Theo tin Tòa Thánh, nhân buổi yết kiến chung tại Đại sảnh Phaolô VI, hôm thứ Tư ngày 29 tháng 11, Đức Phanxicô đã tiếp tục loạt bài giáo lý của ngài về lòng nhiệt thành truyền giáo, nhấn mạnh đến việc lời công bố dành cho ngày hôm nay. Sau đây là bài giáo lý của ngài, dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp:
Anh chị em thân mến,
Một vài lần gần đây chúng ta đã thấy việc công bố Kitô giáo là một niềm vui và nó dành cho tất cả mọi người; hôm nay chúng ta sẽ thấy khía cạnh thứ ba: nó dành cho ngày hôm nay.
Hầu như người ta luôn nghe thấy những điều tồi tệ được nói về ngày hôm nay. Chắc chắn, với chiến tranh, biến đổi khí hậu, bất công và di cư trên toàn thế giới, khủng hoảng gia đình và hy vọng, không thiếu lý do để lo lắng. Nói chung, ngày nay dường như là nơi cư ngụ của một nền văn hóa đặt cá nhân lên trên hết và kỹ thuật là trung tâm của mọi sự, với khả năng giải quyết nhiều vấn đề và những tiến bộ to lớn của nó trong rất nhiều lĩnh vực. Nhưng đồng thời, nền văn hóa tiến bộ kỹ thuật-cá nhân này dẫn đến việc khẳng định một thứ tự do không muốn đặt ra cho mình những giới hạn và thờ ơ với những người bị tụt lại phía sau. Và vì vậy, nó đặt những khát vọng to lớn của con người vào một nền luận lý học thường háu ăn của nền kinh tế, với tầm nhìn về cuộc sống loại bỏ những người không sản xuất và khó khăn trong việc nhìn xa hơn cái nội tại. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở trong nền văn minh đầu tiên trong lịch sử đang tìm cách tổ chức một xã hội loài người mà không có sự hiện diện của Thiên Chúa khắp hoàn cầu, tập trung ở những thành phố lớn vẫn là là mặt đất bất chấp những tòa nhà chọc trời cao ngất ngưởng.
Câu chuyện về thành Babel và ngọn tháp của nó hiện lên trong tâm trí (x. St 11:1-9). Nó kể lại một dự án xã hội liên quan đến việc hy sinh mọi cá tính để đạt được hiệu năng của tập thể. Nhân loại chỉ nói một ngôn ngữ - chúng ta có thể nói rằng nó có một "cách suy nghĩ đơn nhất" - như thể được bao bọc trong một loại bùa chú chung có khả năng hấp thu tính độc đáo của mỗi ngôn ngữ vào một bong bóng độc dạng. Khi đó, Chúa làm xáo trộn các ngôn ngữ, nghĩa là Người thiết lập lại những khác biệt, tạo lại các điều kiện để tính độc đáo phát triển, phục hồi tính đa dạng mà ý thức hệ muốn áp đặt cái đơn nhất. Chúa cũng đánh lạc hướng nhân loại khỏi cơn mê sảng muốn toàn năng của nó: “Chúng ta hãy tạo một danh tiếng cho chính chúng ta”, những cư dân cao quý của Babel nói như thế (c. 4), họ muốn vươn lên trời, đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa. Nhưng đây là những tham vọng nguy hiểm, tha hóa, mang tính hủy diệt, và Chúa, bằng cách làm tiêu tan những tham vọng này, đã bảo vệ nhân loại, ngăn chặn một thảm họa sắp xảy ra. Câu chuyện này thực sự xem ra mang tính thời sự: ngay cả ngày nay, sự gắn kết, thay vì tình huynh đệ và hòa bình, thường dựa trên tham vọng, chủ nghĩa dân tộc, nói như nhau và các cơ cấu kinh tế-kỹ thuật tin rằng Thiên Chúa là tầm thường và vô dụng: không hẳn vì người ta tìm kiếm nhiều kiến thức hơn, nhưng trên hết họ tìm kiếm thêm quyền lực. Đó là một cơn cám dỗ tràn ngập những thách đố lớn lao của nền văn hóa ngày nay.
Trong Niềm Vui Tin Mừng, tôi đã cố gắng mô tả những cơn cám dỗ khác (x. các số 52-75), nhưng trên hết tôi kêu gọi “một công cuộc truyền giảng Tin Mừng có khả năng soi sáng những cách thức mới này để liên hệ với Thiên Chúa, với người khác và với thế giới xung quanh chúng ta, và truyền cảm hứng cho những giá trị thiết yếu. Nó phải đến được những nơi đang hình thành những câu chuyện và mô hình mới, đưa lời Chúa Giêsu đến tận tâm hồn các thành phố của chúng ta” (số 74). Nói cách khác, Chúa Giêsu chỉ có thể được rao giảng bằng cách sống trong nền văn hóa của thời đại mình; và luôn ghi nhớ những lời của Thánh Phaolô về hiện tại: “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6:2). Do đó, ngày nay không cần phải đối chiếu với những tầm nhìn khác trong quá khứ. Cũng không đủ nếu chỉ nhắc lại những niềm tin tôn giáo đã có, dù đúng đến đâu, cũng trở nên trừu tượng theo thời gian. Một sự thật không trở nên đáng tin cậy hơn bởi vì người ta lên tiếng khi nói ra nó, mà bởi vì nó được làm chứng bằng cuộc sống của mình.
Lòng nhiệt thành tông đồ không bao giờ là sự lặp lại đơn giản một phong cách đã học được, nhưng là làm chứng rằng Tin Mừng vẫn còn sống động ở đây cho chúng ta hôm nay. Do đó, vì ý thức được điều này, chúng ta hãy nhìn thời đại và nền văn hóa của mình như một món quà. Chúng là của chúng ta, và rao giảng Tin Mừng cho chúng không có nghĩa là phán xét chúng từ xa, cũng không phải đứng trên ban công và kêu tên Chúa Giêsu, nhưng đúng hơn là đi xuống đường, đi đến những nơi người ta sống, thường xuyên lui tới những nơi người ta đau khổ, làm việc, nghiên cứu và suy tư, sống ở ngã tư nơi con người chia sẻ những gì có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Nó có nghĩa là, với tư cách là một Giáo hội, là men cho “đối thoại, gặp gỡ, hiệp nhất. Suy cho cùng, những công thức đức tin của chúng ta là kết quả của cuộc đối thoại và gặp gỡ giữa các nền văn hóa, cộng đồng và các hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta không được sợ đối thoại: trái lại, chính sự đối đầu và phê phán mới giúp chúng ta bảo vệ thần học khỏi bị biến thành ý thức hệ” (Diễn văn tại Đại hội toàn quốc lần thứ năm của Giáo hội Ý, Florence, ngày 10 tháng 11 năm 2015).
Cần phải đứng ở các ngã ba đường của ngày hôm nay. Việc rời bỏ chúng sẽ làm nghèo Tin Mừng và biến Giáo hội thành một giáo phái. Mặt khác, lui tới với chúng sẽ giúp các Kitô hữu chúng ta hiểu một cách mới mẻ những lý do cho niềm hy vọng của chúng ta, rút ra và chia sẻ từ kho tàng đức tin “điều mới và điều cũ” (Mt 13:52). Tóm lại, ngoài mong muốn hoán cải thế giới ngày nay, chúng ta cần hoán cải việc chăm sóc mục vụ để nó hiện thân tốt hơn Tin Mừng ngày nay (x. Evangelii gaudium, 25). Chúng ta hãy biến ước muốn của Chúa Giêsu thành của riêng mình: giúp những bạn đồng hành không đánh mất lòng khao khát Thiên Chúa, mở lòng họ ra với Người và tìm thấy Đấng duy nhất, vốn ban bình an và niềm vui cho nhân loại hôm nay và mãi mãi.