Núi Cây Dầu

Ngày hôm sau, chúng tôi mới chính thức hành hương các địa điểm thánh tại Giêrusalem, khởi đầu bằng Núi Cây Dầu, theo con đường Chúa Giêsu vinh hiển vào Thành Thánh để dừng chân tại Nhà Thờ Các Dân Tộc, hay Nhà Thờ Hấp Hối, là Nhà Thờ chúng tôi đã thăm qua vào đêm hôm trước.

Muốn tới Núi Cây Dầu, chúng tôi trở lại con đường hôm qua từng đưa chúng tôi từ Giêricô tới Giêrusalem. Vừa vượt qua thung lũng xanh, chúng tôi theo mũi tên rẽ mặt để chạy theo hướng vào Núi Cây Dầu. Núi hay Đồi này cao hơn Giêrusalem một chút và như đứng đó làm bức màn phân cách Thành Thánh với vùng đất sa mạc dẫn xuống Biển Chết và thực sự phân chia hai vùng khí hậu khác nhau. Thực vậy, trong lúc các ngọn đồi của Giêrusalem về đêm khá giá lạnh, thì tại Giêricô và nói chung Thung Lũng Gióc-đan, trong đó có Biển Chết, trời lại nóng bức và ngột ngạt, vì Thung Lũng Gióc-đan vốn là một khe nứt khá lạ lùng trên bề mặt trái đất khiến nó gần như nóng nực quanh năm.

Trạm dừng đầu tiên là Nhà Nguyện Thăng Thiên, nơi tương truyền Chúa đã lên trời sau khi truyền cho các môn đệ nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:47-51).

Hôn vết chân Chúa Thăng Thiên
Điều đáng lưu ý: đây là thánh điểm chung cho cả Kitô Giáo lẫn Hồi Giáo. Vì Hồi Giáo cũng tin Chúa Giêsu lên trời và thực tế thánh điểm này thuộc quyền sở hữu của Hồi Giáo (Islamic Wadf of Jerusalem). Thánh điểm này từng được tôn kính từ thời Egeria hành hương Đất Thánh năm 384. Năm 680, nhà hành hương tên Arculf mô tả ngôi nhà thờ tại đây như một toà nhà tròn có mái lộ thiên, với ba cửa vào ở hướng nam, tám ngọn đèn thắp sáng ban đêm qua một cửa sổ hướng về Giêrusalem, bên trong có một tòa nhà nhỏ chứa dấu bàn chân Chúa Kitô “in rõ ràng trên đất”… Khi Thập Tự Quân tới đây khoảng năm 1150, họ cho xây lại nhà thờ này theo hình bát giác có mái và cho xây tường ngoài bao quanh. Năm 1198, sau khi vương quốc Thập Tự Quân tan rã, Salah al-Din ban nhà thờ này cho hai kẻ theo mình. Những người này đã cho xây thêm mái vòm bằng đá và hốc tường chỉ hướng Mecca (mihrab). Và toà nhà được dùng làm đền Hồi Giáo suốt hơn 300 năm sau. Tòa nhà trở thành hoang phế vào cuối thế kỷ thứ 15, và phần phía đông của bức tường bát giác bao quanh được bít kín để tạo nên đền thờ bất cân xứng hiện nay. Năm 1620, đền hồi giáo và tháp cao (minaret) được thêm vào nhà nguyện và toàn bộ thánh điểm này hiện vẫn thuộc quyền sở hữu Hồi Giáo như đã nói.

Thành thử ngay ở cổng vào Nhà Nguyện Thăng Thiên, ta thấy về bên phải chính là đền thờ nhỏ Hồi Giáo xây năm 1620, tên là Zawiyat al-Adawiyya, có người ngồi canh cửa và hàng chữ không được vào. Qua cổng, chúng tôi đi vào một khoảng sân rộng bao quanh ngôi Nhà Nguyện để chờ đến lượt được vào hôn kính dấu tích bàn chân Chúa. Người hành hương thì đông, mà ngôi Nhà Nguyện thì khá nhỏ. Một đoàn các tu sĩ Dòng Phanxicô cũng đang phải tụ tập ở một góc sân đàng kia chờ đến lượt. Trong khi chờ đợi, cha Mai Văn Kinh cho chúng tôi suy niệm đoạn Phúc Âm Thánh Luca nói về biến cố Thăng Thiên. Rồi theo bậc xi măng, chúng tôi được dẫn thẳng vào Nhà Nguyện. Vì đây là dấu tích đầu tiên chúng tôi được thấy Chúa để lại trần gian, nên mọi người đều cảm kích đến không biết phải làm gì. Có người qùy xụp xuống, lôi trong người đủ mọi hình ảnh người thân mà mình mang theo đặt lên phiến đá có dấu bàn chân Chúa, rồi thì thầm cầu nguyện; có người mạnh dạn hơn cúi xuống hôn kính dấu chân Chúa, khiến mọi người khác làm theo. Phiến đá này ghi vết bàn chân phải của Chúa, còn phiến đá ghi vết bàn chân trái của Chúa đã được đưa vào Đền Thờ Hồi Giáo Al-Aqsa từ thời Trung Cổ. Ít ai chú ý tới hốc tường chỉ hướng Mecca nằm về phía tây Nhà Nguyện. Và cũng không ai chú ý tới chiếc hầm mộ nhỏ cạnh Nhà Nguyện, nơi được cả ba tôn giáo độc thần là Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Kitô Giáo tôn kính nhưng dựa vào ba niềm tin khác nhau. Người Do Thái Giáo tin rằng đó là nấm mộ của nữ tiên tri Huldah thuộc thế kỷ thứ 7 trước công nguyên (Các Vua quyển thứ hai 22:14-20); người Kitô Giáo thì coi là mộ của nữ thánh Pelagia thuộc thế kỷ thứ 5; trong khi người Hồi Giáo thì coi nó là mộ của nữ thánh Rabi'a al-Adawiya thuộc thế kỷ thứ 8 mà tên được dùng để gọi đền hồi giáo này.

Bỏ Nhà Nguyện Thăng Thiên, chúng tôi cuốc bộ qua Nhà Thờ Kinh Lạy Cha gần đó. Hai thánh điểm này không những gần nhau về địa điểm, mà có lúc còn
Kinh Lạy Cha
chung một căn tính nữa. Thực vậy, sử gia Giáo Hội là Eusebius (260-340) có ghi rằng Hoàng Đế Constantinô xây một nhà thờ trên một cái hang trên Núi Cây Dầu và nhà thờ này có liên hệ tới biến cố Thăng Thiên (Constantinô xây hai nhà thờ khác trên hang là Nhà Thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem và Nhà Thờ Giáng Sinh ở Bêlem). Khi việc tôn kính biến cố Thăng Thiên được rời lên trên đồi để tạo ra Nhà Nguyện Thăng Thiên, thì hang này trở thành nơi chỉ còn liên hệ tới việc Chúa Giêsu dạy về tốt xấu trong Phúc Âm Mátthêu (Mt 24:1-26:2). Chính tại đây, Egeria đã được nghe đoạn Phúc Âm này, được đọc vào Thứ Ba Tuần Thánh.

Như thế, ký ức về giáo huấn của Chúa vẫn luôn được liên kết với thánh điểm này, nhất là từ ngày ngoại thư Công Vụ Thánh Gioan thuộc thế kỷ thứ 3 (chương 97) nhắc tới một chiếc hang trên Núi Cây Dầu có liên hệ với việc giáo huấn ấy. Còn về việc thay đổi từ giáo huấn tốt xấu qua giáo huấn Kinh Lạy Cha thì có người cho là do sự phối hợp tài tình giữa đoạn Luca 10:38-11:4 với đoạn Máccô 11:12-25. Ta biết: đoạn Luca này có nhắc tới hai chị em Mácta và Maria tại một làng kia (hai bà vốn quê ở Bêtania, gần Núi Cây Dầu) lo tiếp đãi Chúa Giêsu; Maria lắng nghe lời Chúa, được Người cho là đã chọn phần tốt hơn. Liền sau câu truyện đó, Luca nói rằng sau khi “Chúa Giêsu cầu nguyện ở nơi kia”, các môn đệ xin Người dạy cho cách cầu nguyện, và Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha. “Nơi kia” với “làng kia” có thể là một. Còn đoạn Máccô thì nhắc đích danh làng Bêtania và cho biết khi rời làng này, Chúa thấy đói, tìm cây vả, thì vả không có trái, bị Người nguyền rủa. Hôm sau, nhân đi qua đó, thấy cây vả đã ra khô héo, Chúa dùng biến cố ấy mà dạy các môn đệ về niềm tin và nối kết niềm tin với lời cầu nguyện. Điều lý thú là ngay sau đó, Người nói đến việc tha thứ cho anh em như điều kiện cần thiết của tác phong cầu nguyện, một chủ đề của Kinh Lạy Cha, một Kinh vốn không được Phúc âm Máccô đích danh thuật lại.

Dù sao, khi các Thập Tự Quân tới Giêrusalem, thì thánh điểm này chỉ còn liên hệ tới Kinh Lạy Cha mà thôi. Và kể từ đó, thánh điểm này được gọi là Nhà Thờ Kinh Lạy Cha. Tại các bờ tường ở tiền đình cũng như ở hành lang chung quanh và cả ở trong Nhà Thờ nữa, người ta cho gắn những tấm bảng lớn bằng gạch men in Kinh Lạy Cha bằng đủ mọi ngôn ngữ mà có người cho tổng số là 62. Chúng tôi biết có bảng bằng tiếng Việt, nhưng tìm mãi không thấy. Khi thấy được thì hết sức hân hoan, bởi cha ông chúng ta khá nhanh chân đã đặt bảng này bên trong Nhà Thờ, trên bờ tường phía tay phải. Chúng tôi bèn cùng nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn để hát lên lời kinh bất hủ này bằng tiếng mẹ đẻ giữa những người muôn dân nước. Chỉ tiếc chị ca trưởng “bắt” một điệu ca lạ hoắc đối với dân Úc gốc Việt, nên đành chỉ biết “ê, a” theo. Và lời kinh bằng tiếng Việt có khác với lời kinh chúng tôi hát hôm nay, vì nó là bản kinh thuộc thế hệ Công Đồng Đông Dương, những năm thuộc thập kỷ 1930, với những tiếng “chúng tôi”, “vâng ý cha dưới đất bằng trên trời vậy”, “dùng đủ”, “lại chớ để” và “bèn chữa”. Điều ấy cũng dễ hiểu vì theo lời cha tuyên úy Mai Văn Kính, nhóm sinh viên thần học Việt Nam tại Trường Truyền Giáo ở Rôma đã cho đặt tấm bảng đó từ những năm cuối thập kỷ vừa nói. Xin ngả mũ kính chào các bậc cha ông này mà nay chắc chắn không còn ai trên dương thế.

Vừa ra khỏi Nhà Thờ Kinh Lạy Cha, chúng tôi choáng ngợp trước khung cảnh toàn diện của Giêrusalem, nhìn từ con đường tương truyền là Chúa Giêsu đã qua đó mà vinh hiển vào Thành Thánh ngày Lễ Lá. Bắt đầu là tường Cổ Thành và cứ thế đi lên đỉnh đồi là các đền đài và di tích thánh cũng như nhà cửa và cơ sở tân lập. Hiếm có địa điểm nào có thể thấy toàn bộ Giêrusalem bằng địa điểm này.

Dựa vào cả bốn phúc âm, ta có đủ cơ sở để tin đây chính là con đường Chúa đã đi qua để vào Giêrusalem như Đấng Mêxia mà người Do Thái, nhân danh nhân loại, hằng mong đợi. Khi thuật lại biến cố này, ngoại trừ Phúc Âm Gioan, cả ba Phúc Âm Nhất Lãm đồng loạt nêu đích danh nơi xuất phát là gần làng Bếtphaghê và Bêtania “bên triền Núi Cây Dầu” (Mt 21:1-11; Mc 11:1-11; Lc 19:28-38). Tuy không nêu đích danh nơi xuất phát, nhưng Phúc Âm Gioan trước đó cho hay Chúa Giêsu ngụ tại làng Bêtania, nơi nhà ba chị em Mácta, Maria và Ladarô. “Hôm sau”, Người vào Giêrusalem để được dân chúng đón rước long trọng như Đấng Mêxia (Ga 12:12-16).

Vì là triền Núi Cây Dầu, nên đường đi khá dốc, chúng tôi phải đi thật chậm để khỏi bị té, không dám khinh suất. Muốn nhìn toàn cảnh Giêrusalem, phải dừng hẳn lại. Một quãng thì tới Nhà Thờ Chúa Khóc nằm về phía tay phải, tiếng Latinh là Dominus Flevit. Tương truyền, đây là nơi Chúa khóc thương Giêrusalem. Điều này hẳn đúng, vì Phúc Âm Thánh Luca nói rằng: trên đường vinh quang vào Thành, “khi Người đến gần chỗ dốc xuống Núi Cây Dầu… và trông thấy thành, Chúa Giêsu khóc thương mà nói: ‘[…] Sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào…’” (Lc 19:37-44).

Nhà thờ Chúa Khóc
Có tới đây mới thấy người của thế kỷ thứ 7 thật có lý khi “nhận ra” địa điểm này để xây dựng một nhà thờ tưởng niệm biến cố trên. Chỗ này tự nhiên đất bằng phẳng hẳn ra một khoảng thật rộng đủ cho các công trình xây cất và nhiều vườn cây râm mát. Sau đó, đường gần như giốc hẳn xuống cho tới lúc gặp Nhà Thờ Hấp Hối. Đúng như Thánh Luca mô tả “gần chỗ dốc xuống Núi Cây Dầu”. Nhà thờ hiện nay được các Cha Dòng Phanxicô ủy nhiệm cho kiến trúc sư đạo hạnh Antonio Barluzzi xây dựng vào năm 1954. Từ ngoài Đường Chúa Vào Thành, Nhà Thờ lẩn khuất sau nhiều hàng cây rậm rạp, nhưng càng tới gần càng thấy dáng dấp nước mắt rơi của nó. Barluzzi dùng dáng dấp ấy để nhắc nhở người muôn thế hệ về sau nhớ tới những dòng lệ của Chúa đối với một thành phố Người hết lòng yêu qúy nhưng luôn luôn lẩn tránh tình yêu của Người. Chắc chắn qua Giêrusalem, Người cũng muốn gửi những dòng lệ ấy cho chúng tôi, những người ở cách Giêrusalem ấy muôn vàn cả về không gian lẫn thời gian, nhưng về tác phong, quả là con cháu của nó. Điều lý thú, là đứng trong Nhà Thờ Chúa Khóc, nhìn qua cửa sổ Bàn Thờ, ta có thể thấy Núi Đền Thờ (Temple Mount) rõ mồn một. Xưa kia nó là địa điểm của cả Đền Thờ do Salômôn xây lẫn Đền Thờ do Hêrốt Đại Vương xây sau này, hai Đền Thờ áp dụng đầy đủ nhất câu “sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào” của Chúa Giêsu.

Chúng tôi từ giã Nhà Thờ Chúa Khóc và hiểu tại sao ở chỗ này, dân lại có nhiều cành lá để trải đường cho Chúa vào thành, vì đường dẫn vào Nhà Thờ được phủ mát bằng rất nhiều cây xanh vươn cao cành lá, dù phía tay phải vốn là thung lũng Giosaphát, có lẽ là nghĩa địa vĩ đại duy nhất của cả Giêrusalem, vĩ đại từ những ngày xa xưa, khiến cả người Do Thái Giáo và Hồi Giáo đều tin đây là địa điểm diễn ra Cuộc Phán Xét Chung vào ngày thế mạt.

Trên triền dốc dẫn tới Vườn Diệtsimani, chúng tôi có dừng lại tại một hốc tường dựng ở dọc đường, về phía tay phải, để tôn kính một cột đá tròn trĩnh tuy không nhẵn nhụi, tương truyền là cột đá Chúa Giêsu đã đụng tới trên đường vào Giêrusalem. Tuy chưa được ai giới thiệu trước, nhưng nghe là cột đá được Chúa Giêsu đụng tới, không ai trong chúng tôi lại bỏ qua không bước tới đụng vào và chụp hình. Lòng tôn kính này bị xúc phạm nặng nề khi một thanh niên da đen dùng một khúc gậy tre đụng vào nó, còn khúc gậy tre thứ hai được anh ta lấy đập vào khúc gậy kia trong khi xoay tròn khúc gậy này. Không chịu đựng nổi, một thành viên trong đoàn chúng tôi lên tiếng phản đối. Anh ta thách thức trả lời: tôi biết điều tôi làm, các anh không biết gì về Giêsu! Có người cho anh ta “mát”, nhưng cũng không thiếu người giật mình, nhận ra có lẽ anh ta đúng, chúng tôi có biết gì về Chúa Giêsu thật không?

Dù sao, chỉ một lát sau, chúng tôi đã bước vào Vườn Diệtsimani và Nhà Thờ Hấp Hối, nơi theo tương truyền, Chúa đã cùng các môn đệ lui tới sau Buổi Tiệc Ly
Vườn Diệtsimani
và chính tại đây, cơn hấp hối khủng khiếp đã xẩy tới với Chúa Giêsu, cơn hấp hối đã khiến “mồ hôi Người như những giọt máu lớn rơi xuống đất” (Lc 22:43-44). Thực ra, Phúc Âm Luca không nêu đích danh Diệtsimani là nơi xẩy ra sự kiện trên, mà chỉ nói Chúa Giêsu cùng các môn đệ “đi ra Núi Cây Dầu” (câu 39). Phúc Âm Gioan cũng không nêu đích danh Diệtsimani, mà chỉ nói: Chúa Giêsu cùng các môn đệ qua “bên kia Suối Kítrôn… để vào một thửa vườn” (câu 1-2). Tuy nhiên, cả Phúc Âm Mátthêu lẫn Phúc Âm Máccô đều nêu đích danh Diệtsimani là nơi diễn ra cơn hấp hối hết sức thống khổ của Chúa, dù hai vị không gọi nơi ấy là một thửa vườn như Phúc Âm Gioan mà chỉ là một thửa đất (Mt 26:36; Mc 14:32).

Căn cứ vào đó, các học giả nhất trí rằng Diệtsimani nằm ở dưới chân Núi Cây Dầu, như Eusebius thành Xêdaria đã khẳng định trong cuốn Onomasticon của ông, nhưng địa điểm chính xác thì không ai rõ. Điều rõ ràng, nó là nơi Chúa Giêsu và các môn đệ năng lui tới, đến độ Giuđa Ítcariốt biết nó rất rõ để dẫn quân lính tới bắt Người dễ dàng. Và nó mau chóng trở thành địa điểm hành hương của các Kitô hữu tiên khởi. Năm 333, một khách hành hương từ Bordeaux từng viếng địa điểm này và cho hay “về bên trái, có tảng đá trên đó Giuđa phản bội Chúa Giêsu”. Eusebius cho rằng: các tín hữu có thói quen tới đây cầu nguyện.

Vườn Diệtsimani có hình tứ giác mỗi chiều chừng 60 mét. Tại đây có bẩy cây ôliu mà cây lớn nhất có chu vi tới khoảng 8 mét. Nếu chúng không hiện diện lúc Chúa Giêsu ở đó, thì ít nhất chúng cũng là hậu duệ của những cây ôliu từng được chứng kiến Người hấp hối. Ít nhất chúng cũng đã có ở đó chừng 9 trăm năm nay. Có người còn quả quyết chúng đã có ở đó từ thế kỷ thứ 7. Điều này càng thấy rõ nếu so sánh chu vi hiện nay của chúng với chu vi của cây ôliu được Đức Phaolô VI trồng vào năm 1964 là cây chỉ có chu vi chừng 0.30 mét là cùng, dù đã 45 tuổi. Về phía đông của Vườn có một khối đá mà tương truyền vẫn cho là nơi các tông đồ “ngủ khò” chờ Chúa Giêsu đi cầu nguyện trở về. Về hướng nam “chừng ném một hòn đá”, còn lại gốc một chiếc cột dính vào tường. Nền Nhà Thờ Hấp Hối ngày xưa đã được tìm thấy phía sau bức tường này vào đầu thế kỷ 20.

Thực thế, Thánh Giêrôm, khi dịch tác phẩm Onomasticon của Eusebius, có thêm rằng “một nhà thờ hiện đang được xây dựng tại đó”. Thánh Sylvia thành Aquitania (385-388) kể rằng vào Thứ Năm Tuần Thánh, có cuộc rước kiệu từ Núi Cây Dầu đi xuống và đã dừng lại tại “một nhà thờ đẹp đẽ” xây tại địa điểm Chúa Giêsu kinh qua cơn hấp hối. Nhà thờ này đã bị người Ba Tư hủy diệt vào năm 614; sau đó được Thập Tự Quân tái thiết và sau cùng bị san bình địa vào năm 1219. Theo Bách Khoa Từ Điền Công Giáo ấn bản 1914, Arculf (khoảng năm 670), Thánh Williambald (723), Đanien Người Nga (1106) và Gioan thành Wurzburg (1165) cũng có nhắc tới Nhà Thờ Hấp Hối này và căn cứ vào lời của họ, đầu thế kỷ 20, người ta đã khám phá ra nền của ngôi nhà thờ ấy, không xa Vườn Diệtsimani hiện nay bao nhiêu, như đã nói ở trên.

Bên trong Nhà Thờ Hấp Hối
Nhà thờ hiện nay chính thức vẫn được gọi là Nhà Thờ Hấp Hối. Tuy nhiên, tên thường dùng lại là Nhà Thờ Các Dân Tộc. Là bởi nó được xây dựng nhờ sự đóng góp của 12 nước khác nhau: đó là Á Căn Đình, Ba Tây, Chí Lợi, Mễ Tây Cơ, Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Bỉ, Gia Nã Đại, Đức, và Mỹ. Ngoài ra, các tranh ghép ở các hậu cung (apses) Nhà Thờ là do các nước Ái Nhĩ Lan, Hung Gia Lợi, và Ba Lan dâng tặng. Nước Úc cũng có phần đóng góp đó là mão gai đặt trên phiến đá tương truyền là nơi Chúa qùy cầu nguyện cùng Chúa Cha với lời cầu xin hết sức nhân bản: xin cất chén đắng này, nhưng theo ý Cha, đừng theo ý Con!

Nhà Thờ được xây dựng trong các năm từ 1919 tới 1924. Sở dĩ lâu như thế, vì năm 1920, khi đang làm nền, người ta khám phá ra một chiếc cột khoảng 2 thước bên dưới nền nhà thờ của Thập Tự Quân. Ngoài ra, người ta cũng tìm được nhiều mảnh tranh ghép của nhà thờ ấy. Chính vì thế, kiến trúc sư Antonio Barluzzi đã cho di chuyển nền nhà thờ mới và bắt đầu khai quật nhà thờ cũ. Sau khi đã nhận diện đầy đủ nền nhà thờ cũ, họa đồ nhà thờ mới được vẽ lại và công trình xây dựng nó được tái tục từ tháng Tư năm 1922 tới tháng Sáu năm 1924 thì hoàn thành và cung hiến.

Nhà thờ có sáu cột chia thành ba gian. Kiếng mầu tím được sử dụng cùng khắp để nói lên bầu khí ảm đạm của cuộc hấp hối và trần Nhà Thờ được sơn xanh
Nhà Thờ Hấp Hối
thẫm giống mầu trời về đêm. Mặt tiền Nhà Thờ được chống bằng một hàng cột kiểu Côrintô bên dưới một bức tranh ghép tân thời vẽ Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Mái Nhà Thờ hình mái vòm, với những chiếc cột lớn, và tranh ghép mặt tiền khiến Nhà Thờ có dáng dấp Byzantine. Các tu sĩ Dòng Phanxicô giữ quyền sở hữu Nhà Thờ này. Tuy nhiên, một bàn thờ lộ thiên đặt trong vườn Nhà Thờ đã được nhiều giáo hội Kitô Giáo khác sử dụng, trong đó có Chính Thống Giáo Hy Lạp, Thệ Phản, Giáo Hội Luthêrô, Giáo Hội Tin Lành và Anh Giáo.

Bước vào trong Nhà Thờ là cả một bầu khí tôn nghiêm. Người nào cũng lộ đầy nét tôn kính. Nhìn lên tường phía sau bàn thờ, người ta thấy bức bích họa lớn vẽ cảnh Chúa ngồi một mình trên một khối đá cầu nguyện, trong khi ở một góc, các môn đệ đang ngủ như chết, khiến cảnh cô đơn của Chúa lên đến cực điểm. Bàn thờ là một bàn thánh bình thường có phủ khăn, trước bàn thờ ấy chính là khối đá phẳng trên đó Chúa từng hấp hối với mồ hôi hòa với máu chẩy xuống đất. Chúng tôi muốn được vào hôn phiến đá ấy, nhưng không ai cho phép. Lúc chúng tôi ở đó, thì các tu sĩ phục vụ Nhà Thờ đang chuẩn bị cho một Thánh Lễ dành cho các tu sĩ Dòng Phanxicô, những người chúng tôi từng gặp tại Nhà Nguyện Thăng Thiên. Điều ấy khiến chúng tôi hơi buồn, vì lúc ở trên xe buýt, người hướng dẫn từng “báo tin vui”: hôm nay, chúng ta sẽ được cử hành thánh lễ tại Vườn Diệtsimani! Hóa ra không phải tại Nhà Thờ Hấp Hối mà là tại Hang Diệtsimani ở bên cạnh.

Từ Hang Diệtsimani đi ra, chúng tôi vào viếng Nhà Thờ Đức Mẹ Qua Đời, nằm chung một địa điểm với Hang Diệtsimani. Theo truyền thống Chính Thống Phương Đông, Diệtsimani cũng là thửa vườn nơi Đức Mẹ qua đời trước khi Ngài được triệu về trời từ Núi Sion. Theodisius (khoảng năm 530) cho hay tại hang này “[trong thung lũng Giosaphát] cũng có vương cung thánh đường Rất Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa, với mộ của Ngài”. Lòng nhà thờ nằm sâu dưới mặt đất, khiến nhà thờ càng có bầu khí âm u với thật nhiều bình hương treo lủng lẳng khắp ngả. Rẽ tay phải, chúng tôi được dẫn tới hình Đức Mẹ bồng con được nhiều người tôn kính với nến đèn luôn cháy sáng. May mắn thay cho ai được mắt của Đức Mẹ nhấp nháy nhìn. Anh bạn cùng đoàn với chúng tôi hết sức hân hoan khoe rằng chính anh được diễm phúc ấy và anh đã ghi được bức hình bất hủ lúc mắt Đức Mẹ nhấp nháy với anh. Rất tiếc sau đó, chúng tôi quên khuấy không xin anh cho xem bức hình.