bà thu thập vật liệu tạo nên một trong những vệt đỏ bám trên thành thùng chứa. Cùng với kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, Alicia Martines, bà đã phân tích mẫu của mình tại Sanatorio Evangelico El Buen Samaritano. Phản ứng dương tính với xét nghiệm phát hiện huyết sắc tố đã xác nhận rằng chất đó là máu; tuy nhiên, bà không nói rõ liệu bộ phân tích mà bà sử dụng cũng có thể xác nhận nguồn gốc con người của nó hay không. Bác sĩ Botto thừa nhận rằng các phân tích chuyên sâu hơn của giám định y tế là cần thiết ở giai đoạn đó. Bà thậm chí còn khẳng định mình đã nhìn thấy các tế bào cơ và “mô sợi sống” dưới kính hiển vi của mình. Cha. Cha Pezet đích thân hỏi liệu những tế bào đó có thể là tế bào cơ tim hay không và bà trả lời rằng điều đó khả hữu, mặc dù cần phải thử nghiệm thêm.

Bác sĩ SASOT

Hai báo cáo y khoa đã được trình bày, hay tôi nên nói là được chụp ảnh, trong cuốn sách của Bác sĩ Castañón. Chúng được đánh máy và ký tên bởi Bác sĩ Adhelma Myrian Segovia de Sasot. Đằng sau cái tên ấn tượng như vậy là một bác sĩ huyết học đang làm việc tại Bệnh viện J. M. Ramos Mejia ở Buenos Aires. Ba cuộc điều tra riêng biệt có thể được suy ra từ các bài viết của bà:

1. Trong một báo cáo “tháng 6 năm 1992”, không đề cập đến ngày tháng chính xác, bà đã mô tả sự tiến hóa vĩ mô của một vật liệu “có hình dạng cục máu đông” trong một hộp đựng bằng gốm. Kết cấu của nó cũng giống như một cục máu đông khi chạm vào. Chất này vẫn khá ổn định cho đến khi nước thánh được thêm vào chỉ vài ngày sau đó. Vào tháng 6, chỉ sau một tháng, bác sĩ Sasot nhắc đến việc cục máu đông sắp bong ra khỏi bình chứa (điều thực sự đã xảy ra trong những năm tiếp theo).

Ban đầu, bà mô tả hình dáng vi mô của nó ở độ phóng đại thấp 16 lần như được tạo thành từ nhiều lớp: lớp màu đỏ sẫm phía dưới và lớp bề ngoài có màu nhạt hơn. Lớp vừa kể dường như được tạo thành từ những sợi trong suốt giống như hình dạng trong sách giáo khoa của ty lạp thể [mitochondria]. Mô tả của bà về cấu trúc phân lớp quả khá thiếu chính xác và dựa vào các loại suy. Tất nhiên, bà không thực sự cho rằng các lớp bề mặt được tạo thành từ ty lạp thể: những cơ quan tế bào [organelles] sản xuất năng lượng này có trong nhiều loại tế bào không thể được nhìn thấy ở độ phóng đại thấp 16 lần. Ai đó - rất có thể là chính bà - đã vẽ một bức vẽ nhỏ trên lề một trong những trang báo cáo của bà: một bản phác thảo nguệch ngoạc giống như một mặt cắt ngang của màng bên trong của ty lạp thể. Tôi nghĩ bà đã vẽ nó như một việc trình bầy bằng hình cấu trúc mà bà nhìn thấy qua kính hiển vi của bà.

Sau đó, bà tiếp tục mô tả các lớp bề mặt của mẫu vật bằng cách đề cập đến ít nhất ba hình dạng khiến bà nhớ đến “giọt nước”. Tôi không hoàn toàn chắc chắn về những kết luận khoa học nào có thể được rút ra từ những mô tả này của bà: Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã dịch và chép lại những ghi chú của bà với hy vọng rằng một ngày nào đó một chuyên gia mô bệnh học [histopathology] (16) có thể đọc chúng và có thể làm sáng tỏ những bài viết bí mật nhà nghề của bà.

Tuy nhiên, đột nhiên, báo cáo của bà không còn mơ hồ và thiếu chính xác nữa. Bà thực sự khiến người đọc vui mừng khi viết: “Một trong những lần tôi quan sát nó, tôi nhận thấy một khu vực dường như đang đập nhịp nhàng” (trong tiếng Tây Ban Nha: parecia latir ritmicamente). Điều không may là bà không có máy ảnh hoặc máy quay phim vào thời điểm quan sát ấy. Vì vậy, chúng ta chỉ há hốc miệng khi đọc về một điều gì đó quá tuyệt vời và khó tin.

Cuối cùng, Bác sĩ Sasot kết thúc báo cáo của mình bằng cách lưu ý rằng bà rất tiếc phải ngừng công việc quan sát của mình vì vấn đề sức khỏe.

2. Vẫn vào tháng 6 năm 1992, Bác sĩ Sasot đã mô tả các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm được thực hiện trên mẫu được coi là máu lấy từ đĩa thánh. Chất này đã được phân tích ba ngày sau khi xuất hiện. Do đó, chắc chắn bà đang đề cập đến một trong hai phép lạ xảy ra vào tối ngày 10 tháng 5. Một cuộc kiểm tra đơn giản nhưng rõ ràng đã được thực hiện để khảo sát xem điều gì được cho là một giọt máu: một màng máu [17] được chuẩn bị bằng các vết May-Grunwald và Giemsa tiêu chuẩn. (18) Xét nghiệm máu thông thường này mang lại số lượng đầy đủ bạch cầu khác nhau, (19) nói lên tỷ lệ phần trăm tương đối của năm loại tế bào bạch cầu chính. Số lượng khác biệt cho thấy số lượng tế bào lympho [lymphocytes] (20) vượt quá (47%) so với bạch cầu trung tính [neutrophils] (21) (49%), như mong đợi trong một phản ứng sinh lý học điển hình đối với việc nhiễm virút, nhưng cũng trong bối cảnh căng thẳng tâm sinh lý dữ dội.

Hơn nữa, màng máu cho thấy các mảnh vụn không chuyên biệt, các tế bào có không bào [vacuolated], (22) và nhiều vi khuẩn bị nhiễm khuẩn cầu [cocci]. (23) Sử dụng một thuật ngữ phi y học, tất cả những phát hiện màng máu bất thường này đều gợi ý về “trạng thái đau khổ” của mẫu máu được phân tích. Ít nhất đó là những gì có thể được nhìn thấy vào tháng 6 năm 1992, sau một khoảng thời gian không xác định – tính bằng ngày - kể từ khi máu xuất hiện.

Cuối cùng, Bác sĩ Sasot kết luận báo cáo tháng 6 năm 1992 bằng cách xác nhận rằng mẫu được phân tích có nguồn gốc từ con người, tuy không có lời giải thích rõ ràng.

3. Cuối cùng còn có “báo cáo huyết học” của bác sĩ Sasot ngày 29/10/1995. Đó là bản tóm tắt tất cả các kết luận tích cực mà bà có thể rút ra và trực tiếp chứng minh - trong tư cách một nhà huyết học chuyên ngành có năng lực - từ công việc của bà về một chất liệu mà nguồn gốc của nó bà thực sự không được nói cho biết, ít nhất là lúc đầu. Mẫu mà bà phân tích - vẫn có sẵn cho bà vào năm 1995 - là một phần mô nhỏ được bảo quản trong ống nghiệm chứa đầy nước thánh đã được đưa cho bà vào một thời điểm nào đó. Rất có thể, nó hẳn đã được lấy ra từ chiếc hộp đựng bằng gốm của phép lạ đầu tiên năm 1992, mặc dù điều này không được nêu rõ. Bà đưa ra danh sách các kết luận sau đây, những kết luận sẽ chứng minh một cách dứt khoát rằng chất được phân tích là máu, ít nhất là theo bà ấy, khi xem tất cả với nhau:

* Số lượng bạch cầu chênh lệch với chứng tăng tế bào lympho [lymphocytosis] nhẹ (24) thu được sau khi nhuộm May-Grunwald Giemsa: kết quả này rất giống với kết quả ngày 10 tháng 5 năm 1992 trước đó.

* Ô nhiễm vi khuẩn và nấm đã được quan sát.

* Natri và kali đã có mặt.

* Sự hiện diện của enzyme LDH (25) có thể được đánh giá.

* Mẫu này có cấu hình hiện tượng điện chuyển protein “sinh lý học”, (26) ngoại trừ lượng gamma globulin giảm, (27) một phát hiện được quan sát thấy ở những bệnh nhân có hệ thống miễn dịch bị tổn hại.

Cuối cùng, ở phần cuối của báo cáo này có đề cập đến mối quan tâm về việc thực hiện thêm phân tích xác định nhóm máu cũng như các xét nghiệm khác nhằm tìm kiếm sự hiện diện của DNA. Đáng chú ý, Bác sĩ Sasot tin rằng tất cả các xét nghiệm bổ sung này có thể được thực hiện dễ dàng bằng cách tiếp tục sử dụng cùng một lượng mẫu nhỏ đó.

Ý kiến chung của tôi về cuộc điều tra năm 1992? Rất nhiều thiện chí, nhưng ít phương tiện sẵn có và sự phối hợp nghiên cứu kém. Tại sao lại lãng phí vật liệu mẫu quý giá với nhiều thử nghiệm lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa? Tại sao không ai tìm cách thu thập ý kiến về việc nhận dạng hết sức quan trọng khi đối diện với một mô sinh học chưa ai biết: ý kiến của một nhà mô bệnh học? Thật không may, vì điều này, chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu những mô cơ đó – giống như sợi – thậm chí có thể co lại một cách tự nhiên – có thực sự như những gì chúng ta vẫn nghĩ hay không. Tại sao không có tài liệu ảnh hoặc bất cứ ghi chú thích hợp nào trong phòng thí nghiệm để tham khảo? Tại sao chúng ta phải chấp nhận những mô tả thô thiển và những nét vẽ nguệch ngoạc trên mép trang? Tôi có thể hiểu tại sao không có cuộc điều tra DNA nào được thực hiện: kỹ thuật PCR (28) không dễ dàng có được vào những năm 1990. Những xét nghiệm DNA như vậy sẽ rất tốn kém và có lẽ sẽ phải hy sinh quá nhiều chất liệu. Nhưng tại sao không ai cố gắng xác định nhóm máu? Đó sẽ là một xét nghiệm tầm thường, mặc dù quan trọng và rẻ tiền, được thực hiện trên máu tươi. Nguồn gốc nhân bản của các mô được phân tích có được chứng minh một cách thực sự và không thể chối cãi được không? Không có thủ tục chuyên biệt nào được đề cập về vấn đề này. Điều kiện bảo quản mẫu như thế nào? Chắc chắn, khi tiếp xúc với một thánh tích, người ta muốn xét tới tính bất khả hư hoại siêu nhiên của nó. Tuy nhiên, ngay cả phòng thí nghiệm nghèo nhất thế giới ít nhất cũng có tủ lạnh và chắc chắn sẽ không dựa vào đặc tính sát trùng và bảo quản của nước thánh. Nói cho ngay, và để biện minh một phần cho bản chất may rủi của các cuộc điều tra này, cần lưu ý rằng Đức Tổng Giám Mục Miras đã đề cử một chuyên gia cho các biến cố năm 1992: Đức Cha José Luis Mollaghan. Ở một thời điểm nào đó, ngài là người đã cấm việc lấy mẫu thêm để bảo toàn tính toàn vẹn của phép lạ. Ngài yêu cầu các nhà điều tra và tín hữu hài lòng với những kết luận đã được đưa ra vào thời điểm đó.

Các năm 1995–2005

Đức Cha Jorge Mario Bergoglio là tổng giám mục mới của Buenos Aires từ năm 1998. Khi được Cha Luis Maria Rodrigues Melgarejo, người kế nhiệm Cha Carlomagno, yêu cầu bằng văn bản trong tư cách linh mục quản xứ tại nhà thờ Đức Bà, Đức Tổng Giám Mục Bergoglio đã quyết định cho phép thử nghiệm khoa học hơn nữa về các thánh tích thánh thể vào tháng 7 năm 1999. Bác sĩ Castañón, một nhà nghiên cứu các biến cố siêu nhiên, đã quan tâm đến các sự kiện thánh thể tại giáo xứ Đức Bà trong những tháng tiếp theo. Cuối cùng, vào ngày 28 tháng 9, Đức Tổng Giám Mục Bergoglio đã phê duyệt diễn trình đánh giá mới do Castañón đề xuất với sự thận trọng và tính bảo mật phải luôn được duy trì trong suốt diễn trình điều tra.

Bác sĩ Ricardo Castañón Gómez là ai? Ông là nhà tâm lý học lâm sàng và chuyên gia về tâm lý học, hóa sinh và tâm sinh lý thần kinh. Ông cũng là một nhà truyền thông tuyệt vời và những cuộc hội thảo trên YouTube của ông rất thú vị để lắng nghe. Ông đã thu hút khán giả hàng giờ tại hội trường giáo xứ ở ngoại ô thành phố cũng như tại các hội nghị lớn ở Bắc Mỹ. Xuất thân từ Bolivia, ông cũng đã học ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Năm 1992, ông bắt đầu quan tâm đến các hiện tượng huyền bí từ quan điểm y học, bắt đầu với những ý kiến hoài nghi và sau đó kết cục trở thành một người trở lại Công Giáo. Vào thời điểm ông tham gia, chắc chắn không thiếu “tư liệu” nghiên cứu dành cho ông, đặc biệt là ở Nam Mỹ: các cuộc hiện ra, phép lạ, dấu thánh, các bức tượng khóc lóc hay chảy máu. Trong một cuộc phỏng vấn với Fox vào năm 1999, ông nói rằng ông đã theo dõi 50 trường hợp nhưng chỉ có thể loại trừ nguồn gốc siêu nhiên trong 6 trường hợp trong số đó. Thật không may, khi duyệt qua danh sách những người có tầm nhìn nổi tiếng nhất mà ông nghiên cứu (Nancy Fowler, Patricia Talbot, Julia Kim, Catalina Rivas), cá nhân tôi sẽ đảo ngược tỷ lệ các trường hợp thật và giả của ông. Chủ đề về những hiện tượng huyền bí giả tạo, hoặc những hiện tượng thực sự không thể giải thích được – mà nguồn gốc của chúng có thể và có khả năng là ma quỷ - chắc chắn là một chủ đề đáng lưu ý, mặc dù nó đáng được thảo luận chi tiết mà tôi sẽ không theo đuổi ở đây.

Trong nhiều năm, Bác sĩ Castañón đã tận dụng sự hợp tác của hai chuyên gia giàu có người Úc: luật sư Ron Tesoriero và người dẫn chương trình truyền hình Mike Willesee, một nhân vật nổi tiếng của công chúng ở Úc. Cùng nhau, họ đã tạo ra một toán đặc nhiệm chung, một cỗ máy chiến tranh không thể lay chuyển được, nhằm nghiên cứu các hiện tượng mầu nhiệm. Họ quay phim một cách chuyên nghiệp những lời kể của các nhân chứng trước sự chứng kiến của công chứng viên, quay video việc lấy mẫu vật liệu sinh học từ các thánh tích gốc và đảm nhận việc chuyển những mẫu đó đến một mạng lưới rộng khắp các phòng thí nghiệm có đội ngũ chuyên gia và nhà khoa học giỏi nhất trên toàn thế giới. Chính sách của họ là duy trì một “chuỗi lưu trữ rõ ràng, không gián đoạn và được lên tài liệu”, một việc bàn giao tài liệu không bị gián đoạn và được lên tài liệu để nghiên cứu trong các điều kiện “gây mù” - nghĩa là bằng cách giữ không cho các nhà nghiên cứu có nhiệm vụ phân tích chúng biết nguồn gốc của các mẫu. Tất cả những cuộc điều tra tốn kém này hoàn toàn do Grupo Internacional para la Paz, do chính Castañón thành lập, tài trợ.

Đây là “cơ quan” đặc biệt được Đức Tổng Giám Mục Bergoglio giao phó điều tra các biến cố tại Giáo xứ Đức Bà. Vào ngày 5 tháng 10 năm 1999, trước sự chứng kiến của các nhân chứng và máy quay truyền hình, Bác sĩ Castañón đã lấy hai mẫu.

1. Một mẫu đầu tiên và rất nhỏ được lấy từ lớp vỏ khô nhỏ xíu mà ngày nay vẫn còn thấy ở Buenos Aires: phần còn lại của biến cố đầu tiên năm 1992. Nhãn đi kèm ống nghiệm kín vô trùng ghi: “8 de mayo de 1992 Muestra 5 de Octobre de 1999.[ Ngày 8 tháng 5 năm 1992 Mẫu ngày 5 tháng 10 năm 1999]”

2. Mẫu thứ hai được lấy từ phần còn lại của biến cố năm 1996: chất nửa rắn màu nâu trong nước cất. Tương tự, nhãn ghi: “26 de Agosto de 1996 Muestra humeda 5 de Octobre de 1999.[ 26/8/1996 Mẫu ướt 5/10/1999]”

Theo quy trình giám sát thông thường, hai lọ này đã được đích thân Tesoriero bàn giao cho Cơ quan Phân tích Pháp y ở Hayward, California vào ngày 21 tháng 10 năm 1999. Bạn có thể đọc phần sau đây trong báo cáo ngày 1 tháng 5 năm 2000, có chữ ký của Bác sĩ Vanora M. Kean, về thử nghiệm số 19990441 được thực hiện trên hai mẫu:

* Mục số 1-1, mẫu khô năm 1992, được khảo sát dưới kính hiển vi soi nổi [stereomicroscope]: một chất màu sẫm và màu nâu đỏ không xác định được nhìn thấy cùng với một sợi tóc, hoặc một mảnh tóc, dường như dính chặt vào mép của nó. Xét nghiệm nhận dạng máu orthotolidine [phát hiện độ clorine] sơ bộ (29) cho kết quả âm tính. Một phần 2x3 mm đã được cắt ra từ mảnh 3x5 mm ban đầu để loại trừ sự hình thành đáng ngờ giống như sợi tóc và được gửi đi phân tích DNA: một lượng nhỏ DNA của con người thực sự đã được phát hiện, mặc dù phân tích hồ sơ DNA sau đó không nhận diện được bất cứ chuỗi STR (30) tiêu chuẩn nào.

* Mục số 1-2, mẫu năm 1996, cũng được khảo sát dưới kính hiển vi soi nổi. Khi vẫn còn ướt, người ta đã ghi nhận sự hiện diện của chất liệu dạng sợi màu trắng cùng với chất màu nâu đỏ bám vào nó, mặc dù không thể nhận ra đặc điểm hình thái học [morphological] nào được biết đến. Sau khi sấy khô, các hạt sẫm màu hơn trở nên rõ ràng và xét nghiệm orthotolidine [phát hiện độ clorine] được thực hiện trên các hạt này và cho kết quả âm tính. Một phần ba của toàn bộ mẫu phân tích đã được sử dụng để lập hồ sơ DNA. Một lần nữa, một lượng nhỏ DNA nhân bản có trọng lượng phân tử cao chất lượng tốt đã được cô lập trong mẫu. Tuy nhiên, kỹ thuật PCR không nhận diện và sao chép được bất cứ dấu hiệu nào trong số mười dấu hiệu hồ sơ di truyền tiêu chuẩn [chín STR cộng với các gen X và Y tạo men răng [amelogenin](31) đối với mẫu ướt số 1-2 cũng vậy. Đáng chú ý, ngay cả khi DNA được báo cáo là có nguồn gốc từ con người, báo cáo cuối cùng chỉ có thể đưa ra giả thuyết về nguồn gốc không phải của con người vì một lần nữa, không có hồ sơ DNA nào của con người có thể được xác định bằng phương pháp phân tích STR tiêu chuẩn. Chúng ta sẽ quay lại chủ đề này sau trong một chương riêng về DNA.

Không có cuộc điều tra nào được thực hiện để xác định nhóm máu. Những điều này có thể được thực hiện ngay cả khi không có máu, vì kháng nguyên [antigen] ABO (32) cũng có thể có trong các mô khác (trên thực tế, đối với Lanciano, Thịt cũng AB như Máu). Bác sĩ Castañón đã trực tiếp nói với tôi rằng các mảnh quá nhỏ và ưu tiên dành cho việc chứng minh sự hiện diện của DNA, một phát hiện chuyên biệt và “mạnh mẽ” hơn nhóm ABO. Theo yêu cầu, chất liệu còn sót lại từ hai mẫu được gửi qua FedEx vào ngày 2 tháng 3 năm 2000, tới Bác sĩ Robert Lawrence của Hiệp hội Bệnh lý Delta ở Stockton, cũng thuộc California. Do đó, Bác sĩ Lawrence, một giám định viên y tế đến từ San Francisco, có thể chuẩn bị một số slide kính hiển vi về những mô mầu nhiệm này và bắt đầu nghiên cứu chúng. Mô thu hút sự chú ý của nhà nghiên cứu là mô năm 1996: nó không dễ nhận dạng và dường như đã bị một số lượng lớn tế bào bạch cầu xâm nhập, giống như tình trạng bị viêm. Đặc biệt, trong một cuộc phỏng vấn được ghi lại bằng video ngày 7 tháng 12 năm 2000, ông đã chỉ rõ rằng các tế bào bạch cầu đang hoạt động và đang sống vào thời điểm mẫu được lấy. Ngoài ra, ông còn nói rằng việc làm thế nào những tế bào bạch cầu đó có thể tồn tại trong nước mà không bị hòa tan sau hơn vài phút, nhiều nhất là một giờ, một khi tách khỏi sinh vật sống mà từ đó chúng phát sinh hoặc sau khi sinh vật này chết, đơn giản là không thể giải thích được. Tôi nên nhắc nhở người đọc rằng những mẫu này được lấy từ mô được bảo quản trong nước, không có chất dinh dưỡng. Riêng một mình nước cất thực sự không tương thích với sự sống vì lý do thẩm thấm lọc [osmotic], (33) tuy nhiên, các tế bào bạch cầu sống vẫn hiện diện tại thời điểm lấy mẫu, ngay cả khi chất liệu đã được giữ trong những điều kiện này trong hơn ba năm. Tuy nhiên, những điều ngạc nhiên vẫn chưa kết thúc.

Các mô đã bị các tế bào viêm xâm nhập và do đó không dễ nhận dạng. Bác sĩ Lawrence đã dám gợi ý rằng nó có thể phù hợp với các cụm hoặc mảnh tế bào sừng hóa [keratinized] (34) - do đó là lớp biểu bì [epidermis], lớp da bề mặt nhất hay chính xác hơn là da bị viêm, bị bạch cầu xâm nhập.

Các slide tương tự đã được trình bầy cho các chuyên gia khác trong những tháng và năm tiếp theo. Tại Úc, Tiến sĩ Peter Ellis tại Đại học Sydney và Tiến sĩ Thomas Loy tại Đại học Queensland đã xác nhận giải thích của Bác sĩ Lawrence về nguồn gốc biểu bì. Tuy nhiên, tại Sydney, Tiến sĩ John Walker tin rằng đó có thể là mô cơ. Ngay cả giáo sư Linoli trẻ tuổi ở Arezzo, người đã nghiên cứu phép lạ Lanciano, cũng tham gia: theo ông, rất có thể đó là mô cơ tim.

Cần có một ý kiến có thẩm quyền và dứt khoát hơn. Vì vậy, nhóm nghiên cứu quyết định tìm đến Giáo sư Frederick Zugibe, trưởng phòng khám y khoa và bác sĩ tim mạch tại Quận Rockland, New York. Hồ sơ học thuật của ông, bao gồm những khám phá khoa học và nhiều ấn phẩm, cùng với kinh nghiệm ba mươi năm thực hiện mười nghìn cuộc khám nghiệm tử thi, ít nhất cũng rất ấn tượng. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2004, các nhà điều tra Ron Tesoriero và Mike Willesee có mặt tại văn phòng của Giáo sư Zugibe ở New York, và các tấm kính hiển vi vẫn là những tấm kính do Bác sĩ Lawrence chuẩn bị. Cuộc gặp được quay phim, Tesoriero cầm máy quay phim và Willesee phỏng vấn. Giáo sư Zugibe mong muốn được biết nguồn gốc của chất liệu cần nghiên cứu nhưng hai người Úc ban đầu giữ im lặng. Zugibe nhất quyết đòi, nhưng Willesee giải thích rằng như vậy sẽ tốt hơn cho ông và cuộc điều tra. Zugibe xem xét kỹ lưỡng các mẫu dưới kính hiển vi và lời nói của ông được ghi lại. Ông bắt đầu bằng cách nói: “Tôi là một chuyên gia về tim. Trái tim là việc của tôi. Đây là mô cơ tim, đến từ tâm thất trái, gần khu vực van tim.” Ông nhìn kỹ hơn và nói rõ: “Cơ tim này bị viêm; nó đã mất các vân và bị bạch cầu xâm nhập.” (35) Các bạch cầu [Leukocytes] bình thường không ở trong tim mà rời khỏi máu lưu thông và hướng tới vị trí chấn thương hoặc vết thương. Trái tim của người này đã bị thương và chịu chấn thương. Lưu lượng máu bị suy giảm và một phần cơ tim đã bị hoại tử [necrosis]. (36) Nó giống với những gì tôi thấy trong các vụ tai nạn trên đường, khi tim phải trải qua các thủ thuật hồi sinh kéo dài, hoặc nó giống với những gì tôi thấy khi ai đó bị một cú đánh nặng vào ngực.

Tesoriero và Willesee rùng mình khi Zugibe nói về sự hiện diện của bạch cầu: phản ứng viêm qua trung gian hệ thống miễn dịch thường diễn ra theo trình tự có trật tự và bạch cầu chỉ có thể được tìm thấy nếu được nuôi dưỡng bởi một sinh vật vẫn còn sống. Ông khẳng định:

“Đây là mẫu sống vào thời điểm nó được lấy!”

Sau một lúc im lặng để trấn tĩnh lại, Willesee dám hỏi: “Những bạch cầu này sẽ tồn tại được bao lâu nếu thả mô vào nước?” Câu trả lời được nhắc lại bởi Bác sĩ Lawrence bốn năm trước: “Chúng sẽ tan biến trong vòng vài phút và không còn tồn tại nữa”.

Vào thời điểm đó, chính hai người Úc đã làm giáo sư ngạc nhiên khi tiết lộ với ông rằng tấm kính này được lấy từ mô được giữ trong nước máy một tháng và trong nước cất trong ba năm: “Hoàn toàn không thể tin được! Khoa học không thể giải thích được!” Sau đó, ông nói rõ rằng sau một thời gian dài ở trong nước, không chỉ các tế bào bạch cầu sẽ biến mất mà bất cứ tế bào nào khác của con người cũng sẽ mất đi mọi hình thái có thể nhận biết được. Chỉ khi nhận ra muộn màng, và trước sự ngạc nhiên của ông, họ mới tiết lộ cho ông biết rằng mô nghiên cứu có nguồn gốc từ Mình Thánh đã được truyền phép.

Trong báo cáo cuối cùng, được viết vào tháng 3 năm 2005, Giáo sư Zugibe đã xác định rõ rằng các slide kính hiển vi chứa mô cơ tim bị mất các sợi (37) – các vân, sự kết đặc nhân tế bào [nuclear pyknosis], (38) và các tập hợp hỗn hợp của các tế bào viêm khác nhau, liên quan đến cả tình trạng viêm mãn tính, (39) chẳng hạn như các đại thực bào [macrophages] chiếm ưu thế, (40) và viêm cấp tính, chẳng hạn như các tế bào đa nhân [polymorphonuclear]. (41) Hướng của các sợi cơ tim gợi ý rằng vị trí ban đầu nằm ở vùng tâm thất, tương đối gần với khu vực van tim.

Những thay đổi thoái hóa này tương thích với nhồi máu cơ tim gần đây, (42) hoặc do tắc nghẽn động mạch vành (43) sau chứng huyết khối [thrombosis] (44) hoặc sau chấn thương ngực nghiêm trọng ở vùng phía trên tim. Hơn nữa, có thể ước tính rằng thời gian “căng thẳng tim” phải ở mức vài ngày tính từ thời điểm mô được lấy đi. Điều này dựa trên sự hiện diện của các tế bào viêm mãn tính và các biến đổi tế bào tim mà chúng tôi vừa mô tả.

Nhưng làm thế nào mà cùng một slide có thể trông giống như lớp biểu bì đối với một chuyên gia pháp y và cơ tim đối với một chuyên gia khác?

Câu trả lời nằm ở những biến đổi sâu sắc mà mô ướt năm 1999 đã phải chịu. Điều này dẫn đến các sợi cơ mất đi các nét đặc trưng của chúng. Chúng tách rời nhau, cong, gãy, bị xâm nhập bởi một số lượng rất lớn bạch cầu, và do đó không còn giống với những hình ảnh cổ điển trong tập bản đồ bệnh lý giải phẫu.

Danh tiếng của giáo sư Zugibe mạnh đến mức 5 năm sau, vào ngày 28 tháng 2 năm 2008, tại một cuộc họp ở San Francisco, bác sĩ Lawrence thừa nhận đã mắc sai lầm và thừa nhận mô cơ tim chắc chắn bị viêm.

Tính hiển thị của biến cố không thoả đáng

Vào ngày 17 tháng 3 năm 2006, Bác sĩ Castañón đã có thể chính thức trình bày một báo cáo kết luận về các cuộc điều tra bắt đầu vào năm 1999 cho Đức Tổng Giám Mục Jorge Mario Bergoglio, người đã trở thành Hồng Y tổng giám mục của Buenos Aires trong thời gian đó. Ở giai đoạn đó, người ta đã mong đợi một tuyên bố chính thức của Đức Hồng Y, vì một báo cáo khác về các sự kiện năm 1992 đã được đệ trình lên Giáo triều Buenos Aires và Vatican. Sự hiện diện của máu đã được xác nhận rõ ràng trong các mô năm 1992, trong khi sự hiện diện của mô cơ tim còn sống và “bị đau đớn” đã được xác nhận trong các mô năm 1996. Trong cuốn sách của mình, Blondet lên tiếng về sự thất vọng của Cha Eduardo Pérez Dal Lago:

Tôi đã hy vọng rằng khi có sẵn những câu trả lời này, Đức Tổng Giám Mục Bergoglio sẽ tuyên bố: “Corpus Christi” [đây là Mình Chúa Kitô]. Thay vào đó, không, ngài chỉ cho phép tôn thờ các thánh tích trong nhà nguyện của nhà thờ Đức Bà và chỉ từ năm 2002 - mười năm kể từ biến cố này - việc trưng bày định kỳ điều chúng ta phải gọi là “dấu lạ thánh thể” hơn là một phép lạ thánh thể.

Quả thực, giáo triều đã giữ thái độ nước đôi trong nhiều năm. Một mặt, nó hỗ trợ và khuyến khích Giáo xứ Đức Bà đào sâu lòng sùng kính Bí tích Thánh Thể và chào đón những ai tự mình đến thăm và tích cực tìm kiếm thông tin về các biến cố đã diễn ra. Năm 2006, một nhà nguyện mới được khánh thành ở gian giữa bên trái, dành riêng cho việc chầu Thánh Thể, vĩnh viễn trong vài năm đầu và ngày nay chỉ vào lúc ban ngày. Như tôi đã đề cập, giáo xứ chào đón bất cứ khách hành hương nào đến thăm trong hai giờ vào lúc 8 giờ tối Thứ Sáu của tuần thứ ba trong tháng và vào ngày Thứ Bảy thứ tư trong tháng lúc 11 giờ sáng. Những câu chuyện về các biến cố năm 1992 và 1996 được kể lại, và tôi tin rằng lớp vỏ máu nhỏ - đó là tất cả những gì còn sót lại từ phép lạ đầu tiên năm 1992 - đã được trưng bày.

Tôi được biết rằng chính Đức Hồng Y Bergoglio thường đến thăm Nhà thờ Đức Bà để chầu Thánh Thể một giờ mỗi năm một lần. Giáo xứ cũng công bố một tấm thiệp có hình Đức Hồng Y Bergoglio nhìn từ phía sau và quay người cầu nguyện về phía nhà tạm phía sau mặt nhật bốn cánh không thể nhầm lẫn. Nhận định mà vị giáo hoàng đương nhiệm đưa ra sau khi nhìn thấy chính mình trên tấm thẻ đã được viết ở mặt sau: “Đây là bức ảnh đẹp nhất về một vị giám mục mà tôi từng thấy: nó tượng trưng cho con đường mà ngài phải trở thành.”

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng rất ít việc được thực hiện để làm cho những sự kiện kỳ lạ này được biết đến ít nhất là vượt ra ngoài ranh giới giáo xứ, vì chúng chắc chắn không được biết đến nhiều ngay cả ở Á Căn Đình, chứ đừng nói đến phần còn lại của thế giới. Một người hành hương lái xe trên xa lộ A14 trên đường đến Lanciano có thể nhìn thấy những tấm biển chỉ đường dẫn đến Đền thờ Phép lạ Thánh Thể cách lối ra hàng chục km. Thay vào đó, tại Nhà thờ Đức Bà ở Buenos Aires, sự thận trọng là điều tuyệt đối: Bạn có thể đi bộ qua lối vào nhà thờ mà không nhận thấy một tấm biển hoặc dấu hiệu nào. Bạn phải biết về phép lạ rồi và cần trực tiếp hỏi ai đó để biết thêm thông tin. Chỉ khi đó, với sự lịch sự và nụ cười đáng yêu, giáo dân vô danh mới trả lời rằng đúng vậy, một biến cố lạ lùng đã xảy ra trong nhà thờ. Ông ta sẽ mang ra một số tài liệu và kiểm tra xem cha xứ có sẵn sàng cho một cuộc gặp mặt hay không. Thành thật mà nói, cách đây vài năm, hai phiến đá khắc cuối cùng đã được đặt ở lối vào nhà nguyện chầu Thánh Thể với dòng chữ như sau:

"Cộng đồng Đức Bà đã cung hiến nhà nguyện này cho việc Chầu Thánh Thể vĩnh viễn. Dấu Lạ Thánh Thể được lưu giữ ở đây cùng với tất cả các bình thánh từ các biến cố năm 1992, 1994 và 1996.

Chúng tôi hy vọng Dấu Lạ này sẽ dành cho người khác như những gì nó đã dành cho chúng tôi: một con đường dẫn đến việc khám phá việc Tôn thờ Thánh Thể.... Các cuộc họp về các biến cố của Dấu Lạ Thánh Thể diễn ra vào thứ Sáu thứ ba.... Không cần ghi tên trước. Tại những cuộc gặp gỡ này, các thành viên của cộng đồng sẽ nói về những gì đã xảy ra, chúng tôi sẽ nói về những biến cố đó và cùng nhau cầu nguyện. Đây là cách mà cộng đồng giáo xứ, cùng với giám mục của mình, quyết định chia sẻ những sự thật này với anh chị em trong Đức Tin, coi đây là cách thoả đáng hơn và thích đáng hơn để nói về những biến cố này so với bất cứ phương tiện truyền thông nào khác".

Đáng chú ý, chữ dấu lạ được lặp đi lặp lại một cách nhất quán. Nó chắc chắn không kém phần mạnh mẽ hoặc gây bối rối so với chữ phép lạ, mặc dù nó chắc chắn mơ hồ hơn rất nhiều.

Việc kiên quyết không muốn sử dụng các phương tiện truyền thông mạnh mẽ và lan tràn ngày nay, ưa thích cách tiếp cận trực tiếp và giữa các bản vị, là một lựa chọn đáng lưu ý. Ngay cả văn bản trong tập tài liệu quảng cáo mà tôi được mời cũng đến với người đọc theo một phong cách khá đúng đắn về mặt chính trị và không hề có chút quyết đoán nào. Nó viết: “Trong một bầu không khí biện phân, chúng ta liên tục hỏi chúng ta phải đi theo con đường nào.... Chúng tôi tin rằng khi truyền lại những sự kiện này, chúng ta phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Không ai có thể bắt buộc ai đó phải xem xét chúng theo cách này hay cách khác. Mọi người trong Đức tin có nghĩa vụ đón nhận những gì Thiên Chúa gợi hứng cho mình trong lời cầu nguyện, cùng với thái độ huynh đệ chia sẻ tự do.”

Tôi không muốn liều bước vào lĩnh vực nằm ngoài chuyên môn của mình, nhưng tôi không thể không tự hỏi: Chúng ta có chắc mình đang diễn giải đúng ý trời hay không? Điều gì đó đáng kinh ngạc đã xảy ra ở Buenos Aires năm lần liên tiếp, vì vậy thông điệp phải mạnh mẽ và rõ ràng. Có máu và một mảnh trái tim đang sống đang đau khổ. Ở góc độ đức tin, nếu những dấu hiệu này xảy ra thì rõ ràng chúng ta cần chúng. Tại sao lại sợ hãi thì thầm những gì đáng lẽ phải hét lên tận đáy phổi? Tại sao lại “giấu đèn dưới một cái thùng” chỉ đưa ra một trích dẫn có thẩm quyền?

Kết quả của việc giữ kín đáo như vậy là không thể tránh khỏi: bên ngoài Giáo xứ Đức Bà, rất ít người biết về phép lạ này, và các chuyến bay thuê bao dành cho khách du lịch tôn giáo ở Châu Mỹ Latinh (và Hoa Kỳ) sẽ đi đến nơi khác - đến Bethany, ở Venezuela, nơi mà một thị nhân mà tôi không sợ gọi là cuồng loạn chắc chắn đã không trau dồi nhân đức khiêm nhường hoặc thực hành việc che giấu ở cùng mức độ, ngay cả khi diễn trình phong chân phước cho bà đang được tiến hành.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đóng góp mới nhất cho việc kiểm duyệt các biến cố ở Buenos Aires là khủng bố mạng. Bắt đầu từ mùa thu năm 2015, trang web của Giáo xứ Đức Bà đã bị các hacker Hồi giáo chuyên nghiệp chặn đứng. Những gì có thể là điểm tham chiếu cho bất cứ khách truy cập nào đang tìm kiếm thông tin an toàn và đáng tin cậy đã không còn tồn tại. Không có cách nào để tìm hiểu các chi tiết như thời gian tiếp nhận, tóm tắt ngắn gọn các sự kiện và xác nhận rằng Giáo xứ Đức Bà thực sự là một thực tại cụ thể của cuộc sống hàng ngày. Thay vào đó, hình ảnh cố định của một nhà thờ Hồi giáo và hình ảnh phản chiếu của nó trên mặt nước lúc hoàng hôn với giọng nói khàn khàn và đáng lo ngại của một thầy tu báo giờ Hồi Giáo [muezzin] đang thay thế trang web của giáo xứ. Thủ phạm là một nhóm tin tặc chuyên nghiệp người Thổ Nhĩ Kỳ được gọi là “Đội Ayyidldiz”. Họ thực sự có thể khoe khoang những thành tích ấn tượng thể hiện kỹ năng của mình: Thí dụ, họ đã đột nhập vào hệ thống phòng thủ Iron Dome của Israel vào năm 2014. Họ cũng chặn các trang web của Liên hiệp quốc và Coca-Cola cũng như các trang web của nhiều tổ chức châu Âu khác nhau. Vào tháng 1 năm 2016, họ thậm chí còn chế nhạo trang web của Bộ Quốc phòng Nga bằng cách thay cờ Nga bằng cờ Thổ Nhĩ Kỳ.

Suy nghĩ cuối cùng: Tại sao những kẻ khủng bố mạng có năng lực như vậy lại quan tâm đến việc ngăn chặn trang web của một giáo xứ Công Giáo nghèo? Tại sao họ lại cố gắng làm hại một tổ chức vô danh, tầm thường trên trường thế giới? Bạn có dám cá rằng kẻ thù, kẻ không bao giờ ngủ, có những ý tưởng rõ ràng hơn nhiều so với những đứa trẻ của ánh sáng về điều gì thực sự đáng đánh?

Cuối cùng, sau khoảng một năm, trang web chính thức của giáo xứ đã xuất hiện trở lại trên mạng với định dạng mới vào mùa thu năm 2016.

Thư mục

Maranatha.it. Missale Romanum de defectibus [Sách lễ Rôma về các thiếu sót]. Sestri Levante, Ý. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021. https://www.maranatha.it/MobileEdition/T15MissaleRomanum1962/testi/ddefpage.htm.

Toàn văn, được dịch bằng tiếng Ý nhưng cũng có sẵn bằng các ngôn ngữ khác.

Del Guercio, Gelsomino. 2015. “L'Ostia danneggiata o rovinata và utilizzata oppure no?” [Mình Thánh Chúa bị hư hỏng có nên sử dụng hay không] Aleteia. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021. https://it.aleteia.org/2015/12/02/come-comportarsi-ostia-caduta-terrabicchiere-acqua-sacrario/. Một chuyên viên phụng vụ giải thích các quy tắc giáo luật phải áp dụng trong trường hợp Mình Thánh Chúa rơi xuống đất hoặc bị bẩn.

Blondet, Maurizio. 2014. Un cuore per la vita eterna [Một trái tim cho cuộc sống vĩnh cửu] Effedieffe. Báo cáo đầu tiên và duy nhất viết bằng tiếng Ý về các phép lạ ở Buenos Aires. Sự quan tâm đặc biệt được dành cho các biến cố năm 1992, bao gồm cả lời khai ban đầu của Cha Eduardo Pérez Dal Lago. Trong phần thứ hai của cuốn sách, ngài tự đặt câu hỏi về lý do đằng sau việc nhận thức rất ít về những sự kiện này.

Bí tích Thánh Thể:Trong Hiệp thông với tôi. 2002. Video. Trans Media Productions.
Video này do các cộng tác viên người Úc của Bác sĩ Castañón tạo ra và có sẵn để bán trực tuyến. Cuộc phỏng vấn với Giáo sư Linoli tại phút. 10:41 đặc biệt đáng lưu ý. Vào phút 13:21, Tiến sĩ Lawrence nói về sự hiện diện của bạch cầu xâm nhập vào mô ở Buenos Aires. Vào phút 13:56 có bản ghi gốc về việc thu thập mẫu thử ở Buenos Aires vào ngày 5 tháng 10 năm 1999.

Castañón Gómez, Ricardo. 2011. Más allá de la razón [Quá vô lý], tái bản lần thứ 3. México: Trung tâm Quốc tế Estudios Humanos. Một cuốn sách không thể bỏ qua được viết bởi người chỉ đạo các cuộc điều tra về các sự kiện ở Buenos Aires năm 1999. Có những bức ảnh chụp các tài liệu quan trọng như các báo cáo lâm sàng và xét nghiệm trong phần phụ lục của nó.

Tesoriero, Ron. 2007. Reason to Believe [Lý do để tin] Úc: Ron Tesoriero. Tường thuật tự truyện và suy gẫm về một số biến cố lạ lùng, một số trong đó đã được tác giả đích thân điều tra. Chương 12 trình bày các biến cố ở Buenos Aires.

Tesoriero, Ron và Lee Han. 2013. Unseen New Evidence: The Origin of Life Under the Microscope [Bằng chứng mới chưa từng thấy: Nguồn gốc của sự sống dưới kính hiển vi]. Úc: Ron Tesoriero. Một cuốn sách thu thập các suy tư bản thân tương đối gần đây của Luật sư người Úc. Chương 8 thu thập các sự kiện liên quan đến các biến cố ở Buenos Aires. Phụ lục liệt kê các bản sao quý giá của các thử nghiệm và báo cáo trong phòng thí nghiệm.

Parroquia Santa Maria. 2020. Parroquia Santa Maria. Trang mạng. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021. https://parroquiasantamariacaballito.com.ar/. Trang web chính thức của Giáo xứ Đức Bà. Trang web này đã bị tấn công bởi một nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ theo trào lưu chính thống nhưng đã được kích hoạt lại vào năm 2016.

Ghi chú

(11) Tấm vải vuông trên đó đựng các bình thánh.

(12) Bình thánh đựng bánh thánh và được cất giữ bên trong Nhà tạm.

(13) Đĩa kim loại đựng bánh trong Phụng vụ Thánh Thể.

(14) Oncologist là bác sĩ chuyên điều trị bệnh ung thư.

(15) Hematologist là bác sĩ chuyên điều trị các bệnh về máu.

(16) Histopathology [Mô bệnh học] là chuyên ngành chẩn đoán bệnh dựa trên việc quan sát mẫu mô bệnh.

(17) Blood film [Màng máu] (còn gọi là phết máu) là một lớp máu mỏng được phết lên một phiến kính, sau đó được nhuộm màu để quan sát các loại tế bào máu khác nhau trong đó dưới kính hiển vi.

(18) Đây là những hỗn hợp tiêu chuẩn hóa được sử dụng phổ biến của chất cố định và chất tạo màu. Chúng nhuộm các quần thể tế bào bạch cầu khác nhau theo những cách khác nhau để làm cho chúng có thể được phân biệt rõ ràng dưới con mắt của nhà khoa học.

(19) Đây thực sự là một xét nghiệm máu cực kỳ phổ biến, được các bác sĩ chỉ định như một phần của công việc sàng lọc máu định kỳ tại nhiều cuộc tư vấn và kiểm tra y tế.

(20) Nói rộng ra và không riêng biệt, tế bào lympho là những tế bào bạch cầu chuyên biệt để chống lại nhiễm virút.

(21) Nói rộng ra và không chỉ riêng, bạch cầu trung tính là những tế bào bạch cầu chuyên chống nhiễm trùng do vi khuẩn.

(22) Vacuoles [Không bào] là những khối nhỏ bên trong tế bào có xu hướng xuất hiện khi tế bào bị căng thẳng sinh lý hoặc chết.

(23) Coccus [Cầu khuẩn] là bất cứ loại vi khuẩn nào có hình cầu, hình trứng hoặc hình tròn. Hầu hết mọi người đều đã nghe nói về các loài Staphylo-coccus và Strepto-coccus thường gây nhiễm trùng da và đường hô hấp.

(24) Lymphocytosis [Tăng tế bào lympho trong máu] là tình trạng dư thừa tế bào bạch cầu lympho.

(25) LDH là viết tắt của lactate dehydrogenase, một phân tử enzyme protein nằm bên trong hầu hết các tế bào sống có liên quan đến việc điều hòa năng lượng tạo ra các phản ứng hóa học.

(26) Protein electrophoresis [Điện chuyển protein] là phương pháp phân tích được sử dụng để tách tất cả các protein trong một mẫu nhất định dựa trên kích thước phân tử. Protein di chuyển những khoảng cách khác nhau trên ma trận gel dựa trên kích thước của chúng khi có điện trường. Sau khi được tách ra, lượng tương đối của chúng cũng có thể được định lượng để tạo ra cấu hình điện chuyển.

(27) Gamma globulin là kháng thể được hệ thống miễn dịch sử dụng để chống nhiễm trùng.

(28) Kỹ thuật PCR, viết tắt của polymerase chain reaction công nghệ phản ứng chuỗi polymerase, là một kỹ thuật tạo ra nhiều bản sao của một lượng DNA chẵn được tìm thấy trong một mẫu nhất định.

(29) Thử nghiệm orthotolidine là một thử nghiệm giả định nhằm tìm kiếm sự hiện diện của máu liên quan đến phản ứng của phân tử o-tolidine với huyết sắc tố trong máu với sự hiện diện của hydrogen peroxide [chất lỏng xirô không mầu có mùi hăng và vị nồng].

(30) Phân tích STR, viết tắt của phân tích short tandem repeat [lặp lại song song ngắn], là một kỹ thuật lập hồ sơ DNA thường được sử dụng trong y học pháp y để xác định DNA của cá nhân có mẫu được phân tích.

(31) Gien amelogenin là chuỗi DNA nằm trên nhiễm sắc thể giới tính. Chúng quan trọng đối với tổng hợp men răng và xác định giới tính của nghi phạm trong pháp y. Vì lý do này, chúng luôn được đưa vào các xét nghiệm lập hồ sơ DNA cùng với phân tích STR tiêu chuẩn.

(32) Antigen [Kháng nguyên] là bất cứ chất nào có thể được hệ thống miễn dịch phát hiện và kích hoạt phản ứng miễn dịch. Nhóm máu được xác định bởi sự hiện diện hay vắng mặt của các kháng nguyên chuyên biệt như A, B và O trên bề mặt tế bào máu.

(33) Osmosis [Thẩm thấu] là sự di chuyển tự phát của nước qua màng tế bào từ những vùng có nồng độ chất tan thấp qua nơi có nồng độ chất tan cao. Theo định nghĩa, nước cất không có chất tan nào hòa tan trong đó. Như vậy, nước cất chắc chắn sẽ thấm vào các tế bào sống chứa chất tan. Vì lý do này, các tế bào sống sẽ sưng lên và cuối cùng vỡ ra nếu tiếp xúc với nước cất.

(34) Keratin là chất liệu cấu trúc protein quan trọng trong da, tóc và móng tay.

(35) Leukocyte là thuật ngữ y tế cho bạch cầu.

(36) Necrosis [Hoại tử] là thuật ngữ y học cho sự chết tế bào vô tổ chức và không được kiểm soát. Điều này trái ngược với apoptosis, là quá trình tự sát tế bào có tổ chức và được kiểm soát tốt.

(37) Fibers, muscle fibers, và muscle cell [ Sợi, sợi cơ và tế bào cơ] đều là những thuật ngữ có ý nghĩa giống nhau và có thể được sử dụng thay thế cho nhau.

(38) Pyknosis là sự co lại và dày đặc của nhân tế bào xảy ra trong cả hoại tử và apoptosis [cơ chế xé nhỏ tế bào].

(39) Chronic inflammation [Viêm mãn tính] - nghĩa là tình trạng viêm kéo dài, lâu dài và liên tục - khác về mặt bệnh lý với viêm cấp tính. Viêm cấp tính và mãn tính khác nhau vì các quần thể tế bào bạch cầu khác nhau với các chức năng và mục đích khác nhau can dự vào từng loại viêm.

(40) Macrophages [Đại thực bào] là những tế bào bạch cầu chuyên biệt có khả năng nuốt chửng và tiêu hóa các mảnh vụn tế bào, chất lạ và vi khuẩn. Chúng liên quan nhiều hơn đến tình trạng viêm mãn tính.

(41) Polymorphonuclear cells [Tế bào đa nhân] là một họ bạch cầu bao gồm bạch cầu trung tính, nhưng cũng có basophils [bạch cầu ưa kiềm] và eosinophils [bạch cầu ưa toan]. Bạch cầu trung tính chuyên tiêu diệt vi khuẩn, bạch cầu ưa kiềm có liên quan đến phản ứng dị ứng và bạch cầu ưa toan chuyên tấn công ký sinh trùng. Các tế bào đa nhân có xu hướng đóng vai trò lớn hơn trong tình trạng viêm cấp tính.

(42) Myocardial infarction [Nhồi máu cơ tim] là thuật ngữ y học thường được gọi là “lên cơn đau tim”. Đó là tình trạng tử vong và thoái hóa sau đó của một vùng cơ tim, phổ biến nhất là do sự suy giảm lượng máu cung cấp đầy đủ cho mô bị ảnh hưởng.

(43) Các mạch máu cung cấp máu cho tim được gọi là động mạch vành. Tắc nghẽn các động mạch này là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhồi máu cơ tim.

(44) Thrombosis [chứng huyết khối] là sự hình thành cục máu đông.