Đức Kitô sinh xuống trần gian không phải do ngẫu nhiên, mà có chủ đích. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cách riêng cho nhân loại. Ngài xuống trần gian làm công việc cứu độ toàn dân. Hơn bảy trăm năm trước tiên tri Isaiah đã loan báo Tin Vui cho toàn dân. Đức Kitô sẽ sinh tại Belem; sau đó gia đình thánh gia di tản, tạm trú bên Ai Cập. Một thời gian sau sẽ trở về và cư ngụ tại Nazareth. Những tiên báo này lần lượt được mặc khải và xảy ra đúng như những gì đã tiên báo. Những tiên báo cho biết Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi nhân loại, để mặc cho tội lỗi hành hạ vì tội bất tuân. Việc Chúa thực hiện ngoài khả năng hiểu biết, dự đoán của nhân loại.Thiên Chúa, theo cách riêng của Ngài, thời gian do Ngài ấn định, Ngài sai Con Một xuống trần gian làm công việc tiêu diệt thần chết, giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ là kẻ tạo biến loạn, gây chia rẽ, tranh chấp, hằn thù, gian tham, bởi chúng là đầu mối của mọi sự tội.
Việc Đức Kitô rao giảng, Ngài xuống thế làm người, chết đau thương trên thập tự, phục sinh khải hoàn và hiện ra với các môn đệ, tất cả đều chung một mục đích đó là mặc khải tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Qua Đức Kitô, Kitô hữu nhận ra tình Chúa vô biên. Đức Kitô chính là ánh sáng tình yêu Chúa dành cho nhân loại. Mục đồng và Ba Vua Phương Đông là hai nhóm người đầu tiên đến gặp Con Thiên Chúa Giáng Trần và lòng họ tràn ngập niềm vui. Chúa Giáng Sinh là Tin Vui cho những tâm hồn thiện tâm và là nguồn đau khổ, sợ hãi cho những ai chọn sống trong bóng tối. Ngày Chúa Giáng Sinh đánh dấu ngày khởi đầu cho trận chiến giữa thần linh và ác thần.
Nghe tin thánh Gioan Tiền Hô bị bắt, Đức Kitô bắt đầu công khai rao giảng tại Capernaum, một thành vùng biên giới giữa hai thành Zebulun và Naphtali. Dây chính là tên của hai chi tộc con cái Israel. Nơi họ cư ngụ trở thành tên miền. Vùng lãnh thổ này là một phần của miền Đất Hứa Chúa hứa ban riêng cho Ngài. Bởi tranh chấp nội bộ, anh em bất hoà nên bị dân ngoại chiếm đóng, thống trị. Khi con người phạm tội; tội làm cho tâm hồn họ trở nên mù quáng gần như đen tối. Điều này gây xáo trộn, rối loạn hệ thống liên hệ, tình cảm con người dành cho nhau. Tội làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa trở nên lơ là, rời rạc trước khi bị quên lãng. Tội là nguyên nhân làm mờ tối tâm hồn, lu mờ đức tin, bôi lọ luôn cả nơi tội nhân sống. Đức Kitô đến Capernaum đem ánh Sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn con người, kêu gọi họ trở về làm hoà cùng Thiên Chúa. Công việc rao giảng của Đức Kitô cũng là công việc rao giảng của chính Thiên Chúa, bởi
'Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy' Gn 5,19.
Tại Capernaum, Đức Kitô rao giảng điều Gioan rao giảng. Kêu gọi con người thống hối với niềm tin Nước Thiên Chúa đang đến gần. Điều này xác định điều Gioan rao giảng không phải của chính ông mà chính là Thiên Chúa mặc khải cho ông biết. Đức Kitô cũng đón nhận môn đệ Gioan. Việc này biểu lộ Đức Kitô đón bất cứ ai thành tâm đến với Ngài. Gioan rao giảng riêng cho một dân tộc; Đức Kitô rao giảng cho mọi dân tộc, mọi thế hệ, mọi thời đại. Lời Ngài đi chung với lời của Đấng thần linh.
Người ta ca tụng Ngài rao giảng lời mới mẻ, lại có uy quyền. Lời Ngài rao giảng đi chung với hành động. Điều này trở thành mục vụ chữa lành không phải chỉ chữa lành tâm hồn không mà thôi, mà đồng thời chữa lành cả thân xác. Sau cuộc khổ nạn, Đức Kitô Phục Sinh vinh hiển. Nhiều lần Ngài hiện ra với môn đệ. Trước khi về trời Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh bởi Tin Mừng Phục Sinh gắn liền với sự sống trường sinh Ngài ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài.
Khởi đầu thời kì rao giảng Đức Kitô tuyển chọn môn đệ không theo thói thường thế gian là chọn người quyền thế, giầu sang, có thế lực trong dân, để trở thành lãnh đạo tương lai. Đức Kitô chọn theo cách riêng của Ngài. Ngài chú trọng đến con tim và tâm hồn con người. Để trở thành môn đệ Đức Kitô, người đó cần có đời sống đơn sơ. Đơn sơ cả về đời sống thường nhật lẫn đời sống tâm linh, cần có lòng yêu mến, sẵn sàng tin theo Đức Kitô, cần khiêm hạ trong cõi lòng. Tất cả những điều đó cần thiết để trở thành môn đệ Đức Kitô.
Chính Ngài chọn mười hai người, gọi các ông là tông đồ, huấn luyện riêng cho các ông. Dậy các ông chấp nhận nhược điểm của mình, và tha thứ cho thiếu sót, yếu đuối của anh em. Trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài trao vào tay Tông đồ nhiệm vụ coi sóc Giáo Hội; ngày nay được biết đến là Giáo Hội Đức Kitô thiết lập nơi trần gian. Tông đồ trung thành với giáo huấn Đức Kitô và truyền lại cho thế hệ con cháu. Dậy họ trung thành, yêu mến và sống cho Đức Kitô. Kể từ ngày đó môn đệ nhận biết Đức Kitô cùng đồng hành với họ trong thần khí. Các ông hoàn toàn lệ thuộc vào hướng dẫn, chỉ bảo, khai sáng của chính Thần Khí Chúa, Đấng luôn cùng đồng hành với Giáo Hội Chúa nơi trần gian.
Học từ các tông đồ, Kitô hữu học yêu mến, trung thành, phó thác đời mình cho Chúa và học chấp nhận thiếu sót của chính mình và của anh em.
TiengChuong.org
For A Purpose
Jesus came into this world, not by an accident, but He is God's special gift, who, out of his love for mankind, sent His only Son to the world to do the saving mission. Several hundred years earlier before the birth of Jesus, Isaiah had prophesied that Jesus would be born in Bethlehem, and that the holy family would live in exile in Egypt, and then returned not to their hometown but to Nazareth. These significant events, one by one, slowly unfolded exactly as the prophet had prophesied. The prophecy affirmed that God would never leave the humanity to die in their sin, the sin of disobedience. God, in a mysterious way and unknown to us, would one day exercise God's mighty power to defeat the forces of evil, and that was Jesus' saving mission on earth. Jesus' teachings, his birth, death, and resurrection would all reveal the boundless God's love for mankind. God's love is made visible through Jesus, who is the light for the world. The shepherds and Magi were the first two groups of people to meet God's Son. The meetings enlightened their hearts. The birth of Jesus was good news for people of goodwill, and those who prefer to live in darkness would live in fear. His birth is the beginning of the battle between good and evil.
Hearing John the Baptist was arrested, Jesus went to Capernaum, the borders of Zebulun and Naphtali were the two tribes of Israel; the land was named after the people. The land presently was occupied by the Gentile imperial power. Darkness in human hearts would not only darken the land; but darkened also the whole network of human relationships, including their faith in God. When people sin, both the land and its people were darkened. Jesus came to Capernaum to show God's love and mercy and brought them back to God. Jesus began his public ministry which was also God's public ministry because
'The Son can do nothing by himself.... but whatever the Father does the Son does too' Jn 5,19.
In Capernaum, Jesus proclaimed the same theme that John did. John called the people to repent and believe that the kingdom of God is close at hand. This was to confirm what John proclaimed was not of his own, but God revealed it to him. Jesus also accepted John's disciples to be his own. This acceptance indicates Jesus would welcome anyone who came to him. John's preaching was preserved for a chosen race. Jesus expanded it to everyone; and brought it to a higher level, the level of the spirit.
People praised Jesus saying his teaching was new and he taught with authority. Furthermore, His teaching was accompanied by actions, his healing ministry. Jesus himself rose from the dead and appeared multiple times to his apostles, and that implied Jesus had defeated the power of death forever.
The criteria for choosing his disciples were not based on social power, wealth, and personal talents, but rather a simplicity in life, a willingness to follow, and a humble of heart, which are vital conditions in becoming Jesus' disciples. He handed pick the twelve and they accompanied him in his public ministry. He formed them, changed their profession, called them apostles, and taught them to forgive each other's weaknesses. The apostles had faith first and then slowly come to understanding.
Before returning to the Father, Jesus entrusted his public ministry into their hands, which today is known as the Church. The apostles remain faithful to Jesus' teaching and teach the next generations to do the same. They were faithful to Jesus' teaching; and believed that he was not with them in a physical form as he used to be, but in spirit. The apostles relied heavily on the Spirit, who would guide, govern, lead, and be their trusted companion in their journey. We learn from the apostles to love; and accept ours and each other's limitations.
Việc Đức Kitô rao giảng, Ngài xuống thế làm người, chết đau thương trên thập tự, phục sinh khải hoàn và hiện ra với các môn đệ, tất cả đều chung một mục đích đó là mặc khải tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Qua Đức Kitô, Kitô hữu nhận ra tình Chúa vô biên. Đức Kitô chính là ánh sáng tình yêu Chúa dành cho nhân loại. Mục đồng và Ba Vua Phương Đông là hai nhóm người đầu tiên đến gặp Con Thiên Chúa Giáng Trần và lòng họ tràn ngập niềm vui. Chúa Giáng Sinh là Tin Vui cho những tâm hồn thiện tâm và là nguồn đau khổ, sợ hãi cho những ai chọn sống trong bóng tối. Ngày Chúa Giáng Sinh đánh dấu ngày khởi đầu cho trận chiến giữa thần linh và ác thần.
Nghe tin thánh Gioan Tiền Hô bị bắt, Đức Kitô bắt đầu công khai rao giảng tại Capernaum, một thành vùng biên giới giữa hai thành Zebulun và Naphtali. Dây chính là tên của hai chi tộc con cái Israel. Nơi họ cư ngụ trở thành tên miền. Vùng lãnh thổ này là một phần của miền Đất Hứa Chúa hứa ban riêng cho Ngài. Bởi tranh chấp nội bộ, anh em bất hoà nên bị dân ngoại chiếm đóng, thống trị. Khi con người phạm tội; tội làm cho tâm hồn họ trở nên mù quáng gần như đen tối. Điều này gây xáo trộn, rối loạn hệ thống liên hệ, tình cảm con người dành cho nhau. Tội làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa trở nên lơ là, rời rạc trước khi bị quên lãng. Tội là nguyên nhân làm mờ tối tâm hồn, lu mờ đức tin, bôi lọ luôn cả nơi tội nhân sống. Đức Kitô đến Capernaum đem ánh Sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn con người, kêu gọi họ trở về làm hoà cùng Thiên Chúa. Công việc rao giảng của Đức Kitô cũng là công việc rao giảng của chính Thiên Chúa, bởi
'Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy' Gn 5,19.
Tại Capernaum, Đức Kitô rao giảng điều Gioan rao giảng. Kêu gọi con người thống hối với niềm tin Nước Thiên Chúa đang đến gần. Điều này xác định điều Gioan rao giảng không phải của chính ông mà chính là Thiên Chúa mặc khải cho ông biết. Đức Kitô cũng đón nhận môn đệ Gioan. Việc này biểu lộ Đức Kitô đón bất cứ ai thành tâm đến với Ngài. Gioan rao giảng riêng cho một dân tộc; Đức Kitô rao giảng cho mọi dân tộc, mọi thế hệ, mọi thời đại. Lời Ngài đi chung với lời của Đấng thần linh.
Người ta ca tụng Ngài rao giảng lời mới mẻ, lại có uy quyền. Lời Ngài rao giảng đi chung với hành động. Điều này trở thành mục vụ chữa lành không phải chỉ chữa lành tâm hồn không mà thôi, mà đồng thời chữa lành cả thân xác. Sau cuộc khổ nạn, Đức Kitô Phục Sinh vinh hiển. Nhiều lần Ngài hiện ra với môn đệ. Trước khi về trời Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh bởi Tin Mừng Phục Sinh gắn liền với sự sống trường sinh Ngài ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài.
Khởi đầu thời kì rao giảng Đức Kitô tuyển chọn môn đệ không theo thói thường thế gian là chọn người quyền thế, giầu sang, có thế lực trong dân, để trở thành lãnh đạo tương lai. Đức Kitô chọn theo cách riêng của Ngài. Ngài chú trọng đến con tim và tâm hồn con người. Để trở thành môn đệ Đức Kitô, người đó cần có đời sống đơn sơ. Đơn sơ cả về đời sống thường nhật lẫn đời sống tâm linh, cần có lòng yêu mến, sẵn sàng tin theo Đức Kitô, cần khiêm hạ trong cõi lòng. Tất cả những điều đó cần thiết để trở thành môn đệ Đức Kitô.
Chính Ngài chọn mười hai người, gọi các ông là tông đồ, huấn luyện riêng cho các ông. Dậy các ông chấp nhận nhược điểm của mình, và tha thứ cho thiếu sót, yếu đuối của anh em. Trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài trao vào tay Tông đồ nhiệm vụ coi sóc Giáo Hội; ngày nay được biết đến là Giáo Hội Đức Kitô thiết lập nơi trần gian. Tông đồ trung thành với giáo huấn Đức Kitô và truyền lại cho thế hệ con cháu. Dậy họ trung thành, yêu mến và sống cho Đức Kitô. Kể từ ngày đó môn đệ nhận biết Đức Kitô cùng đồng hành với họ trong thần khí. Các ông hoàn toàn lệ thuộc vào hướng dẫn, chỉ bảo, khai sáng của chính Thần Khí Chúa, Đấng luôn cùng đồng hành với Giáo Hội Chúa nơi trần gian.
Học từ các tông đồ, Kitô hữu học yêu mến, trung thành, phó thác đời mình cho Chúa và học chấp nhận thiếu sót của chính mình và của anh em.
TiengChuong.org
For A Purpose
Jesus came into this world, not by an accident, but He is God's special gift, who, out of his love for mankind, sent His only Son to the world to do the saving mission. Several hundred years earlier before the birth of Jesus, Isaiah had prophesied that Jesus would be born in Bethlehem, and that the holy family would live in exile in Egypt, and then returned not to their hometown but to Nazareth. These significant events, one by one, slowly unfolded exactly as the prophet had prophesied. The prophecy affirmed that God would never leave the humanity to die in their sin, the sin of disobedience. God, in a mysterious way and unknown to us, would one day exercise God's mighty power to defeat the forces of evil, and that was Jesus' saving mission on earth. Jesus' teachings, his birth, death, and resurrection would all reveal the boundless God's love for mankind. God's love is made visible through Jesus, who is the light for the world. The shepherds and Magi were the first two groups of people to meet God's Son. The meetings enlightened their hearts. The birth of Jesus was good news for people of goodwill, and those who prefer to live in darkness would live in fear. His birth is the beginning of the battle between good and evil.
Hearing John the Baptist was arrested, Jesus went to Capernaum, the borders of Zebulun and Naphtali were the two tribes of Israel; the land was named after the people. The land presently was occupied by the Gentile imperial power. Darkness in human hearts would not only darken the land; but darkened also the whole network of human relationships, including their faith in God. When people sin, both the land and its people were darkened. Jesus came to Capernaum to show God's love and mercy and brought them back to God. Jesus began his public ministry which was also God's public ministry because
'The Son can do nothing by himself.... but whatever the Father does the Son does too' Jn 5,19.
In Capernaum, Jesus proclaimed the same theme that John did. John called the people to repent and believe that the kingdom of God is close at hand. This was to confirm what John proclaimed was not of his own, but God revealed it to him. Jesus also accepted John's disciples to be his own. This acceptance indicates Jesus would welcome anyone who came to him. John's preaching was preserved for a chosen race. Jesus expanded it to everyone; and brought it to a higher level, the level of the spirit.
People praised Jesus saying his teaching was new and he taught with authority. Furthermore, His teaching was accompanied by actions, his healing ministry. Jesus himself rose from the dead and appeared multiple times to his apostles, and that implied Jesus had defeated the power of death forever.
The criteria for choosing his disciples were not based on social power, wealth, and personal talents, but rather a simplicity in life, a willingness to follow, and a humble of heart, which are vital conditions in becoming Jesus' disciples. He handed pick the twelve and they accompanied him in his public ministry. He formed them, changed their profession, called them apostles, and taught them to forgive each other's weaknesses. The apostles had faith first and then slowly come to understanding.
Before returning to the Father, Jesus entrusted his public ministry into their hands, which today is known as the Church. The apostles remain faithful to Jesus' teaching and teach the next generations to do the same. They were faithful to Jesus' teaching; and believed that he was not with them in a physical form as he used to be, but in spirit. The apostles relied heavily on the Spirit, who would guide, govern, lead, and be their trusted companion in their journey. We learn from the apostles to love; and accept ours and each other's limitations.