Giêrusalem về đêm

Cử hành thánh lễ tại Nhà Thờ Chúa Chiên Lành xong, chúng tôi từ giã Giêricô, lên đường đi Giêrusalem. Đây mới đúng là lên Đền. Giêricô nằm ở một thế đất dưới mặt biển 260 mét, trong khi Giêrusalem nằm trên một thế đất cao hơn mặt biển tới gần 600 mét. Độ cao như thế cách nhau gần một kilô mét, trong khi đường dài cách nhau chỉ khoảng 27 kilô mét. Không lạ gì, khi bình luận đoạn phúc âm Thánh Luca (10: 29-37) nói về người Samaritanô nhân hậu, đến chỗ “tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy”, vị tuyên úy của cộng đoàn tôi cho rằng: không hẳn là đi xuống mà là lao xuống, lao xuống như bay, nếu đi xe (mà các vị tư tế thì đi xe là cái chắc, đâu có đi lừa như anh chàng quê mùa xứ Samaria!) vì từ Giêrusalem mà xuống Giêricô, đường rất giốc. Chắc vị tuyên úy của tôi muốn giảm khinh cho thầy tư tế này chăng, vì lao xuống như bay thì làm sao thắng kịp, thôi tránh qua bên kia mà đi cho rồi!

Chúng tôi đi theo chiều ngược với thầy tư tế, nhưng cho dù xe chở chúng tôi không phóng như bay, có gặp người mắc nạn dọc đường, chúng tôi cũng bắt chước thầy mà thẳng đường, chứ không cần “tránh qua bên kia” mà tới Giêrusalem. Thầy tư tế nghĩ bổn phận của thầy chỉ là việc phụng sự ở Đền Thờ. Hết việc phụng sự ấy là hết bổn phận. Chúng tôi phải lên Đền, chú mục của chúng tôi lúc này là lên Đền, mong sao cho chóng tới lúc được thấy Đền.

May mắn, đường không xa lắm, chỉ một loáng, đã thấy bảng chỉ đường mang tên Giêrusalem, một tên mà từ tấm bé, chúng tôi từng được nghe nhắc tới, lúc thì đủ âm đủ vần như trên, lúc thì đọc tắt Gia Liêm nghe cho có vẻ địa danh Việt Nam. Thực thế, không thành phố nào được người khắp thế giới biết tới ngay từ hồi tấm bé bằng Giêrusalem. Nó được Thánh Kinh nhắc tới 632 lần, trong đó, Tân Ước nhắc tới 145 lần, với đủ âm sắc của thất tình: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố,dục. Lần đầu tiên, nó được nhắc tới dưới tên tắt Salem là trong trình thuật Menkixêđê, vị quân vương kiêm tư tế, chúc phúc cho tổ phụ Ápraham (St 14: 18-20). Dưới tên đầy đủ, nó được nhắc tới lần đầu trong sách Giôsuê 10:1 khi nhắc tới Ađôni Xeđéc, vua Giêrusalem, được tin Giôsuê chiếm thành Ai… Lần chót, nó được nhắc tới là trong Khải Huyền 21:10 “Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống”. Cả ba hình ảnh khởi đầu và kết thúc ấy về Giêrusalem đều là điềm rất tốt cho chuyến hành hương đầy mong đợi của chúng tôi. Có điều tự thân nó, Giêrusalem là một thành phố có thân phận thật long đong. Theo từ nguyên, nó vốn có nghĩa là hòa bình, hoà hợp, toàn bộ. Mà thực tế, nó là hiện thân của chiến tranh, của mâu thuẫn, tranh chấp, chia rẽ dọc dài từ ngày hiện hữu. Nó từng bị hủy diệt hai lần, bị bao vây 23 lần, bị tấn công 52 lần và bị chiếm đóng và chiếm lại 44 lần.

Có lúc, như dưới triều Hoàng Đế Hadrian của La Mã (thế kỷ thứ hai công nguyên), nó đã bị đổi tên thành Aelia Capitolina mà dân Israel bị ngăn cấm không được lai vãng, tới tận thế kỷ thứ 7. Và ngày nay, dù nằm trọn dưới quyền kiểm soát của Nhà Nước Israel, nó vẫn là miếng mồi tranh chấp chưa biết sẽ ngả ngũ ra sao, giữa hai thẩm quyền Israel và Palestine.

Giêrusalem nhìn từ Đường Chúa Vinh Hiển Vào Thành
Rồi những ngọn đồi với những toà nhà bám vào sườn đầy cây dần dần xuất hiện, tạo nên một cảm giác nhẹ nhõm cho đôi mắt sau khi cứ phải nhìn mãi một mầu đất sa mạc độc điệu. Nhìn qua tay phải, khách hành hương đã thấy thung lũng toàn một mầu xanh phân chia Núi Cây Dầu với Thành Thánh đúng nghĩa. Nhìn lên, đã thấy tường thành cũ và mái vòm vàng ươm lóng lánh dưới ánh mặt trời của Đá Tảng (Dome of The Rock). Khí hậu mát mẻ của Giêrusalem thật tương phản với Giêricô. Chúng tôi vội vàng làm thủ tục nhận phòng tại khách sạn The Olive Tree trên đường St George, tắm rửa, ăn cơm chiều xong, là vội đi thăm Giêrusalem về đêm.

Giêrusalem là thành phố quốc tế, nên sinh hoạt về đêm của nó hết sức đa dạng, nhiều mặt. Nhưng mặt quan trọng nhất của nó vẫn là tôn giáo và là mặt được cha tuyên úy Mai Văn Kính quan tâm và được đại đa số chúng tôi biểu đồng tình. Dù sao, sau khi chiếm được Giêrusalem của người Giơvút, việc đầu tiên Vua Đavít làm là rước Hòm Bia Thiên Chúa về đó. Và kể từ ngày đó, Giêrusalem trở thành Thành Thánh của Thiên Chúa. Dù ngày nay, người theo chủ thuyết Sion (Zionism) có bất cần sự kiện và ý nghĩa lịch sử ấy, và chỉ dựa vào lực lượng và thực tế chính trị để giải quyết các vấn đề của Giêrusalem nói riêng và của cả Israel nói chung ra sao thì ra, nhưng giải pháp có thực phải bao gồm mặt tôn giáo này. Do đó, trạm đầu tiên trong cuộc tham quan Giêrusalem về đêm của chúng tôi là nhà thờ chính tòa St George của Giáo Hội Anh Giáo, toạ lạc tại đường Nablus, khá gần với khách sạn nơi chúng tôi cư ngụ. Trái với dự đoán, nhà thờ này đã được xây dựng theo lối tân Gô-tích vào cuối thế kỷ 19 và là tòa của Giám Mục Giêrusalem thuộc Giáo Hội Anh Giáo miền Giêrusalem và Trung Đông. Nhà thờ khá lớn, đứng từ khách sạn The Olive Tree, đó là nhà thờ dễ nhìn thấy nhất. Không biết số giáo dân Anh Giáo tới đây tham dự các buổi phụng vụ có đông không, nhưng người quản thủ là một người Palestine theo Công Giáo La Mã. Anh ta khá ngạc nhiên khi nghe tại Việt Nam, số người Công Giáo lên đến hơn 7 triệu. Bỏ nhà thờ St George, chúng tôi tiếp tục hướng về phía Cổ Thành, băng qua nhiều nhà trọ nổi tiếng như YMCA. Điều ngạc nhiên là Tòa Tổng Lãnh Sự của Mỹ cũng nằm tại khu vực này mà không cần kín cổng cao tường cũng như lực lượng an ninh cùng khắp như Sài Gòn thuở nào. Vấn đề an ninh trên đất Israel không như báo chí và truyền thông quốc tế tô vẽ.

Rồi tường thành Giêrusalem sừng sững xuất hiện dưới màn trời đêm, lúc chúng tôi băng qua một số sạp hàng bán lẻ của người Palestine. Mùi thịt nướng thơm
Tường Thành Giêrusalem nhìn từ Nhà Thờ Hấp HỐi
phức khiến nhớ tới Sài Gòn và những quán ăn cùng khắp. Cổng Đamát đen ngòm nằm dưới kia, người qua lại khá đông. Chúng tôi tiếp tục đi trên vỉa hè đường Sultan Sulaiman để tới cổng Hêrốt đang sửa chữa. Băng qua đường, chúng tôi đi dọc theo thung lũng Kít-rôn chìm lỉm trong một mầu đen thăm thẳm, nơi Chúa Giêsu và các môn đệ thường băng qua để tới Vườn Diệtsimani. Băng qua cây cầu trên đường Lion, chúng tôi tới nhà thờ Các Dân Tộc mà tên chính thức gọi là Nhà Thờ Hấp Hối. Lúc ấy nhà thờ đã đóng cổng và cửa, nên chúng tôi chỉ biết đứng ngoài chụp hình và cố mở to hai mắt để đọc những hàng chữ viết bên dưới một bức bích họa vẽ cảnh Chúa hấp hối một mình: “sustinete hic et vigilate mecum” (anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy, Mt 26:38). Trời Giêrusalem về đêm khá lạnh, nhưng chúng tôi vẫn nán lại trước Nhà Thờ Hấp Hối một lúc.

Quay lưng lại nhà thờ, chúng tôi thấy thấp thoáng những ngôi mộ của Nghĩa Trang Hồi Giáo và bức tường Cổ Thành. Mái Vòm của Đền Thờ Đá Tảng chìm hẳn vào bóng đêm. Xe cộ không nhiều, thỉnh thoảng dăm, ba chiếc chạy vượt qua. Chúng tôi theo đường Lion, tiến qua Cổng Sư Tử, vào hẳn trong Cổ Thành. Đi bộ ngoài đường phố, chỉ có đoàn chúng tôi giữa trời đêm xe lạnh của Giêrusalem. Nhưng bên trong Cổ Thành, nhất là từ chỗ bắt đầu Đường Thánh Giá, người Palestine vẫn sinh hoạt tấp nập. Cũng một con đường, ở ngoài tường thành là Lion, mà bên trong mang tên Mujahidin, nơi có nhà Đức Mẹ Sinh Ra và nhà thờ Thánh Anna, thân mẫu của Ngài. Nối dài chính là nơi bắt đầu Đường Thánh Giá (Via Dolorosa) với nhà thờ Đánh Đòn. Đường khá hẹp, lát đá gồ ghề, hai bên là những tòa nhà và ngôi nhà liền nhau với tường gần như được xây bằng cùng một loại đá giống nhau. Bộ hành và xe cộ đủ loại cùng chia sẻ một mặt đường nhỏ hẹp ấy.

Cuộc tham quan đêm nay mang tính thăm dò, nên chúng tôi chỉ đi một phần của Đường Thánh Giá, để sau đó, rẽ vào đường Al-Wad, nơi có nhiều cửa hàng sầm uất, bán đủ mọi mặt hàng, nhưng phần lớn vẫn là đồ kỷ niệm. Người đi lại ở chỗ này đông hơn ở khúc Đường Thánh Giá và cũng chính tại đây, chúng tôi được thấy sự hiện diện của 2 binh sĩ Do Thái với súng ống và trang bị đầy đủ. Họ từ chối không đứng chụp hình chung với chúng tôi, nhưng chỉ hai nhân viên bán quân sự đang từ phía Đường Thánh Giá bước tới và cho hay: chúng tôi có thể chụp hình chung với hai người đó. Hai nhân viên bán quân sự này chỉ đeo sơ sài một dùi cui bên hông, đầu không đội nón, và trang phục rất gọn nhẹ. Cũng tại đây, chúng tôi được chứng kiến phong cách một người “tôn giáo” Do Thái với phẩm phục toàn đen, kể cả nón rộng vành, đi thật nhanh để băng qua Al-Wad giữa rừng người mà chúng tôi đoán không thuộc cùng chủng tộc với ông ta, hay ít nhất, cũng không “thánh” như giòng giống ông ta. Ông ta cố gắng hết sức để không đụng vào ai và dùng chiếc nón rộng vành của mình che một bên mặt, không biết để người ở một bên Al-Wad không nhìn thấy ông ta, hay để ông ta khỏi phải nhìn họ. Hình ảnh này khiến chúng tôi nghĩ tới người Biệt Phái và học lý khắc nghiệt của họ về sự thánh, nơi thánh và người thánh. Không ngờ mấy ngàn năm, học lý khắc nghiệt ấy vẫn còn sống nguyên vẹn.

Đường Al-Wad dẫn thẳng ra Cổng Đamát, từ đó, chúng tôi băng qua Đường Sultan Sulaiman và rẽ vào Đường Nablus để về lại khách sạn.Cuộc đi bộ về đêm không giúp học hỏi bao nhiêu, chỉ là khúc dạo đầu cho những ngày sắp tới. Nhìn lại tường thành sừng sững, tôi nhớ lời nhận xét của Morton về các bức tường nói chung của cổ thành Giêrusalem. Ông bảo: có những bức tường như bức tường ở Andalusia, miền Nam Tây Ban Nha, dựng lên làm rào cản đối với những đôi tình nhân. Lại có những bức tường như bức tường ở Tuscany, được dựng lên để ngừa những tên sát nhân. Và cũng có những bức tường như bức tường của Hampton Court Palace, Anh Quốc, được dựng lên để kẻ thường dân không thấy những vui chơi phè phỡn của giai cấp qúy tộc. Nhưng các bức tường của Cổ Thành Giêrusalem quả chẳng giống bức tường nào ông từng gặp. Chúng có dáng dấp lấm lét (furtiveness) nào đó phát sinh từ tâm trạng sợ sệt và bất an. Chúng khá cao, rêu phong và đắm chìm trong thời gian. Các cửa của chúng như được xây cho kẻ lùn… Hàng thế kỷ nghi ngờ và bách hại… đã đúc nên một nét khiếp sợ của gái đồng trinh (a virginal terror) lên các tường thành Giêrusalem, gần như thể mỗi người gõ chuông, mỗi người gõ cổng đều là một tên khiếp dâm bàn thờ. Mọi vẻ đẹp đều được dấu kín phía sau những bức tường ấy. Thực thế, tường nào xem ra cũng xấu xí một cách cố tình, dường như để đánh lừa kẻ cướp và nhìn vào chúng, người ta nhớ tới các nữ tu thánh thiện ngày nào từng xẻ mặt xẻ mũi để bảo toàn đức hạnh khi quân cướp mọi rợ tấn công thành lũy cuối cùng của Đế Quốc Rôma…

Dù sao, đi ngang qua Cổ Thành, Morton thấy có cái gì tù túng. Những lối đi lù mù, những bức tường cao và trơ trụi, và những toà nhà hỗn tạp dựng lên để vinh danh Thiên Chúa, được bó gọn chặt chẽ với nhau bằng một tường thành thật cao. Bước tường thành, vốn là áo giáp và thuẫn đỡ cho thành phố trong những lúc nguy biến, vẫn tiếp tục gây nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ trên tâm trí người ta và bạn nhận ra điều này từng giây từng phút trong ngày. Ở bên trong bức tường, bạn thấy rõ vòng ôm trọn vẹn của nó, và nếu ở bên ngoài bức tường ấy, bạn sẽ thấy nó dùng đôi tay đá mầu nâu ôm trọn lấy thành phố như thể không cho nó thấy thế giới hiện đại.

Bảng chỉ dẫn bằng ba thứ tiếng
Các nhận xét vào đầu thế kỷ 20 ấy phần nào đã lỗi thời. Sau nhiều đợt cải tiến, mầu sắc của Giêrusalem ngày nay đã ra khác nhiều. Tuy nhiên, mầu sắc dù có thay đổi, kích thước và lối sắp xếp của Cổ Thành Giêrualem hầu như vẫn nguyên vẹn và vì thế, nhiều cảm nhận của Morton hình như vẫn còn giá trị. Bảo tồn dáng dấp xưa, nhất là đối với một thành phố có chiều dầy hơn 5,000 năm như Giêrusalem, vẫn phải là một ưu tiên. Hơn nữa, lịch sử nhiều khi chỉ là một lặp lại những gì từng xẩy ra nhiều năm trước đó. Nhìn tấm bảng trên đường Nablus chỉ lối vào Vườn Mộ (Garden’s Tomb), người ta đọc được ba thứ tiếng khác nhau: tiếng Do Thái, tiếng Ả Rập và tiếng Anh. Mọi tấm bảng chỉ dẫn trong thành phố Giêrusalem, và theo nguyên tắc, trên lãnh thổ Do Thái, đều theo cùng một nguyên tắc ba thứ tiếng ấy, theo thứ tự trên hay theo thứ tự ngược lại. Tuy nhiên, không ở đâu nguyên tắc này được tuân giữ bằng ở Giêrusalem. Nguyên tắc này có từ thời nước Anh được Hội Quốc Liên ủy quyền cai trị vùng đất gọi là Palestine sau Thế Chiến I (tháng Sáu năm 1922), nghĩa là sau khi Tướng Edmund Allenby của Anh bước qua Cổng Jaffa ngày 11 tháng Mười Hai năm 1917, chiếm lại Cổ Thành Giêrusalem khỏi tay Đế Quốc Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông vốn được coi là nhà chinh phục Kitô Giáo đầu tiên, sau Thập Tự Quân, tiến vào Thành Thánh. Theo điều 23 của bản Ủy Quyền Palestine trên đây, “Tiếng Anh, tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái phải là ba ngôn ngữ chính thức của Palestine”. Điều ấy chỉ là một lặp lại chính sách của Cổ La Mã, lúc họ cai trị Palestine thời Chúa Giêsu. Thực thế, Tổng Trấn Philatô từng dùng ba thứ tiếng La Tinh, Hy Lạp và Do Thái viết lên tấm bảng đóng vào thập giá của Người: Giêsu Nadarét, Vua Dân Do Thái.