“Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.” ( Xuân Diệu)
Đến hôm nay, hẳn nhiên là không còn một người Việt Nam nào kinh ngạc, hay thấy lạ lùng trước cảnh cán bộ, đảng viên nhà nước Việt cộng thi đua nhau chiếm đoạt tài sản của nhân dân Việt Nam để cho vào túi riêng. Bởi lẽ, sự kiện này đã khởi sự ngay sau cái hội nghị ở gốc cây đa Tân Trào. Đến nay, nó trở thành nếp, thành chuyện thường nhật trong sinh hoạt của đảng và nhà nước Việt cộng. Chỉ tính riêng các cơ sở của tôn giáo thì đã có đến hơn 2250 cơ sở bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Sở dĩ có những bất công chồng chất trong xã hội như thế là vì, chẳng có một cán cộng nào được sinh ra và lớn lên trong thói đảng, mà không thuộc nằm lòng hai câu thơ như giáo điều cơ bản của đảng, do thi sỹ vì tem phiếu Xuân Diệu khởi xướng là: “Lôi cổ bọn nó ra đây, bắt qùy xuống, đoạ đày chết thôi”.
Nói về thơ thì Xuân Diệu có tài làm thơ tình, ít người sánh kịp. Mà nói về cái “ác đảng tính” của Xuân Diệu thì có lẽ toàn đảng cộng phải cúi đầu bái phục, vì nó đã vạch ra hướng đi cho toàn đảng. Phần người nhân bản nghe đến là dựng tóc gáy. Bởi từ dạo đó, bài giáo huấn này biến thành dòng máu luân lưu, thành bản chất trong đời cán cộng nhớn nhỏ từ trung ương cho đến địa phương. Đứng nhìn từ bất cứ góc độ nào, cán đều tự cho mình cái quyền hạn đứng trên người, trên luật lệ, trên cả đất nưóc. Nên mặc tình mặc sức ngoảnh mặt làm ngơ, tệ hơn thế còn tạo thêm ra những thống khổ cho đồng loại. Khi tự tạo thêm ra những thống khổ này cho đồng loại, không biết những cán cộng này tự bảo mình là ai? Là con người không có nhân lương tính hay là loài thú hoang? Bởi lẽ: “Chỉ có loài cầm thú mới quay mặt trước nỗi thống khổ của đồng loại”
Theo đó, nếu xã hội cộng sản không còn xảy ra chuyện bóc lột người qua hình thức “quy hoạch”, “cưỡng chế” nữa, mới là cái sự lạ đời. Tuy nhiên, hơn một tháng nay, người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước được chứng kiến hai sự kiện lạ hơn bất thường là:
1. Anh Đoàn văn Vươn vì giữ nhà, giữ vườn, đã quyết định nổ súng nhắm bắn thẳng vào những tên cán cộng gỉa danh bộ đội, công an nhân dân ở Tiên Lãng, Hải Phòng, nhưng thực chất là những tên ác ôn côn đồ, mang lòng lang dạ sói, dùng bạo lực công quyền để chiếm đoạt tài sản của người khác về làm của riêng. Anh đã làm một việc, không hẳn là một phản ứng nhất thời. Nhưng là một hành động dũng cảm như Dan Josif của Rumania vào ngày 22/12/1989. Có khác là khác vì ở trong hai tình thế khác nhau.
Hôm ấy, đảng cộng sản Roumania tổ chức một cuộc tuần hành biểu dương sức mạnh để ủng hộ Ceaucescu. Nhưng một chuyện tình cờ đã tạo nên lịch sử mới. Bởi vì không ai ngờ rằng cuộc biểu dương sức mạnh của đảng cộng sản Roumani bỗng chốc chuyển hướng chỉ vì một câu hô đả đảo Ceaucescu... Sau một giây ngỡ ngàng, hàng trăm rồi hàng ngàn ngàn tiếng hô vang dội chuyền đi bên nhau. Rồi anh chàng công nhân Dan Josif, tay cầm khẩu súng lục đưa lên cao, dẫn đầu đoàn người biểu tình nhào vào chiếm lấy tòa nhà của bộ chính trị, và từ đấy đã kết thiúc triều đại cuối cùng của cộng sản Roumani. Dĩ nhiên, hành động của Dan Josif là do lòng yêu nước thúc đẩy và hơn thế, anh đã không kịp tính toán cho một tiếng hô khởi đầu. Anh đã không kể gì đến bản thân mình, nhưng chính là vì cuộc sống tự do của người dân Roumania …
Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Quý ở Tiên Lãng dù ở trong một hoàn cảnh khác, nhưng cũng có cùng một giấc mơ, bảo vệ Công Lý. Bảo vệ quyền sống của con người. Họ đã nổ súng chống lại cường hào. Nó như một phát súng lệnh khai tử chế độ cộng sản Việt Nam. Dù rằng, trưóc mắt, anh có thể sẽ mất, nhưng xã hội sẽ được. Nghĩa là, anh sẽ ngồi tù. Vợ con anh có thể không bị truy tố. Riêng cái mảnh đất kia, sau ba bữa nửa tháng, câu chuyện êm dần xuống sẽ được nhà nước âm thầm giải quyết bằng một phương cách riêng rẽ, như cho thuê lại, thêm thời hạn hay trao cho mảnh đất khác với một số bồi thường nào đó. Về phía phe cánh đảng nhà nước sẽ vờ ngưng công tác, chặt vài ba con tép ở cấp xã, huyện và chuyển đổi công tác đi nơi khác là.... hết chuyện. Có còn lại, chỉ là dư âm của tiếng súng phản biện của người nông dân Đoàn văn Vươn.
2. Kế đến là vụ việc thủ tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng, trực tiếp can dự vào vụ cưỡng đoạt ầm ỹ này bằng câu hỏi lấp lửng:” việc ao cá, nhà của ông Vươn bị phá có chủ trương không? Câu hỏi mới khôi hài làm sao chứ. Bảo nó là chuyện cười còn là may đấy. Chính ra phải nói là chuyện lợm dọng mới đúng. Bởi lẽ, câu trả lời không một người nào không biết, không một người nào phủ nhận là Có. Hơn thế, nó còn là một chủ trương trọng tâm, cơ bản và tiên quyết của đảng và nhà nước Việt cộng. Nhưng ở trong trường hợp này, nó mở ra một câu trả lời buộc mọi cấp cán cộng nhớn nhỏ, không chỉ ở Tiên Lãng, Hải Phòng, mà ngay từ trung ương, xuống tới mọi địa phương đều phải trả lời, báo cáo là Không. Không, để lừa dối toàn dân. Không để chối tội cho đảng và Không, để cứu chính những kẻ đã vừa làm công tác “đấu tố” nhân dân để tạo uy thế cho đảng.
A. Tại sao lại là Có?
Theo tiến trình của lịch sữ, những sự kiện sau đây đã nối tiếp nhau để trả lời cho chữ có:
Thứ nhất: Ngay sau hội nghị gốc đa Tân Trào, hiệu ứng “Xô Viết Nghệ Tĩnh” đã nổ ra. Cái gọi là cuộc nổi đậy của người nông dân vùng Nghệ An Hà Tĩnh này thực chất chỉ là một tập dượt cho phương thức chiếm đoạt quyền tư hữu của người dân Việt Nam bằng bạo lực của cộng sản mà thôi. Bởi vì, ngay sau đó, hầu như tất cả mọi thành phần bất hảo đi theo Việt cộng trong vùng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã nhảy vọt. Chúng nhảy một bưóc từ đầu đường xó chợ trở thành chủ nhân ông, trở thành lãnh đạo, chiếm giữ toàn bộ tài sản do nông dân vùng lên chiếm lại từ tay các điền chủ trước kia. Và những người nông dân vì bị khích động, tham gia vào phong trào “Xô Viềt Nghệ Tĩnh” ngay lập tức trở thành những kẻ nô lệ cho chủ nhân mới còn tàn bạo, ác độc gấp trăm ngàn lần điền chủ và thực dân góp lại. Đó là cộng sản. Nên người dân chỉ nghe đến Xô Viết Nghệ Tĩnh là rùng mình rợn tóc gáy. Rồi những ai muốn sống một đời sống cho nên người thì đều tìm cách bỏ trốn khỏi vùng tự trị “Xô Viết Nghệ Tĩnh” do Việt cộng làm chủ. Không trốn được thì đành chấp nhận cho số phận hẩm hiu.
Thứ hai. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước vào ngày 20-7-1054 đã đẩy nguời dân Việt Nam vào một khúc quanh tàn nhẫn. Hơn một triệu người Việt Nam liều chết bằng cách này hay cách khác đã gồng gánh, chạy trốn khỏi miền bắc do Hồ chí Minh và cộng sản lãnh đạo. Và còn hàng triệu triệu người khác, vì không may, vì chậm chân nên đành phải ở lại. Sự kiện bị ở lại này đã đẫn đến việc toàn thể đồng bào ở miền bắc nước ta phải rỉ máu, và tràn nước mắt trong thống khổ. Rồi tất cả phải hứng chịu một sách lược vô đạo, nói toạc ra là cuộc cướp của giết người lớn nhất trong lịch sử ở Việt Nam do Hồ chí Minh, Trường Chinh và đảng cộng sản thực hiện với cái mỹ từ “cải cách ruộng đất”. Kết qủa là có hơn 172000 ngàn người dân Việt Nam đã bị giết chết vì mùa đấu tố 1954-56. Con số người bị chết này đến nay vẫn chẳng có một tài liệu nào ghi chính xác, nhưng theo cuốn Kinh tế Việt Nam do chính nhà nước Việt cộng xuất bản đã xác nhận là có đến ¾ số người bị giết, bị bức hại là bị oan!
Cùng với việc giết người chiếm hữu tài sản của nông dân tại miền quê, cộng sản cũng thực hiện những cuộc phá đình, chùa, miếu và chiếm đoạt các cơ sở của tôn giáo. Sách thì bảo là lấy tài sản lại cho nhân dân. Thực chất là “cứt trâu để lâu hóa bùn”, những tài sản này dần dà được sang nhưọng và chia chác cho nhau theo những kiểu “quy hoạch”, “hợp tác”, hay “bảo vệ an ninh quốc phòng”. Kết qủa, dân trắng tay, tài sản nhẹ nhàng lọt vào tay cán cộng.
Đến sau 30-4-1975, toàn thể đồng bào ở miền nam Việt Nam, trong đó có một số người trước kia đã từng nuôi ăn, và bao che cho Việt cộng trong thời chiến, đã đưọc dịp trắng mắt ra để mà nhìn thâý những hoạt cảnh, gói bọc bằng những mỹ từ “kinh tế mới”, “chế độ hộ khẩu”, “cại tạo công thương nghiệp” do cộng sản vẽ ra. Kết qủa lại hàng triệu người bỏ nước chạy trốn ra hải ngoại, trong số này có hàng trăm ngàn người chết trên đường vượt biên, vượt biển. Rồi hàng triệu triệu đồng bào ta còn ở lại trắng mắt, trắng tay, sống đời thống khổ và con cái, trẻ thơ bị đày vào cuộc khủng hoảng giáo dục.
Chuyện cũ chưa qua, bước sang thời gọi là “đổi mới”. Có thể nói một cách tổng quát là toàn thể những cán cộng, rất ư là vô văn hóa từ trong cuộc chiến, nhưng gặp thời “đổi mới” tức là đổi cách ăn cướp, đã hoàn toàn lột bỏ những phong cách của rừng rú, mũ cối, dép râu và thay vào đó là những khu nhà khang trang, xe cộ, quần áo lịch lãm. Dĩ nhiên, tất cả những sang trọng này đều là những tài sản sang đoạt bằng cách này hay cách khác từ tay người dân hay của công. Nó không có lấy một tý vốn công sức nào của những chủ nhân mới. Nói đơn giản hơn, những cán cộng vô sản, vô văn hóa này đã “đổi mới” cách ăn cướp tài sản của đất nước, của người dân bằng nhửng kế hoạch nhớn như: “Vùng quy hoạch” “vùng an ninh quốc phòng”, “khu giải tỏa”,” giải phóng mặt bằng” để chiếm hữu tài sản của tư của công rồi trờ thành những tư bản đỏ với khối tài sản, ở trong nước thì đồng bào trơ mắt ra mà ngó, và ra hải ngoại thì thế giới phải nể mặt! Hỏi, khối tài sản của lớp cán bộ từ hạ tầng cơ ở xã thôn, phường khóm đến trung ương này, có bao nhiêu phần trăm là là do công sức, mồ hôi và sự chuyên cần của họ tạo ra? Hay nó từ trên trời rớt xuống? Hãy nhìn từng đoàn người dân oan, nhìn cuộc sống lam lũ của người dân thì tức khắc có câu trả lời chính xác. Vậy, đây có phải là chủ trương chiếm đoạt tài sản của đồng bào của đảng và nhà nước này hay không?
B. Nhưng tại sao phải trả lời là KHÔNG?
Cái túi của kẻ cướp không bao giờ đầy. Đã hả hê như thế. Nhưng chúng vẫn luôn luôn thi đua nhau, tìm đủ cách bóp cho người dân không còn hơi thở, miếng ăn. Đó là câu chuyện của Thái Hà, Tòa Khân Sứ, Tam Tòa, Đồng Chiêm, Loan Lý, Cồn Dâu... và nay đầm tôm ở Tiên Lãng Hải Phòng. Trong những vụ việc này, người dân Việt Nam đã là những chứng nhân. Chứng kiến tận mắt một chính nhân quân tử và một thợ lừa xuất hiện. Đó là TGM Ngô Quang Kiệt và kẻ lừa đảo của thế kỷ Nguyễn tấn Dũng. Nay thêm một nông dân phản biện bằng tiếng súng Đoàn văn Vươn.
Chuyện tôi gọi Y là kẻ lừa đảo của thế kỷ cũng có những lý do: Ngay khi gặp TGM Ngô Quang Kiệt ở hậu cung tòa GM để bàn bạc, và tìm cách giải quyết êm thắm vụ việc TKS, Nguyễn tấn Dũng hứa trao trả lại từng phần và rồi, toàn bộ khu đất cho tòa GM Hà Nội. Một chính nhân như TGM Ngô quang Kiệt thì tin vào những lời lẽ ấy mà chờ đợi. Kết qủa, ngày 19-9-2008, Nguyễn tấn Dũng bất thần cho xe ủi đất đến tàn phá khu đất, vì không được ăn, để mở ra cái gọi là công viên cây xanh. TGM Kiệt trắng mắt, trắng tay. Tệ hơn thế, còn bị Nguyễn tấn Dũng cho đàn em, lâu la bêu riếu trên tất cả mọi hệ thống truyền thanh truyền hình như là một kẻ phản bội tổ quốc vì câu nói” Đất này không phải của Tàu, cũng không phải của Tây, nhưng trực thuộc tòa GM Hà Nội” với đầy đủ những văn bản. Tại sao Ông bị đấu tố như thế? Rất đơn giản, vì Ông là Người dám chống lại cái sách lược đi chiếm đoạt của cộng sản!
Nay lại đến câu chuyện của Đoàn văn Vươn ở Tiên Lãng. Thợ lừa lại xuất hiện bằng câu hỏi rất ấm ớ: Có là chủ trương không? Nếu không phải là chủ trương thì tìm ở đâu ra những vụ việc:” xô viết- nghệ tĩnh”, “cải cách ruộng đất”, “cải tạo công thương nghiệp”, “quy hoạch”, “giải toả mặt bằng” để làm giàu cho các cán bộ đảng viên?
Về chuyện này, thành thật mà nói: Người dân Việt Nam hiền hòa và chân thật qúa. Họ hiền lành và chân thật ngay trước những con hổ lang, dạ sói. Họ hiền lành và chân thật nuôi hổ báo để chúng quay lại cắn giết mình. Thật vậy, trong suốt chiều dài 80 năm qua, trừ ra những giai đoạn đối đầu trong chiến tranh hai phe Quốc - cộng, người Việt Nam cứ cần mẫn hiền lành làm ăn và nuôi nấng cho hổ báo lớn lên để chúng cắn giết người Việt Nam, mà hầu như không có nhiều phản ứng tích cực. Vụ nhân văn Giai Phẩm, vụ Qùynh Lưu hay hàng vạn vạn nhưng cành vạn tuế trog tay trong nhày nhà nước đưa 8 anh chị em giáo dân Thái Hà ra toà cũng chỉ là những tiếng thét đau thương tắm máu của đồng bào. Kế đến là hàng ngàn đồng bào khác lang thang khắp các phố chợ với những tờ dân oan trên tay, nhưng là những tiếng cưòi hạnh phúc của cộng sản. Nay, ở Tiên Lãng, nước mắt chảy ngập đồng sâu, nhưng đã pha máu của loài sấu hoang dã vì biện chứng Đoàn văn Vươn!
Chuyện của Đoàn văn Vươn nếu vào thời đấu tố, thời hậu 30-4-1975 hay đi trước làn sóng của những Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Cù huy Hà Vũ, Trần hùynh duy Thức... thì không phải một Đoàn văn Vươn, một Đoàn văn Qúy nhưng cả gia đình ấy đã phải gục suống và chết ở trong đám bùn lầy ấy mà không một ai hay biết, làm gì có chuyễn ầm ỹ thế? Thật là chẳng may cho cán cộng ở Tiên Lãng chút nào nhỉ. Tuy nhiên, vì là chủ trương của đảng và nhà nước, nên Nguyễn tấn Dũng không thể nào không đặt ra câu hỏi” Có là chủ trương không” để giải quyết vấn đề.
Bởi lẽ, khi Nguyễn tấn Dũng hỏi thế là buộc mọi cán cộng nhớn nhỏ, mọi cái loa phóng thanh ô uế của đảng, của nhà nước phải đồng loạt hô vang: Không phải là chủ trương của đảng, chỉ là sai nhầm của vài ba cán bộ thi hành. Phải hô hoán lên là Không để tiếp tục lừa đảo dân tộc Việt Nam, để cứu đảng và cứu chính những kẻ đi cưỡng chế tài sản của nhân dân. Làm được những chuyện mặt dày như thế, họ có xứng tầm là những tay lừa đảo của thế kỷ hay không?
Dầu có hay là không thì cái kết qủa của Tiên Lãng cũng vẫn là: Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Qúy, khó tránh khỏi cái tội có âm mưu giết người, vì đã gài mìn, nổ súng, chống lại kẻ dùng bạo lực đi cưỡng chế quyền tự do, quyền tư hữu của nhân dân do nhà nước chủ trương. Tuy nhiên, chỉ có một điều rất đáng nói đến ở trong vụ việc, có thể trở thành một mốc điểm của thời sự, của lịch sử là Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Qúy biêt trước mọi hậu qủa của những việc họ làm. Họ đã can đảm chấp nhận cái mất cho mình, và cho gia đình mình, để bù lại, xã hội nếu không còn Đoàn văn Vươn thì vĩnh viễn vẫn còn dư âm của tiếng súng phản biện chống bạo ác để bảo về quyền sống, bảo vệ Công Lý cho con người, cho xã hội được hưởng mai hậu. Đó là một hành động can trường đáng trân trọng. Xa hơn, đó cũng chính là tiếng súng lệnh khai tử chế độ bạo tàn này. Bởi vì, vài ba con tép riu ở Tiên Lãng bị đem ra làm vật tế thần trong một cuộc chơi của tòa án, không còn khả năng lừa bịp dân ta. Và bạo lực cộng sản không còn là điều đáng sợ. Hơn thế, nó không còn khả năng cứu vãn và giữ chế độ này tiến thân an toàn vào trong vòng tay nô lệ cho lá cờ năm sao của Trung cộng.
Thật vậy, đã đến lúc tất cả mọi người dân Việt phải nắm lấy tay nhau, đồng lòng đồng sức hô vang: “Hỡi toàn thể Công Nông Thương Binh Việt Nam, hãy đoàn kết lại! Hãy trả câu giáo điều bạc ác của Xuân Diệu lại cho chính hàng ngũ cán cộng, để người Việt Nam cùng nhau đứng dậy, xây dựng lại một đất nước Việt Nam trong Độc Lập, Tự Do, Công Bằng, Dân Chủ. Cho đồng bào ta có cơ hội xây dựng lại cuộc sống Ấm No, Hạnh Phúc trong tình người Nhân Bản, Văn Hóa trên chính mảnh đất của cha ông ta để lại.
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.” ( Xuân Diệu)
Đến hôm nay, hẳn nhiên là không còn một người Việt Nam nào kinh ngạc, hay thấy lạ lùng trước cảnh cán bộ, đảng viên nhà nước Việt cộng thi đua nhau chiếm đoạt tài sản của nhân dân Việt Nam để cho vào túi riêng. Bởi lẽ, sự kiện này đã khởi sự ngay sau cái hội nghị ở gốc cây đa Tân Trào. Đến nay, nó trở thành nếp, thành chuyện thường nhật trong sinh hoạt của đảng và nhà nước Việt cộng. Chỉ tính riêng các cơ sở của tôn giáo thì đã có đến hơn 2250 cơ sở bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Sở dĩ có những bất công chồng chất trong xã hội như thế là vì, chẳng có một cán cộng nào được sinh ra và lớn lên trong thói đảng, mà không thuộc nằm lòng hai câu thơ như giáo điều cơ bản của đảng, do thi sỹ vì tem phiếu Xuân Diệu khởi xướng là: “Lôi cổ bọn nó ra đây, bắt qùy xuống, đoạ đày chết thôi”.
Nói về thơ thì Xuân Diệu có tài làm thơ tình, ít người sánh kịp. Mà nói về cái “ác đảng tính” của Xuân Diệu thì có lẽ toàn đảng cộng phải cúi đầu bái phục, vì nó đã vạch ra hướng đi cho toàn đảng. Phần người nhân bản nghe đến là dựng tóc gáy. Bởi từ dạo đó, bài giáo huấn này biến thành dòng máu luân lưu, thành bản chất trong đời cán cộng nhớn nhỏ từ trung ương cho đến địa phương. Đứng nhìn từ bất cứ góc độ nào, cán đều tự cho mình cái quyền hạn đứng trên người, trên luật lệ, trên cả đất nưóc. Nên mặc tình mặc sức ngoảnh mặt làm ngơ, tệ hơn thế còn tạo thêm ra những thống khổ cho đồng loại. Khi tự tạo thêm ra những thống khổ này cho đồng loại, không biết những cán cộng này tự bảo mình là ai? Là con người không có nhân lương tính hay là loài thú hoang? Bởi lẽ: “Chỉ có loài cầm thú mới quay mặt trước nỗi thống khổ của đồng loại”
Theo đó, nếu xã hội cộng sản không còn xảy ra chuyện bóc lột người qua hình thức “quy hoạch”, “cưỡng chế” nữa, mới là cái sự lạ đời. Tuy nhiên, hơn một tháng nay, người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước được chứng kiến hai sự kiện lạ hơn bất thường là:
1. Anh Đoàn văn Vươn vì giữ nhà, giữ vườn, đã quyết định nổ súng nhắm bắn thẳng vào những tên cán cộng gỉa danh bộ đội, công an nhân dân ở Tiên Lãng, Hải Phòng, nhưng thực chất là những tên ác ôn côn đồ, mang lòng lang dạ sói, dùng bạo lực công quyền để chiếm đoạt tài sản của người khác về làm của riêng. Anh đã làm một việc, không hẳn là một phản ứng nhất thời. Nhưng là một hành động dũng cảm như Dan Josif của Rumania vào ngày 22/12/1989. Có khác là khác vì ở trong hai tình thế khác nhau.
Hôm ấy, đảng cộng sản Roumania tổ chức một cuộc tuần hành biểu dương sức mạnh để ủng hộ Ceaucescu. Nhưng một chuyện tình cờ đã tạo nên lịch sử mới. Bởi vì không ai ngờ rằng cuộc biểu dương sức mạnh của đảng cộng sản Roumani bỗng chốc chuyển hướng chỉ vì một câu hô đả đảo Ceaucescu... Sau một giây ngỡ ngàng, hàng trăm rồi hàng ngàn ngàn tiếng hô vang dội chuyền đi bên nhau. Rồi anh chàng công nhân Dan Josif, tay cầm khẩu súng lục đưa lên cao, dẫn đầu đoàn người biểu tình nhào vào chiếm lấy tòa nhà của bộ chính trị, và từ đấy đã kết thiúc triều đại cuối cùng của cộng sản Roumani. Dĩ nhiên, hành động của Dan Josif là do lòng yêu nước thúc đẩy và hơn thế, anh đã không kịp tính toán cho một tiếng hô khởi đầu. Anh đã không kể gì đến bản thân mình, nhưng chính là vì cuộc sống tự do của người dân Roumania …
Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Quý ở Tiên Lãng dù ở trong một hoàn cảnh khác, nhưng cũng có cùng một giấc mơ, bảo vệ Công Lý. Bảo vệ quyền sống của con người. Họ đã nổ súng chống lại cường hào. Nó như một phát súng lệnh khai tử chế độ cộng sản Việt Nam. Dù rằng, trưóc mắt, anh có thể sẽ mất, nhưng xã hội sẽ được. Nghĩa là, anh sẽ ngồi tù. Vợ con anh có thể không bị truy tố. Riêng cái mảnh đất kia, sau ba bữa nửa tháng, câu chuyện êm dần xuống sẽ được nhà nước âm thầm giải quyết bằng một phương cách riêng rẽ, như cho thuê lại, thêm thời hạn hay trao cho mảnh đất khác với một số bồi thường nào đó. Về phía phe cánh đảng nhà nước sẽ vờ ngưng công tác, chặt vài ba con tép ở cấp xã, huyện và chuyển đổi công tác đi nơi khác là.... hết chuyện. Có còn lại, chỉ là dư âm của tiếng súng phản biện của người nông dân Đoàn văn Vươn.
2. Kế đến là vụ việc thủ tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng, trực tiếp can dự vào vụ cưỡng đoạt ầm ỹ này bằng câu hỏi lấp lửng:” việc ao cá, nhà của ông Vươn bị phá có chủ trương không? Câu hỏi mới khôi hài làm sao chứ. Bảo nó là chuyện cười còn là may đấy. Chính ra phải nói là chuyện lợm dọng mới đúng. Bởi lẽ, câu trả lời không một người nào không biết, không một người nào phủ nhận là Có. Hơn thế, nó còn là một chủ trương trọng tâm, cơ bản và tiên quyết của đảng và nhà nước Việt cộng. Nhưng ở trong trường hợp này, nó mở ra một câu trả lời buộc mọi cấp cán cộng nhớn nhỏ, không chỉ ở Tiên Lãng, Hải Phòng, mà ngay từ trung ương, xuống tới mọi địa phương đều phải trả lời, báo cáo là Không. Không, để lừa dối toàn dân. Không để chối tội cho đảng và Không, để cứu chính những kẻ đã vừa làm công tác “đấu tố” nhân dân để tạo uy thế cho đảng.
A. Tại sao lại là Có?
Theo tiến trình của lịch sữ, những sự kiện sau đây đã nối tiếp nhau để trả lời cho chữ có:
Thứ nhất: Ngay sau hội nghị gốc đa Tân Trào, hiệu ứng “Xô Viết Nghệ Tĩnh” đã nổ ra. Cái gọi là cuộc nổi đậy của người nông dân vùng Nghệ An Hà Tĩnh này thực chất chỉ là một tập dượt cho phương thức chiếm đoạt quyền tư hữu của người dân Việt Nam bằng bạo lực của cộng sản mà thôi. Bởi vì, ngay sau đó, hầu như tất cả mọi thành phần bất hảo đi theo Việt cộng trong vùng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã nhảy vọt. Chúng nhảy một bưóc từ đầu đường xó chợ trở thành chủ nhân ông, trở thành lãnh đạo, chiếm giữ toàn bộ tài sản do nông dân vùng lên chiếm lại từ tay các điền chủ trước kia. Và những người nông dân vì bị khích động, tham gia vào phong trào “Xô Viềt Nghệ Tĩnh” ngay lập tức trở thành những kẻ nô lệ cho chủ nhân mới còn tàn bạo, ác độc gấp trăm ngàn lần điền chủ và thực dân góp lại. Đó là cộng sản. Nên người dân chỉ nghe đến Xô Viết Nghệ Tĩnh là rùng mình rợn tóc gáy. Rồi những ai muốn sống một đời sống cho nên người thì đều tìm cách bỏ trốn khỏi vùng tự trị “Xô Viết Nghệ Tĩnh” do Việt cộng làm chủ. Không trốn được thì đành chấp nhận cho số phận hẩm hiu.
Thứ hai. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước vào ngày 20-7-1054 đã đẩy nguời dân Việt Nam vào một khúc quanh tàn nhẫn. Hơn một triệu người Việt Nam liều chết bằng cách này hay cách khác đã gồng gánh, chạy trốn khỏi miền bắc do Hồ chí Minh và cộng sản lãnh đạo. Và còn hàng triệu triệu người khác, vì không may, vì chậm chân nên đành phải ở lại. Sự kiện bị ở lại này đã đẫn đến việc toàn thể đồng bào ở miền bắc nước ta phải rỉ máu, và tràn nước mắt trong thống khổ. Rồi tất cả phải hứng chịu một sách lược vô đạo, nói toạc ra là cuộc cướp của giết người lớn nhất trong lịch sử ở Việt Nam do Hồ chí Minh, Trường Chinh và đảng cộng sản thực hiện với cái mỹ từ “cải cách ruộng đất”. Kết qủa là có hơn 172000 ngàn người dân Việt Nam đã bị giết chết vì mùa đấu tố 1954-56. Con số người bị chết này đến nay vẫn chẳng có một tài liệu nào ghi chính xác, nhưng theo cuốn Kinh tế Việt Nam do chính nhà nước Việt cộng xuất bản đã xác nhận là có đến ¾ số người bị giết, bị bức hại là bị oan!
Cùng với việc giết người chiếm hữu tài sản của nông dân tại miền quê, cộng sản cũng thực hiện những cuộc phá đình, chùa, miếu và chiếm đoạt các cơ sở của tôn giáo. Sách thì bảo là lấy tài sản lại cho nhân dân. Thực chất là “cứt trâu để lâu hóa bùn”, những tài sản này dần dà được sang nhưọng và chia chác cho nhau theo những kiểu “quy hoạch”, “hợp tác”, hay “bảo vệ an ninh quốc phòng”. Kết qủa, dân trắng tay, tài sản nhẹ nhàng lọt vào tay cán cộng.
Đến sau 30-4-1975, toàn thể đồng bào ở miền nam Việt Nam, trong đó có một số người trước kia đã từng nuôi ăn, và bao che cho Việt cộng trong thời chiến, đã đưọc dịp trắng mắt ra để mà nhìn thâý những hoạt cảnh, gói bọc bằng những mỹ từ “kinh tế mới”, “chế độ hộ khẩu”, “cại tạo công thương nghiệp” do cộng sản vẽ ra. Kết qủa lại hàng triệu người bỏ nước chạy trốn ra hải ngoại, trong số này có hàng trăm ngàn người chết trên đường vượt biên, vượt biển. Rồi hàng triệu triệu đồng bào ta còn ở lại trắng mắt, trắng tay, sống đời thống khổ và con cái, trẻ thơ bị đày vào cuộc khủng hoảng giáo dục.
Chuyện cũ chưa qua, bước sang thời gọi là “đổi mới”. Có thể nói một cách tổng quát là toàn thể những cán cộng, rất ư là vô văn hóa từ trong cuộc chiến, nhưng gặp thời “đổi mới” tức là đổi cách ăn cướp, đã hoàn toàn lột bỏ những phong cách của rừng rú, mũ cối, dép râu và thay vào đó là những khu nhà khang trang, xe cộ, quần áo lịch lãm. Dĩ nhiên, tất cả những sang trọng này đều là những tài sản sang đoạt bằng cách này hay cách khác từ tay người dân hay của công. Nó không có lấy một tý vốn công sức nào của những chủ nhân mới. Nói đơn giản hơn, những cán cộng vô sản, vô văn hóa này đã “đổi mới” cách ăn cướp tài sản của đất nước, của người dân bằng nhửng kế hoạch nhớn như: “Vùng quy hoạch” “vùng an ninh quốc phòng”, “khu giải tỏa”,” giải phóng mặt bằng” để chiếm hữu tài sản của tư của công rồi trờ thành những tư bản đỏ với khối tài sản, ở trong nước thì đồng bào trơ mắt ra mà ngó, và ra hải ngoại thì thế giới phải nể mặt! Hỏi, khối tài sản của lớp cán bộ từ hạ tầng cơ ở xã thôn, phường khóm đến trung ương này, có bao nhiêu phần trăm là là do công sức, mồ hôi và sự chuyên cần của họ tạo ra? Hay nó từ trên trời rớt xuống? Hãy nhìn từng đoàn người dân oan, nhìn cuộc sống lam lũ của người dân thì tức khắc có câu trả lời chính xác. Vậy, đây có phải là chủ trương chiếm đoạt tài sản của đồng bào của đảng và nhà nước này hay không?
B. Nhưng tại sao phải trả lời là KHÔNG?
Cái túi của kẻ cướp không bao giờ đầy. Đã hả hê như thế. Nhưng chúng vẫn luôn luôn thi đua nhau, tìm đủ cách bóp cho người dân không còn hơi thở, miếng ăn. Đó là câu chuyện của Thái Hà, Tòa Khân Sứ, Tam Tòa, Đồng Chiêm, Loan Lý, Cồn Dâu... và nay đầm tôm ở Tiên Lãng Hải Phòng. Trong những vụ việc này, người dân Việt Nam đã là những chứng nhân. Chứng kiến tận mắt một chính nhân quân tử và một thợ lừa xuất hiện. Đó là TGM Ngô Quang Kiệt và kẻ lừa đảo của thế kỷ Nguyễn tấn Dũng. Nay thêm một nông dân phản biện bằng tiếng súng Đoàn văn Vươn.
Chuyện tôi gọi Y là kẻ lừa đảo của thế kỷ cũng có những lý do: Ngay khi gặp TGM Ngô Quang Kiệt ở hậu cung tòa GM để bàn bạc, và tìm cách giải quyết êm thắm vụ việc TKS, Nguyễn tấn Dũng hứa trao trả lại từng phần và rồi, toàn bộ khu đất cho tòa GM Hà Nội. Một chính nhân như TGM Ngô quang Kiệt thì tin vào những lời lẽ ấy mà chờ đợi. Kết qủa, ngày 19-9-2008, Nguyễn tấn Dũng bất thần cho xe ủi đất đến tàn phá khu đất, vì không được ăn, để mở ra cái gọi là công viên cây xanh. TGM Kiệt trắng mắt, trắng tay. Tệ hơn thế, còn bị Nguyễn tấn Dũng cho đàn em, lâu la bêu riếu trên tất cả mọi hệ thống truyền thanh truyền hình như là một kẻ phản bội tổ quốc vì câu nói” Đất này không phải của Tàu, cũng không phải của Tây, nhưng trực thuộc tòa GM Hà Nội” với đầy đủ những văn bản. Tại sao Ông bị đấu tố như thế? Rất đơn giản, vì Ông là Người dám chống lại cái sách lược đi chiếm đoạt của cộng sản!
Nay lại đến câu chuyện của Đoàn văn Vươn ở Tiên Lãng. Thợ lừa lại xuất hiện bằng câu hỏi rất ấm ớ: Có là chủ trương không? Nếu không phải là chủ trương thì tìm ở đâu ra những vụ việc:” xô viết- nghệ tĩnh”, “cải cách ruộng đất”, “cải tạo công thương nghiệp”, “quy hoạch”, “giải toả mặt bằng” để làm giàu cho các cán bộ đảng viên?
Về chuyện này, thành thật mà nói: Người dân Việt Nam hiền hòa và chân thật qúa. Họ hiền lành và chân thật ngay trước những con hổ lang, dạ sói. Họ hiền lành và chân thật nuôi hổ báo để chúng quay lại cắn giết mình. Thật vậy, trong suốt chiều dài 80 năm qua, trừ ra những giai đoạn đối đầu trong chiến tranh hai phe Quốc - cộng, người Việt Nam cứ cần mẫn hiền lành làm ăn và nuôi nấng cho hổ báo lớn lên để chúng cắn giết người Việt Nam, mà hầu như không có nhiều phản ứng tích cực. Vụ nhân văn Giai Phẩm, vụ Qùynh Lưu hay hàng vạn vạn nhưng cành vạn tuế trog tay trong nhày nhà nước đưa 8 anh chị em giáo dân Thái Hà ra toà cũng chỉ là những tiếng thét đau thương tắm máu của đồng bào. Kế đến là hàng ngàn đồng bào khác lang thang khắp các phố chợ với những tờ dân oan trên tay, nhưng là những tiếng cưòi hạnh phúc của cộng sản. Nay, ở Tiên Lãng, nước mắt chảy ngập đồng sâu, nhưng đã pha máu của loài sấu hoang dã vì biện chứng Đoàn văn Vươn!
Chuyện của Đoàn văn Vươn nếu vào thời đấu tố, thời hậu 30-4-1975 hay đi trước làn sóng của những Lê thị Công Nhân, Nguyễn văn Đài, Cù huy Hà Vũ, Trần hùynh duy Thức... thì không phải một Đoàn văn Vươn, một Đoàn văn Qúy nhưng cả gia đình ấy đã phải gục suống và chết ở trong đám bùn lầy ấy mà không một ai hay biết, làm gì có chuyễn ầm ỹ thế? Thật là chẳng may cho cán cộng ở Tiên Lãng chút nào nhỉ. Tuy nhiên, vì là chủ trương của đảng và nhà nước, nên Nguyễn tấn Dũng không thể nào không đặt ra câu hỏi” Có là chủ trương không” để giải quyết vấn đề.
Bởi lẽ, khi Nguyễn tấn Dũng hỏi thế là buộc mọi cán cộng nhớn nhỏ, mọi cái loa phóng thanh ô uế của đảng, của nhà nước phải đồng loạt hô vang: Không phải là chủ trương của đảng, chỉ là sai nhầm của vài ba cán bộ thi hành. Phải hô hoán lên là Không để tiếp tục lừa đảo dân tộc Việt Nam, để cứu đảng và cứu chính những kẻ đi cưỡng chế tài sản của nhân dân. Làm được những chuyện mặt dày như thế, họ có xứng tầm là những tay lừa đảo của thế kỷ hay không?
Dầu có hay là không thì cái kết qủa của Tiên Lãng cũng vẫn là: Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Qúy, khó tránh khỏi cái tội có âm mưu giết người, vì đã gài mìn, nổ súng, chống lại kẻ dùng bạo lực đi cưỡng chế quyền tự do, quyền tư hữu của nhân dân do nhà nước chủ trương. Tuy nhiên, chỉ có một điều rất đáng nói đến ở trong vụ việc, có thể trở thành một mốc điểm của thời sự, của lịch sử là Đoàn văn Vươn, Đoàn văn Qúy biêt trước mọi hậu qủa của những việc họ làm. Họ đã can đảm chấp nhận cái mất cho mình, và cho gia đình mình, để bù lại, xã hội nếu không còn Đoàn văn Vươn thì vĩnh viễn vẫn còn dư âm của tiếng súng phản biện chống bạo ác để bảo về quyền sống, bảo vệ Công Lý cho con người, cho xã hội được hưởng mai hậu. Đó là một hành động can trường đáng trân trọng. Xa hơn, đó cũng chính là tiếng súng lệnh khai tử chế độ bạo tàn này. Bởi vì, vài ba con tép riu ở Tiên Lãng bị đem ra làm vật tế thần trong một cuộc chơi của tòa án, không còn khả năng lừa bịp dân ta. Và bạo lực cộng sản không còn là điều đáng sợ. Hơn thế, nó không còn khả năng cứu vãn và giữ chế độ này tiến thân an toàn vào trong vòng tay nô lệ cho lá cờ năm sao của Trung cộng.
Thật vậy, đã đến lúc tất cả mọi người dân Việt phải nắm lấy tay nhau, đồng lòng đồng sức hô vang: “Hỡi toàn thể Công Nông Thương Binh Việt Nam, hãy đoàn kết lại! Hãy trả câu giáo điều bạc ác của Xuân Diệu lại cho chính hàng ngũ cán cộng, để người Việt Nam cùng nhau đứng dậy, xây dựng lại một đất nước Việt Nam trong Độc Lập, Tự Do, Công Bằng, Dân Chủ. Cho đồng bào ta có cơ hội xây dựng lại cuộc sống Ấm No, Hạnh Phúc trong tình người Nhân Bản, Văn Hóa trên chính mảnh đất của cha ông ta để lại.