Cầu nguyện theo lối chiêm niệm(tiếp theo và hết)
8. Một số đặc điểm và ích lợi của chiêm niệm
(1) Chiêm niệm là thư dãn trước Mặt Chúa
Lối cầu nguyện này nhằm tìnm kiếm bình an, yên tĩnh và thanh thản. Ta đi tìm Chúa của Ngày Sabát, tại nơi Người nghỉ ngơi, tận đáy tâm hồn ta, trong giờ khắc nghỉ ngơi và thư dãn trước Mặt Người, dâng kính Người sự thờ phượng của đời ta.
Bởi thế, nhiệm vụ chính của giờ khắc này là để căng thẳng lắng xuống, để yên bình trở lại, để ta tin yêu phó mình cho Chúa và nhờ lời Người, bão tố trong ta yên lặng, giúp ta chấp nhận ý của Người. “Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi bình an ấy” (72), không phải bằng cố gắng bạo động, nhưng bằng cách để mọi căng thẳng, phấn khích, xao xuyến lo âu, thèm khát nóng bỏng, giận dữ độc hại tan biến đi.
Trong lối cầu nguyện này, ta hay gặp ý niệm ‘tập trung’. Vâng, ta phải tập trung hay chú ý, nhưng tập trung đây không phải là kết quả của một cố gắng căng thẳng, mà là kết quả của việc để cho mọi chuyện tự động biến đi cách nhẹ nhàng, không để cho cân não ta bị quấy nhiễu bởi người và hoàn cảnh, giải thoát mình khỏi buồn bực lo âu.
Khi những cái tiêu cực ấy dần dần tan đi, ta chỉ còn lại một điều: chú tâm vào Chúa, ý thức được sự hiện diện của Đấng vốn là Tác Giả và Người Ban mọi bình an và sức mạnh.
(2) Chiêm niệm là bất bạo động trong tâm trí
Ta cũng phải cam kết cương quyết sống một cuộc sống hiếu hòa. Cuộc sống ấy vừa là điều kiện vừa là hiệu quả của lối cầu nguyện này. Sự hiếu hòa của ta rất có thể bị khuấy động bởi bẩy mối tội đầu, tức các khuynh hướng xấu vốn hằng quấy phá trong ta: kiêu ngạo, ghen tương, giận dữ, mê ăn uống, mê dâm dục, lười biếng và tham lam. Ấy thế nhưng kẻ quấy phá chính yếu đe dọa sự bình an trong ta chính là cái tư dục giận dữ.
Ít nhất đó cũng là gợi ý của Evagrius thành Pontus (345-399) (73). Bất cứ sự nhượng bộ nào đối với giận dữ (bao gồm hiềm thù, ngờ vực, bất thiện cảm, chua cay, cáu kỉnh, dễ tự ái) đều là nhưng trở ngại đối với thời điểm cầu nguyện của ta. Cầu nguyện là hàn thử biểu giá trị, đo được một cách chính xác, không thiên vị, cảnh thanh bình hay bão tố trong ta. “Cầu nguyện là cái nhánh của dịu dàng và là cái vắng bóng của giận dữ” (Evagrius). Vì tận gốc rễ của giận dữ, ta thấy chình ình cái lòng thèm khát và dính kết đối với của cải và giá trị trần gian: “Thực vậy, con người ta cần gì phải giận dữ nếu không phải vì họ quá chú tâm tới của ăn, giầu sang, danh vọng v.v…” (Evagrius).
Như thế, rõ ràng ta phải một lòng dấn thân theo tinh thần của Chúa Giêsu như đã được bộc bạch trong phúc âm và được Bài Giảng Trên Núi đề cập tới: không bạo động, không hân thù, không có ý muốn độc ác, không trả thù, không kết án, nhưng dịu dàng, cảm thương, sẵn sàng cho đi và chia sẻ, yêu thương cởi mở và tha thứ đối với những kẻ hại mình.
(3) Chiêm niệm biến cải nhân cách ta
Một cách từ từ nhưng chắc chắn, lối cầu nguyện chiêm niệm sẽ dẫn đến một biến đổi kỳ diệu chính con người chúng ta. Quả thế, cuộc sống tâm linh và cầu nguyện của ta phải có tính ‘hiệu lực’ trong việc làm ta thay đổi, nếu không nó chẳng quan hệ gì tới ta mà còn là một gương mù gương xấu. Bạn không thể cầu nguyện hết ngày này qua ngày nọ, hết tháng này qua tháng nọ, nhưng con người bạn thì đâu vẫn hoàn đó. Nếu là thế, thì việc tìm kiếm và lời cầu nguyện của bạn không chân thực, mà chỉ là cách khéo léo ẩn mình khỏi Thiên Chúa hằng sống, không cho Chúa Thánh Thần ‘dây dưa’ gì tới cuộc sống của bạn. Thực ra, cầu nguyện chiêm niệm đúng nghĩa đòi ta phải mở lòng mình ra cho Chúa Thánh Thần. Các ơn và hoa trái (74) của Người phải mỗi ngày mỗi hiển nhiên hơn. Qua lối cầu nguyện này, mỗi ngày ta càng cảm nhận được quà phúc bản thân của chính Chúa Giêsu dành cho ta: đó là sự bình an (75). Hàng ngày, ta được “chữa lành” trong nước ban sự sống của Chúa Thánh Thần, và lớn lên cho đủ tầm cỡ nhân tính của chính Đấng Cứu Chuộc.
Tác giả cuốn Đám Mây Vô Minh mô tả sự biến đổi trên một cách tuyệt diệu như sau: “Tất cả những ai từng dấn thân vào việc chiêm niệm này đều thấy rằng nó gây một hiệu quả tốt đối với cả thể xác lẫn linh hồn, vì nó làm cho cả thể xác lẫn linh hồn trở thành quyến rũ đối với tất cả những ai thấy chúng. Đến nỗi người xấu nhất, nhờ ơn thánh, mà bước vào lối cầu nguyện chiêm niệm, cũng thấy mình bỗng chốc trở nên khác (dĩ nhiên cũng nhờ ơn thánh) và cho hay ai thấy họ cũng đều vui và vui lòng làm bạn với họ, thấy được tươi trẻ về phương diện thiêng liêng và được tình bạn này làm cho gần gũi Chúa hơn.
“Bởi thế, hãy tìm cách nhờ ơn thánh mà tiếp nhận được ơn phúc này; vì bất cứ ai thực sự có được ơn phúc này đều có khả năng kiểm soát được cả bản thân lẫn những gì thuộc về mình. Nó đem lại cho họ sự biện biệt để khi cần có thể đọc được nhu cầu và tính khí người khác. Nó đem lại cho họ nghệ thuật biết gây thoải mái với mọi người họ trò truyện với, dù tội lỗi kinh niên hay không, mà không vướng tội…đến nỗi không những làm mọi người phải ngạc nhiên, mà còn gây hiệu quả như nam châm đối với những người khác nữa, đến độ nhờ ơn thánh mà lôi kéo được những người này bước chân vào công việc thiêng liêng đang được họ thực hành. Khuôn mặt và lời họ nói đầy sự khôn ngoan thiêng liêng, sốt sắng, gây hiệu quả, chắc chắn và không hề lầm lẫn, giả tạo hay giả hình…” (76).
Theo tác giả trên, người biết cách thư dãn, thân mật và thoải mái với Chúa, thực ra, cũng giống mọi người khác thôi; trong khi những con người nóng nẩy, dễ giận dữ, khó gây được cảm tình, thì lẽ đương nhiên ta thích được gặp những con người hiếu hòa, bình thản, nhiều thiện cảm, dễ thân mật thoải mái và nhất là hiểu được ‘nhu cầu và tính khí ta’.
Thánh Têrexa thành Avila cho ta nhiều chứng cớ chứng minh tính hiệu quả của lối cầu nguyện chiêm niệm. Thánh Nữ viết: “Nếu bạn chịu cố gắng sống trước mặt Chúa một năm, cuối một năm ấy, bạn sẽ thấy mình đạt tới cao điểm của đức thiện toàn mà không hay”
Chứng cớ của những người thời ta tuy khiêm tốn hơn nhưng cũng khá tích cực: “Sau gần hai năm nghiêm chỉnh cố gắng cầu nguyện chiêm niệm, tôi nhận ra các thay đổi sau đây đã xẩy ra bên trong tôi:
“Vui mừng, bình an, thanh thản, còn trước đây thì sợ hãi, căng thẳng, bất ổn đủ thứ. Ngay trong các hoàn cảnh và quyết định khó khăn, bình an vẫn còn đó nhờ thế các giải pháp đã được đưa ra một cách không ngờ, không phải do tôi khôn ngoan, vì tôi không thấy, nhưng chúng đã đến với tôi.
“Càng ngày càng xác tín hơn về thực tại Thiên Chúa và Thánh Thần của Người. Thoáng thấy rõ Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, cảm nhận phẩm giá và giá trị con người mình vì chính Chúa đã yêu tôi. Cảm nhận này đã thay thế hẳn cái cảm nhận tự ghét mình, tự tiêu cực với chính mình trước đây của tôi.
“Biết chấp nhận công việc mình làm, các nhiệm vụ không mấy vui của nó, biết chấp nhận lời chỉ trích một cách hiếu hòa và từ bỏ mình một cách yêu thương nhiều hơn. Khoan dung hơn và chấp nhận người khác hơn mà không hờn tủi gây hấn như trước. Vì bản tính tôi khá kiêu căng, nên tôi thấy nhờ lòng thương xót của Người, tôi đã tránh được nhiều thảm họa. Dần dần tôi cũng đã khám phá ra hình ảnh ngẫu tượng lầm lẫn về chính mình, nhờ thế biết khao khát chân lý nhiều hơn. Nhiều chứng bệnh tâm lý bị lộ ra ánh sáng, giúp tôi tự do hơn.
“Tôi biết đánh giá nhiều hơn ơn kêu gọi của mình, nhiều ổn định và chân thực hơn trong việc cố gắng sống ơn kêu gọi ấy. Các lối cầu nguyện và sùng kính khác trở nên có nhiều ý nghĩa hơn. Lòng thèm khát Chúa tăng triển. Điều ấy đem lại cho tôi nhiều can đảm hơn để cố gắng thêm. Trước đây, tôi vốn dễ nản lòng và hay than van.
“Tôi nghĩ quả thực Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến đã được thâm hậu hóa. Tôi mong muốn được chia sẻ kho tàng này”.
(4) Nhờ chiêm niệm, trở nên chân thực hơn với chính mình
Một hiệu quả hay hoa trái toàn diện khác của lối cầu nguyện này là: nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, ta trở nên nhân bản trọn vẹn và đích thực hơn.
Trước mặt Chúa, ta học cách phải trở nên tuyệt đối chân thực với chính mình. Ta học cách biết nhìn mình trong con người thực sự của mình, phía sau mặt nạ của ước lệ, của kiểu cách và giả bộ, những điều lớn nhỏ từng đánh lừa chính ta. Dần dà, nhờ vượt qua tính giả tạo trong suy nghĩ, lời nói và việc làm, cũng như các thái độ không thật, cái tôi không thật của mình, ta lớn mạnh trong chân thực và đích thực. Càng ở và sống trước mặt Chúa, ta càng trở nên chính ta một cách chân thực hơn.
Mà càng trở nên chân thực với mình, vì nhờ chân thực với Chúa, ta càng chân thực hơn với sự vật chung quanh (như khách quan hơn trong việc tìm kiếm nhận thức và đánh giá tín liệu) và với những con người ta sống chung với. Khả năng trong các mối liên hệ liên bản ngã chân chính của ta cũng gia tăng hơn. Đức ái chân thực (theo nghĩa một khả năng biết đi vào tâm tư tình cảm, hoàn cảnh và nhu cầu sống của người khác một cách đầy thiện cảm) bao giờ cũng tay trong tay đi đôi với cầu nguyện chân thực: tức khả năng biết cởi mở và chân thực với Chúa và với chính mình. Lời của Thánh Gioan đúng biết chừng nào: Ai nói mình biết Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì là người nói dối!
Sebastian Temple (77) nói đến điều tương tự như trên trong bài ca của ông tựa là Người Hạnh Phúcnhư sau:
“Hạnh phúc thay người tha thẩn với Chúa: Hạnh phúc thay người biết phải sống ra sao. Hạnh phúc thay người không bao giờ tìm phần thưởng: họ cho vì họ thích cho đi…Họ không tìm vàng, họ không muốn lúa gạo; họ biết mọi điều ấy chỉ là phù vân. Họ không cần tiếng khen, cũng chẳng cần danh dự: khẩu hiệu của họ là: Chân thực với chính bản thân bạn. Hạnh phúc thay người học biết cầu nguyện. Hạnh phúc thay người có mục tiêu nóng bỏng. Hạnh phúc thay người không cần đền đáp cho phục vụ của mình: Người như thế đã tìm thấy chính linh hồn của mình. Hạnh phúc thay, hạnh phúc thay người của Chúa!”
(5) Hiệu quả đối với đời sống cầu nguyện của ta
Hiệu quả chính đối với các lối cầu nguyện khác là đem lại ý nghĩa mới và cảm thức thống nhất cho chúng. Người ta sẽ bỏ được lối đọc kinh theo thói quen, theo những chương trình đã có sẵn từ bao đời nay. Ta cảm thấy nhu cầu và dần dà có được khả năng đem lại cho mọi lối cầu nguyện một đặc tính chiêm niệm nghĩa là biến chúng thành lời cầu nguyện chân thực chứ không phải chỉ đọc hay hát mà thôi.
Thoạt đầu, người ta sẽ cảm thấy nhu cầu phải giảm bớt các bài kinh đọc thành tiếng, và tránh những kinh đọc đi đọc lại; người ta bắt đầu cảm thấy khó chấp nhận được những lối cầu nguyện vội vàng, cẩu thả, nhếch nhác, thiếu tôn kính và không chú ý tới ý nghĩa của nó. Nhưng sau này, dần dà, họ có thể quay trở lại với lối cầu nguyện thành tiếng, nhất là lối cầu nguyện lặp đi lặp lại (như chuỗi mân côi riêng; những kinh vắn tắt, Kinh Lạy Chúa Giêsu, v.v…) vì chúng quả có giúp họ hiện diện trước mặt Chúa và ‘tha thẩn với Người’.
Công đồng Vatican II cũng đã nhấn mạnh tới lợi ích to lớn đối với Thánh Lễ và việc Đọc Sách Nguyện do việc cầu nguyện suy gẫm.
“Để các tu sĩ có thể chia sẻ một cách thân mật hơn và nhiều ích lợi hơn vào mầu nhiệm Thánh Thể, và các lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, và để cuộc sống nội tâm của họ được nuôi dưỡng cách dồi dào hơn, cần phải đặt ưu tiên cho việc suy gẫm so với các hình thức cầu nguyện khác. Tuy nhiên, những thực hành cộng đoàn nào đã thành truyền thống trong Giáo Hội thì cần phải duy trì và chăm sóc để các tu sĩ được huấn giáo đúng đắn trong đường lối sống cuộc sống tu trì” (Ecclesiae Sanctae, số 21).
Chắc một điều Mẹ thánh Giáo Hội, khi rút vắn và đơn giản hóa các giờ kinh phụng vụ và thánh lễ, đã chỉ mong sao chúng ta đạt được hai mục tiêu là (a) biến chúng thành những lời cầu nguyện thực sự và có ý nghĩa; (b) dành nhiều giờ hơn cho lối cầu nguyện chiêm niệm.
Ghi chú
72. Tv 34:14
73. Sursum Corda, Tháng Hai 1971, tr.329 ff.
74. Gl 5:22
75. Ga 14:27
76. Đám Mây Vô Minh, chương 54, Thánh Gioan Thánh Giá cũng từng dạy rằng “một đời sống cầu nguyện sâu sắc trong Chúa Thánh Thần sẽ đến nhanh chóng hơn đối với những ai chuyên chăm cầu nguyện trong nơi thanh vắng”
77. “Một người Công Giáo cao ráo, tóc hung, rất muốn chia sẻ tình yêu của anh đối với Chúa. Trong cuộc tìm kiếm chân lý của mình, anh đã thực hành Yoga trong 17 năm và từng là một tu sĩ ấn giáo 2 năm. Không thấy thoả mãn, anh đã nghĩ đến việc theo Do Thái Giáo, nhưng may mắn tìm thấy trong Đạo Công Giáo điều anh đang đi tìm. Tác phẩm mới phát hành tựa là Và Dòng Nước Cứ Thế Chẩy (And the Waters Keep on Running) và Chúa là Ngọn Lửa Yêu Thương (God is a Fire of Love), The Examiner, Bombay, ngày 19 tháng Sáu năm 1971, tr.400.
9. Kết luận: lý do thực tiễn của chiêm niệm
Để kết luận, ta có thể liệt kê một số lý do thực tiễn cho thấy nhu cầu và giá trị của việc chiêm niệm hàng ngày.
(a) Ta thấy rằng ta có nhiều lầm lỗi và yếu điểm đã thành thói quen, mà bất chấp ý ngay lành, ta vẫn không sao có thể khắc phục được (như chỉ trích, nôn nóng, và mất bình tĩnh, lời nói nặng nề, hằn thù, dễ chán nản). Những lầm lỗi và yếu điểm này phá vỡ sự bình an của ta với người khác, với chính ta và với Thiên Chúa. Người ta đã chứng minh được rằng thành thực cố gắng đi tìm Chúa trong thinh lặng và phó thác theo lối cầu nguyện này sẽ dần dần giảm thiểu được tác động của các lầm lỗi và yếu điểm này. Như cuốn Đám Mây Vô Minh từng nói: “Trong chiêm niệm, linh hồn ta làm khô gốc rễ và vùng đất chung quanh tội lỗi là những thứ vốn có ở đấy, ngay cả sau khi đã xưng tội, và dù người ta có bận bịu việc thiêng liêng đến đâu đi nữa” (78).
(b) Cũng thế, lối cầu nguyện này còn giúp đỡ rất nhiều để ta giảm bớt căng thẳng và nôn nóng, nhất là đối với những ai sống cuộc sống cộng đoàn, vì nhu cầu họ phải luôn sẵn sàng, có mặt ở đó và cởi mở đối với các anh chị em của mình.
Đối với việc xây dựng một cuộc sống cộng đoàn chân thực, thì việc thực hành lối cầu nguyện này có hiệu lực hơn cả phương pháp đối thoại thường xuyên nhiều, tuy phương pháp sau cũng là một phương pháp chủ yếu. Trong đối thoại, người ta hay có khuynh hướng nhấn mạnh tới tầm quan trọng của ‘vấn đề’ trong khi trong lối cầu nguyện chiêm niệm, việc tìm kiếm yêu thương và bình an là vấn đề chính mà mọi vấn đề khác phải tùy thuộc vào; và cả khi cần phải đưa ra một quyết định khó khăn, ta cũng được hướng dẫn phải tiến hành một cách bất bạo động.
(c) Ta cần một nhịp điệu hàng ngày trong việc ngủ nghỉ và thức giấc, làm việc và thư dãn, ăn uống và tiêu hóa thế nào, thì một giờ hàng ngày để ‘chữa lành linh hồn’, để nghỉ ngơi trong hoạt động yêu thương thiết nghĩ cũng là một đòi hỏi cần thiết đối với cuộc sống nhân bản và Kitô giáo cân bằng như vậy (79).
(d) Dù bận bịu với trăm công nghìn việc, kể cả các công tác mục vụ mà nhiều người ngày nay tham gia, lúc nào ta cũng cần nhớ rằng chiêm niệm thực sự là một cuộc gặp gỡ bản thân có tính giao ước với Chúa. Nói cách khác, việc dành ra một thời gian nào đó để chiêm niệm là dấu chỉ bề ngoài của giao ước này, trong đó, ta phó thác bản thân ta cho Chúa và Chúa trao ‘thân’ Người cho ta. Giao ước này dù sao cũng là hoa trái chín mùi của cam kết lúc ta chịu Phép Rửa. Cam kết này luôn được cử hành và canh tân trong Phép Thánh Thể của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và Dân của Người.
Ghi chú
78. Đám Mây Vô Minh, chương 42
79. Xem Douglas Streers: “Khi một người Ấn Giáo sống một tháng trong một gia đình Thệ Phản Mỹ, ông ta hỏi người chủ nhà: trong ngày, lúc nào là lúc ông ta dành ra cho việc chữa lành linh hồn, thì đây quả là một giao điểm liên tôn khó lòng có thể bỏ qua”. Trong Đời Sống Cầu Nguyện Như Cơ Sở Của Hiệp Nhất(Life of Prayer as Ground of Unity), Worship, Tháng Năm 1971, tr.260.
8. Một số đặc điểm và ích lợi của chiêm niệm
(1) Chiêm niệm là thư dãn trước Mặt Chúa
Lối cầu nguyện này nhằm tìnm kiếm bình an, yên tĩnh và thanh thản. Ta đi tìm Chúa của Ngày Sabát, tại nơi Người nghỉ ngơi, tận đáy tâm hồn ta, trong giờ khắc nghỉ ngơi và thư dãn trước Mặt Người, dâng kính Người sự thờ phượng của đời ta.
Bởi thế, nhiệm vụ chính của giờ khắc này là để căng thẳng lắng xuống, để yên bình trở lại, để ta tin yêu phó mình cho Chúa và nhờ lời Người, bão tố trong ta yên lặng, giúp ta chấp nhận ý của Người. “Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi bình an ấy” (72), không phải bằng cố gắng bạo động, nhưng bằng cách để mọi căng thẳng, phấn khích, xao xuyến lo âu, thèm khát nóng bỏng, giận dữ độc hại tan biến đi.
Trong lối cầu nguyện này, ta hay gặp ý niệm ‘tập trung’. Vâng, ta phải tập trung hay chú ý, nhưng tập trung đây không phải là kết quả của một cố gắng căng thẳng, mà là kết quả của việc để cho mọi chuyện tự động biến đi cách nhẹ nhàng, không để cho cân não ta bị quấy nhiễu bởi người và hoàn cảnh, giải thoát mình khỏi buồn bực lo âu.
Khi những cái tiêu cực ấy dần dần tan đi, ta chỉ còn lại một điều: chú tâm vào Chúa, ý thức được sự hiện diện của Đấng vốn là Tác Giả và Người Ban mọi bình an và sức mạnh.
(2) Chiêm niệm là bất bạo động trong tâm trí
Ta cũng phải cam kết cương quyết sống một cuộc sống hiếu hòa. Cuộc sống ấy vừa là điều kiện vừa là hiệu quả của lối cầu nguyện này. Sự hiếu hòa của ta rất có thể bị khuấy động bởi bẩy mối tội đầu, tức các khuynh hướng xấu vốn hằng quấy phá trong ta: kiêu ngạo, ghen tương, giận dữ, mê ăn uống, mê dâm dục, lười biếng và tham lam. Ấy thế nhưng kẻ quấy phá chính yếu đe dọa sự bình an trong ta chính là cái tư dục giận dữ.
Ít nhất đó cũng là gợi ý của Evagrius thành Pontus (345-399) (73). Bất cứ sự nhượng bộ nào đối với giận dữ (bao gồm hiềm thù, ngờ vực, bất thiện cảm, chua cay, cáu kỉnh, dễ tự ái) đều là nhưng trở ngại đối với thời điểm cầu nguyện của ta. Cầu nguyện là hàn thử biểu giá trị, đo được một cách chính xác, không thiên vị, cảnh thanh bình hay bão tố trong ta. “Cầu nguyện là cái nhánh của dịu dàng và là cái vắng bóng của giận dữ” (Evagrius). Vì tận gốc rễ của giận dữ, ta thấy chình ình cái lòng thèm khát và dính kết đối với của cải và giá trị trần gian: “Thực vậy, con người ta cần gì phải giận dữ nếu không phải vì họ quá chú tâm tới của ăn, giầu sang, danh vọng v.v…” (Evagrius).
Như thế, rõ ràng ta phải một lòng dấn thân theo tinh thần của Chúa Giêsu như đã được bộc bạch trong phúc âm và được Bài Giảng Trên Núi đề cập tới: không bạo động, không hân thù, không có ý muốn độc ác, không trả thù, không kết án, nhưng dịu dàng, cảm thương, sẵn sàng cho đi và chia sẻ, yêu thương cởi mở và tha thứ đối với những kẻ hại mình.
(3) Chiêm niệm biến cải nhân cách ta
Một cách từ từ nhưng chắc chắn, lối cầu nguyện chiêm niệm sẽ dẫn đến một biến đổi kỳ diệu chính con người chúng ta. Quả thế, cuộc sống tâm linh và cầu nguyện của ta phải có tính ‘hiệu lực’ trong việc làm ta thay đổi, nếu không nó chẳng quan hệ gì tới ta mà còn là một gương mù gương xấu. Bạn không thể cầu nguyện hết ngày này qua ngày nọ, hết tháng này qua tháng nọ, nhưng con người bạn thì đâu vẫn hoàn đó. Nếu là thế, thì việc tìm kiếm và lời cầu nguyện của bạn không chân thực, mà chỉ là cách khéo léo ẩn mình khỏi Thiên Chúa hằng sống, không cho Chúa Thánh Thần ‘dây dưa’ gì tới cuộc sống của bạn. Thực ra, cầu nguyện chiêm niệm đúng nghĩa đòi ta phải mở lòng mình ra cho Chúa Thánh Thần. Các ơn và hoa trái (74) của Người phải mỗi ngày mỗi hiển nhiên hơn. Qua lối cầu nguyện này, mỗi ngày ta càng cảm nhận được quà phúc bản thân của chính Chúa Giêsu dành cho ta: đó là sự bình an (75). Hàng ngày, ta được “chữa lành” trong nước ban sự sống của Chúa Thánh Thần, và lớn lên cho đủ tầm cỡ nhân tính của chính Đấng Cứu Chuộc.
Tác giả cuốn Đám Mây Vô Minh mô tả sự biến đổi trên một cách tuyệt diệu như sau: “Tất cả những ai từng dấn thân vào việc chiêm niệm này đều thấy rằng nó gây một hiệu quả tốt đối với cả thể xác lẫn linh hồn, vì nó làm cho cả thể xác lẫn linh hồn trở thành quyến rũ đối với tất cả những ai thấy chúng. Đến nỗi người xấu nhất, nhờ ơn thánh, mà bước vào lối cầu nguyện chiêm niệm, cũng thấy mình bỗng chốc trở nên khác (dĩ nhiên cũng nhờ ơn thánh) và cho hay ai thấy họ cũng đều vui và vui lòng làm bạn với họ, thấy được tươi trẻ về phương diện thiêng liêng và được tình bạn này làm cho gần gũi Chúa hơn.
“Bởi thế, hãy tìm cách nhờ ơn thánh mà tiếp nhận được ơn phúc này; vì bất cứ ai thực sự có được ơn phúc này đều có khả năng kiểm soát được cả bản thân lẫn những gì thuộc về mình. Nó đem lại cho họ sự biện biệt để khi cần có thể đọc được nhu cầu và tính khí người khác. Nó đem lại cho họ nghệ thuật biết gây thoải mái với mọi người họ trò truyện với, dù tội lỗi kinh niên hay không, mà không vướng tội…đến nỗi không những làm mọi người phải ngạc nhiên, mà còn gây hiệu quả như nam châm đối với những người khác nữa, đến độ nhờ ơn thánh mà lôi kéo được những người này bước chân vào công việc thiêng liêng đang được họ thực hành. Khuôn mặt và lời họ nói đầy sự khôn ngoan thiêng liêng, sốt sắng, gây hiệu quả, chắc chắn và không hề lầm lẫn, giả tạo hay giả hình…” (76).
Theo tác giả trên, người biết cách thư dãn, thân mật và thoải mái với Chúa, thực ra, cũng giống mọi người khác thôi; trong khi những con người nóng nẩy, dễ giận dữ, khó gây được cảm tình, thì lẽ đương nhiên ta thích được gặp những con người hiếu hòa, bình thản, nhiều thiện cảm, dễ thân mật thoải mái và nhất là hiểu được ‘nhu cầu và tính khí ta’.
Thánh Têrexa thành Avila cho ta nhiều chứng cớ chứng minh tính hiệu quả của lối cầu nguyện chiêm niệm. Thánh Nữ viết: “Nếu bạn chịu cố gắng sống trước mặt Chúa một năm, cuối một năm ấy, bạn sẽ thấy mình đạt tới cao điểm của đức thiện toàn mà không hay”
Chứng cớ của những người thời ta tuy khiêm tốn hơn nhưng cũng khá tích cực: “Sau gần hai năm nghiêm chỉnh cố gắng cầu nguyện chiêm niệm, tôi nhận ra các thay đổi sau đây đã xẩy ra bên trong tôi:
“Vui mừng, bình an, thanh thản, còn trước đây thì sợ hãi, căng thẳng, bất ổn đủ thứ. Ngay trong các hoàn cảnh và quyết định khó khăn, bình an vẫn còn đó nhờ thế các giải pháp đã được đưa ra một cách không ngờ, không phải do tôi khôn ngoan, vì tôi không thấy, nhưng chúng đã đến với tôi.
“Càng ngày càng xác tín hơn về thực tại Thiên Chúa và Thánh Thần của Người. Thoáng thấy rõ Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, cảm nhận phẩm giá và giá trị con người mình vì chính Chúa đã yêu tôi. Cảm nhận này đã thay thế hẳn cái cảm nhận tự ghét mình, tự tiêu cực với chính mình trước đây của tôi.
“Biết chấp nhận công việc mình làm, các nhiệm vụ không mấy vui của nó, biết chấp nhận lời chỉ trích một cách hiếu hòa và từ bỏ mình một cách yêu thương nhiều hơn. Khoan dung hơn và chấp nhận người khác hơn mà không hờn tủi gây hấn như trước. Vì bản tính tôi khá kiêu căng, nên tôi thấy nhờ lòng thương xót của Người, tôi đã tránh được nhiều thảm họa. Dần dần tôi cũng đã khám phá ra hình ảnh ngẫu tượng lầm lẫn về chính mình, nhờ thế biết khao khát chân lý nhiều hơn. Nhiều chứng bệnh tâm lý bị lộ ra ánh sáng, giúp tôi tự do hơn.
“Tôi biết đánh giá nhiều hơn ơn kêu gọi của mình, nhiều ổn định và chân thực hơn trong việc cố gắng sống ơn kêu gọi ấy. Các lối cầu nguyện và sùng kính khác trở nên có nhiều ý nghĩa hơn. Lòng thèm khát Chúa tăng triển. Điều ấy đem lại cho tôi nhiều can đảm hơn để cố gắng thêm. Trước đây, tôi vốn dễ nản lòng và hay than van.
“Tôi nghĩ quả thực Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến đã được thâm hậu hóa. Tôi mong muốn được chia sẻ kho tàng này”.
(4) Nhờ chiêm niệm, trở nên chân thực hơn với chính mình
Một hiệu quả hay hoa trái toàn diện khác của lối cầu nguyện này là: nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, ta trở nên nhân bản trọn vẹn và đích thực hơn.
Trước mặt Chúa, ta học cách phải trở nên tuyệt đối chân thực với chính mình. Ta học cách biết nhìn mình trong con người thực sự của mình, phía sau mặt nạ của ước lệ, của kiểu cách và giả bộ, những điều lớn nhỏ từng đánh lừa chính ta. Dần dà, nhờ vượt qua tính giả tạo trong suy nghĩ, lời nói và việc làm, cũng như các thái độ không thật, cái tôi không thật của mình, ta lớn mạnh trong chân thực và đích thực. Càng ở và sống trước mặt Chúa, ta càng trở nên chính ta một cách chân thực hơn.
Mà càng trở nên chân thực với mình, vì nhờ chân thực với Chúa, ta càng chân thực hơn với sự vật chung quanh (như khách quan hơn trong việc tìm kiếm nhận thức và đánh giá tín liệu) và với những con người ta sống chung với. Khả năng trong các mối liên hệ liên bản ngã chân chính của ta cũng gia tăng hơn. Đức ái chân thực (theo nghĩa một khả năng biết đi vào tâm tư tình cảm, hoàn cảnh và nhu cầu sống của người khác một cách đầy thiện cảm) bao giờ cũng tay trong tay đi đôi với cầu nguyện chân thực: tức khả năng biết cởi mở và chân thực với Chúa và với chính mình. Lời của Thánh Gioan đúng biết chừng nào: Ai nói mình biết Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì là người nói dối!
Sebastian Temple (77) nói đến điều tương tự như trên trong bài ca của ông tựa là Người Hạnh Phúcnhư sau:
“Hạnh phúc thay người tha thẩn với Chúa: Hạnh phúc thay người biết phải sống ra sao. Hạnh phúc thay người không bao giờ tìm phần thưởng: họ cho vì họ thích cho đi…Họ không tìm vàng, họ không muốn lúa gạo; họ biết mọi điều ấy chỉ là phù vân. Họ không cần tiếng khen, cũng chẳng cần danh dự: khẩu hiệu của họ là: Chân thực với chính bản thân bạn. Hạnh phúc thay người học biết cầu nguyện. Hạnh phúc thay người có mục tiêu nóng bỏng. Hạnh phúc thay người không cần đền đáp cho phục vụ của mình: Người như thế đã tìm thấy chính linh hồn của mình. Hạnh phúc thay, hạnh phúc thay người của Chúa!”
(5) Hiệu quả đối với đời sống cầu nguyện của ta
Hiệu quả chính đối với các lối cầu nguyện khác là đem lại ý nghĩa mới và cảm thức thống nhất cho chúng. Người ta sẽ bỏ được lối đọc kinh theo thói quen, theo những chương trình đã có sẵn từ bao đời nay. Ta cảm thấy nhu cầu và dần dà có được khả năng đem lại cho mọi lối cầu nguyện một đặc tính chiêm niệm nghĩa là biến chúng thành lời cầu nguyện chân thực chứ không phải chỉ đọc hay hát mà thôi.
Thoạt đầu, người ta sẽ cảm thấy nhu cầu phải giảm bớt các bài kinh đọc thành tiếng, và tránh những kinh đọc đi đọc lại; người ta bắt đầu cảm thấy khó chấp nhận được những lối cầu nguyện vội vàng, cẩu thả, nhếch nhác, thiếu tôn kính và không chú ý tới ý nghĩa của nó. Nhưng sau này, dần dà, họ có thể quay trở lại với lối cầu nguyện thành tiếng, nhất là lối cầu nguyện lặp đi lặp lại (như chuỗi mân côi riêng; những kinh vắn tắt, Kinh Lạy Chúa Giêsu, v.v…) vì chúng quả có giúp họ hiện diện trước mặt Chúa và ‘tha thẩn với Người’.
Công đồng Vatican II cũng đã nhấn mạnh tới lợi ích to lớn đối với Thánh Lễ và việc Đọc Sách Nguyện do việc cầu nguyện suy gẫm.
“Để các tu sĩ có thể chia sẻ một cách thân mật hơn và nhiều ích lợi hơn vào mầu nhiệm Thánh Thể, và các lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, và để cuộc sống nội tâm của họ được nuôi dưỡng cách dồi dào hơn, cần phải đặt ưu tiên cho việc suy gẫm so với các hình thức cầu nguyện khác. Tuy nhiên, những thực hành cộng đoàn nào đã thành truyền thống trong Giáo Hội thì cần phải duy trì và chăm sóc để các tu sĩ được huấn giáo đúng đắn trong đường lối sống cuộc sống tu trì” (Ecclesiae Sanctae, số 21).
Chắc một điều Mẹ thánh Giáo Hội, khi rút vắn và đơn giản hóa các giờ kinh phụng vụ và thánh lễ, đã chỉ mong sao chúng ta đạt được hai mục tiêu là (a) biến chúng thành những lời cầu nguyện thực sự và có ý nghĩa; (b) dành nhiều giờ hơn cho lối cầu nguyện chiêm niệm.
Ghi chú
72. Tv 34:14
73. Sursum Corda, Tháng Hai 1971, tr.329 ff.
74. Gl 5:22
75. Ga 14:27
76. Đám Mây Vô Minh, chương 54, Thánh Gioan Thánh Giá cũng từng dạy rằng “một đời sống cầu nguyện sâu sắc trong Chúa Thánh Thần sẽ đến nhanh chóng hơn đối với những ai chuyên chăm cầu nguyện trong nơi thanh vắng”
77. “Một người Công Giáo cao ráo, tóc hung, rất muốn chia sẻ tình yêu của anh đối với Chúa. Trong cuộc tìm kiếm chân lý của mình, anh đã thực hành Yoga trong 17 năm và từng là một tu sĩ ấn giáo 2 năm. Không thấy thoả mãn, anh đã nghĩ đến việc theo Do Thái Giáo, nhưng may mắn tìm thấy trong Đạo Công Giáo điều anh đang đi tìm. Tác phẩm mới phát hành tựa là Và Dòng Nước Cứ Thế Chẩy (And the Waters Keep on Running) và Chúa là Ngọn Lửa Yêu Thương (God is a Fire of Love), The Examiner, Bombay, ngày 19 tháng Sáu năm 1971, tr.400.
9. Kết luận: lý do thực tiễn của chiêm niệm
Để kết luận, ta có thể liệt kê một số lý do thực tiễn cho thấy nhu cầu và giá trị của việc chiêm niệm hàng ngày.
(a) Ta thấy rằng ta có nhiều lầm lỗi và yếu điểm đã thành thói quen, mà bất chấp ý ngay lành, ta vẫn không sao có thể khắc phục được (như chỉ trích, nôn nóng, và mất bình tĩnh, lời nói nặng nề, hằn thù, dễ chán nản). Những lầm lỗi và yếu điểm này phá vỡ sự bình an của ta với người khác, với chính ta và với Thiên Chúa. Người ta đã chứng minh được rằng thành thực cố gắng đi tìm Chúa trong thinh lặng và phó thác theo lối cầu nguyện này sẽ dần dần giảm thiểu được tác động của các lầm lỗi và yếu điểm này. Như cuốn Đám Mây Vô Minh từng nói: “Trong chiêm niệm, linh hồn ta làm khô gốc rễ và vùng đất chung quanh tội lỗi là những thứ vốn có ở đấy, ngay cả sau khi đã xưng tội, và dù người ta có bận bịu việc thiêng liêng đến đâu đi nữa” (78).
(b) Cũng thế, lối cầu nguyện này còn giúp đỡ rất nhiều để ta giảm bớt căng thẳng và nôn nóng, nhất là đối với những ai sống cuộc sống cộng đoàn, vì nhu cầu họ phải luôn sẵn sàng, có mặt ở đó và cởi mở đối với các anh chị em của mình.
Đối với việc xây dựng một cuộc sống cộng đoàn chân thực, thì việc thực hành lối cầu nguyện này có hiệu lực hơn cả phương pháp đối thoại thường xuyên nhiều, tuy phương pháp sau cũng là một phương pháp chủ yếu. Trong đối thoại, người ta hay có khuynh hướng nhấn mạnh tới tầm quan trọng của ‘vấn đề’ trong khi trong lối cầu nguyện chiêm niệm, việc tìm kiếm yêu thương và bình an là vấn đề chính mà mọi vấn đề khác phải tùy thuộc vào; và cả khi cần phải đưa ra một quyết định khó khăn, ta cũng được hướng dẫn phải tiến hành một cách bất bạo động.
(c) Ta cần một nhịp điệu hàng ngày trong việc ngủ nghỉ và thức giấc, làm việc và thư dãn, ăn uống và tiêu hóa thế nào, thì một giờ hàng ngày để ‘chữa lành linh hồn’, để nghỉ ngơi trong hoạt động yêu thương thiết nghĩ cũng là một đòi hỏi cần thiết đối với cuộc sống nhân bản và Kitô giáo cân bằng như vậy (79).
(d) Dù bận bịu với trăm công nghìn việc, kể cả các công tác mục vụ mà nhiều người ngày nay tham gia, lúc nào ta cũng cần nhớ rằng chiêm niệm thực sự là một cuộc gặp gỡ bản thân có tính giao ước với Chúa. Nói cách khác, việc dành ra một thời gian nào đó để chiêm niệm là dấu chỉ bề ngoài của giao ước này, trong đó, ta phó thác bản thân ta cho Chúa và Chúa trao ‘thân’ Người cho ta. Giao ước này dù sao cũng là hoa trái chín mùi của cam kết lúc ta chịu Phép Rửa. Cam kết này luôn được cử hành và canh tân trong Phép Thánh Thể của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và Dân của Người.
Ghi chú
78. Đám Mây Vô Minh, chương 42
79. Xem Douglas Streers: “Khi một người Ấn Giáo sống một tháng trong một gia đình Thệ Phản Mỹ, ông ta hỏi người chủ nhà: trong ngày, lúc nào là lúc ông ta dành ra cho việc chữa lành linh hồn, thì đây quả là một giao điểm liên tôn khó lòng có thể bỏ qua”. Trong Đời Sống Cầu Nguyện Như Cơ Sở Của Hiệp Nhất(Life of Prayer as Ground of Unity), Worship, Tháng Năm 1971, tr.260.