Cầu nguyện theo lối chiêm niệm(tiếp theo)

6. Thế nào là cầu nguyện theo lối chiêm niệm?

Muốn nắm được ý nghĩa của việc cầu nguyện theo lối chiêm niệm, đầu tiên ta hãy xét tới ba giai đoạn cổ điển của cầu nguyện. Đầu tiên, ta cầu nguyện bằng lời: tức lối cầu nguyện phải dùng tới môi miệng, nhấn mạnh tới lời nói, được đọc hay hát lên. Bản văn thường được sáng chế từ trước hay soạn sẵn và thường rất hay, đầy cảm hứng. Cũng có những lời cầu nguyện bằng lời lẽ tự phát.

Rồi đến loại cầu nguyện bằng suy gẫm hay nói tắt là suy gẫm: tức lối cầu nguyện đặt trọng tâm ở trong trí, nhằm vẽ ra hình ảnh về Chúa, ngẫm nghĩ và suy tư về Người và về các công trình kỳ diệu của Người. Trí ta cố gắng tìm kiếm sự hiểu biết và thông sáng. Trong suy gẫm, môi miệng ta thinh lặng, còn trí khôn ta thì hoạt động tích cực.

Sau cùng, là lối cầu nguyện chiêm niệm hay nói tắt là chiêm niệm: tức lối cầu nguyện của trái tim và ý chí nhằm vươn tới sự hiện diện của Chúa. Cả môi miệng lẫn trí khôn đều thinh lặng: chỉ còn trái tim chăm chăm nhìn lên Chúa trong một thứ cầu nguyện không lời, còn ý chí thì tìm cách trở nên một với ý chí của Người.

Chiêm niệm là ‘nhận ra Chúa, biết và yêu Người trong tận đáy hữu thể ta’ (47). Khi ta đi tìm sự nhận biết này và thấy nó bằng đức tin, là ta đang nói tới thứ chiêm niệm thủ đắc (acquired contemplation). Còn khi ta đem lại cho nhận thức ấy một cảm nghiệm thực sự thì đó là chiêm niệm phú ban (infused contemplation).

Kitô hữu trưởng thành và chín mùi nào cũng đều có mục tiêu phải đạt cho được giai đoạn cầu nguyện chiêm niệm nói trên. Ba giai đoạn trên có thể ví với ba giai đoạn đi học vậy. Ta bắt đầu học bậc tiểu học, để học đọc học viết (cầu nguyện bằng lời). Giai đoạn trung học đệ nhất cấp của cầu nguyện chính là suy gẫm, trong đó, việc suy tư về cuộc sống và ơn mạc khải là chủ đề chính, mặc dù không quên lối cầu nguyện bằng lời. Giai đoạn trung học đệ nhị cấp của cầu nguyện là buổi đầu của lối cầu nguyện chiêm niệm. Ta không quên hay không gạt qua bên những điều mình đã học được ở giai đoạn tiểu học và trung học đệ nhất cấp, nhưng nay đã tới lúc đời sống cầu nguyện của ta bắt đầu chú tâm tới sự hiện diện của Thiên Chúa và sẵn sàng mở lòng mình ra cho Thánh Thần của Người. Dĩ nhiên còn một giai đoạn nữa, cao hơn nhiều, đó là giai đoạn huyền nhiệm của bậc cao học và tiến sĩ!

Nhưng thôi, ta hãy trở lại với việc cầu nguyện chiêm niệm. Nếu so sánh nó với lối cầu nguyện bằng lời, bạn có thể nói rằng trong lối cầu nguyện chiêm niệm, bạn tìm cách nhận ra rằng điều chứa trong lời nói nay đang thực sự hiện diện cho chính bạn. ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời’ chẳng hạn: ta vượt qua các lời này để nhận ra sự hiện diện của Người đối với ta, sâu thẳm trong ta, và ta đắm mình trong sự hiện diện ấy. Những lời trên được dùng như tiếng rung chuông, đánh thức ta bừng dậy từ một giấc ngủ sâu để ý thức được sự hiện diện của Người bên trong ta (48).

Nếu so sánh nó với lối cầu nguyện suy gẫm, bạn có thể nói rằng thay vì dùng suy tư chạy tới với Chân Lý, bạn dừng lại và đứng đó chăm chăm nhìn vào Chân Lý, nhận ra sự hiện diện của Người bên trong bạn. Có thể so sánh việc suy gẫm với hoạt động chuẩn bị đi vào việc thực hiện và vẽ một bức tranh. Lúc ấy, chiêm niệm chính là việc thinh lặng ngắm nhìn bức tranh đã hoàn thành, nhìn nó trong tính toàn bộ của nó, nhờ thế mà ý thức được cái thực tại từ cái nhìn của nhà nghệ sĩ vẽ ra nó” (49).

Vượt qua các biểu tượng (lời nói, ý nghĩ, quan niệm), ta tìm cách đi vào chính cái thực tại thiêng liêng và chân thực, lâu bền và mãnh liệt kia, tức là chính Thiên Chúa, Cha chúng ta, Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Người, và Thánh Thần của cả hai Vị. Vì thực tại này vượt quá cái la bàn ý niệm, vượt quá bất cứ miêu tả nào, nên trí khôn ta không thấy, không nắm được nó, mà chỉ có tình yêu mới biết nhận ra nó và chỉ có Chúa Thánh Thần mới đánh thức được thứ tình yêu và thứ tình phó thác ấy mà thôi. Bởi thế, tác giả sách Đám Mây Vô Minh nói rằng: “Ta chỉ có thể yêu Người chứ không suy nghĩ được Người. Người chỉ có thể đạt tới và nắm giữ bằng tình yêu; chứ không bao giờ bằng ý nghĩ” (50). Chúa có thể nhân hậu đáp trả tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá từng nói: “Chiêm niệm không là gì khác hơn việc phú ban (infusion) Thiên Chúa một cách bí nhiệm, một cách an bình cho ta, mà nếu biết tiếp nhận, linh hồn ta sẽ rực lửa Thánh Thần Yêu Thương”.

Cầu nguyện chiêm niệm là lối cầu nguyện duy nhất chân thực, theo nghĩa: nó dẫn dắt ta vượt quá lời (cầu nguyện bằng lời), vượt quá ý (cầu nguyện suy gẫm) mà vươn tới chính thực tại được các lời và ý kia ám chỉ. Theo nghĩa này, mọi lời cầu nguyện phải có đặc tính chân thực hay chiêm niệm, vì thực ra cầu nguyện bằng lời không bao giờ chỉ hệ ở việc đọc lời, và cầu nguyện suy gẫm không bao giờ chỉ hệ ở việc suy gẫm mà thôi.

Lại nữa, thực tại được ta tìm kiếm là một thực tại thiêng liêng, một thực tại trong chính tinh thần của ta, nhưng trên tất cả, nó là thực tại của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, ta có thể gọi lối cầu nguyện chiêm niệm là lối cầu nguyện chân thực và là lối cầu nguyện thánh thiêng theo nghĩa nó mở lòng ta cho Chúa Thánh Thần, cho hành động của Người, cho các ơn của Người hay “mở tinh thần chúng ta một cách không e dè đón nhận ơn thanh tẩy và chữa lành của Chúa Thánh Thần, trong khi mình đang ý thức được sự hiện diện của Người”.

Đến đây, ta thấy lý do tại sao ta cũng có thể gọi lối cầu nguyện chiêm niệm này là lối cầu nguyện thánh linh (pentecostal prayer) và ngược lại, theo nghĩa: qua lối cầu nguyện này, ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Giêsu đã ban làm người Nâng Đỡ An Ủi ta, Đấng sẽ ở với ta mãi mãi (51), và sẽ cung cấp cho ta mọi ơn thiêng liêng ta cần.

Trong tất cả các điều trên, điều cần thiết là ta phải hướng về núi thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình hướng về núi thánh đó bằng chính đôi chân của mình. Dĩ nhiên, ta có bản đồ và hướng dẫn viên. Ta đừng ngần ngại hỏi thăm người ta gặp trên đường nhưng nên nhớ chính hơi thở của Chúa Thánh Thần làm ta tiến bước và leo bước; chính Vinh Quang Thiên Chúa mà ta mờ mờ nhận ra hay phỏng đoán ra ở cuối đường kia đã lôi kéo ta bước tới… Và cũng đừng quên thỉnh thoảng phải tra cứu các sách hướng dẫn nữa.

Trong truyền thống Các-men, giai đoạn đầu của lối cầu nguyện này được gọi là ‘chiêm niệm thủ đắc’ nghĩa là lối chiêm niệm bất cứ người thiện chí nào, nhờ ơn thánh Chúa, nếu cố gắng, đều có thể đạt tới. Thánh Têrêxa thành Avila gọi lối cầu nguyện này là ‘lối cầu nguyện hồi tâm’ (prayer of recollection) (52). Hình như Bossuet là người đã phổ thông hóa ‘lối cầu nguyện đơn sơ’ (prayer of simplicity) từng được A.Tanquerey tiếp nhận (53). Ngoài ra còn nhiều tên khác, khá có ý nghĩa, như ‘lối cầu nguyện trong thinh lặng’, ‘lối cầu nguyện thanh tĩnh”, “lối cầu nguyện để Chúa hiện diện”, “lối cầu nguyện chú tâm đầy yêu thuơng’ và “lối cầu nguyện bằng trái tim” (54)

Ghi chú

47. Clifton Wolters trong phần dẫn nhập vào bản dịch tiếng Anh cuốn Đám Mây Vô Minh của ông, Penguin Books, 1961, tr.36.

48. Xem Abhisshiktananda, Cầu Nguyện (Prayer) ISPCK, 1972.

49. Cha René Voillaume miêu tả lời cầu nguyện này là “nhìn ngắm Chúa đương lúc yêu mến Người”. Cũng nên xem Dom Vitalis Lehodey OCR, “ta nhìn và ta yêu, ta nhìn để ta yêu và tình yêu của ta được nuôi dưỡng và bừng cháy nhờ ‘nhìn’”. Các Cách Cầu Nguyện Trong Trí (Ways of Mental Prayer) Gill, Dublin, 1960, phần II, chương IX, đoạn 2 và Đức Hồng Y Lercaro, người từng định nghĩa “Cầu nguyện theo lối chiêm niệm là dùng trực giác đơn giản và nhiều hiệu quả mà nâng tâm hồn lên cùng Chúa” Các Phương Pháp Cầu Nguyện Trong Trí (Methods of Mental Prayer) Burns & Oates, London, 1957, chuơng 14.

50. Đám Mây Vô Minh, một khảo luận thời trung cổ (khoảng năm 1350) về chiêm niệm, Penguin Classics, 1961, chương 6.

51. Ga 14:16

52. Con Đường Toàn Thiện (The Way of Perfection), chương 28.

53. A. Tanquerey, Đời Sống Thiêng Liêng đoạn 1363 ff.

54. Đức Hồng Y Lercaro, Các Phương Pháp Cầu Nguyện Trong Trí, Burns & Oates, London, 1957, chương 14.

7. Lối cầu nguyện của Chúa Giêsu và các môn đệ

Đôi lúc, người ta có cảm tưởng rằng cầu nguyện theo lối chiêm niệm không có trong Phúc Âm của Chúa Kitô. Cùng lắm chỉ có thể nói nó là một thực hành do Giáo Hội đưa ra dựa vào các tôn giáo không phải là Kitô Giáo và thích ứng vào đời sống Kitô hữu. Lẽ dĩ nhiên, nhiều người ở bên ngoài truyền thống Kitô Giáo từng thiết tha lên đường tìm kiếm và đã tìm thấy Thiên Chúa trong lúc cầu nguyện. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ các phúc âm và các truyền thống Kitô Giáo, ta thấy việc cầu nguyện theo lối chiêm niệm nằm ngay ở trung tâm Phúc Âm và cuộc sống Kitô hữu. Nó vốn là lối cầu nguyện của các tiên tri và những người khiêm hạ trong Cựu Ước, của những ai, trong khi đi tìm Thánh Nhan Chúa, có quyết tâm yêu Người, Thiên Chúa của họ, hết lòng, hết linh hồn, hết sức họ (55), và thờ phượng Người trong trạng thái thanh thản chiêm niệm và nghỉ ngơi của ngày Sa-bát.

Nhưng nó còn là lối cầu nguyện của chính Chúa Giêsu, của Đức Maria và của các thánh nữa. Nghiên cứu cuộc đời của hầu hết mọi người thánh thiện, ta sẽ thấy sáng tỏ sự kiện lối cầu nguyện này vốn nằm ở tâm điểm việc làm môn đệ và cuộc sống Kitô hữu của ta.

Đây là lối cầu nguyện của Chúa Giêsu

Chúa Giêsu cũng cảm nghiệm sự nên một của Người với Thiên Chúa trong và qua bản tính nhân loại của mình, một bản tính hoàn toàn giống bản tính ta, “Người tiếp nhận cho mình dòng dõi từ Abraham. Trong phương cách ấy, điều chủ yếu là Người phải trở nên hoàn toàn giống anh em nhân loại của Người để có thể là linh mục thượng phẩm đầy cảm thương và đáng tin trong tôn giáo của Thiên Chúa, có khả năng đền thay tội lỗi nhân loại. Nghĩa là, nhờ việc phải tự mình kinh qua cám dỗ, Người mới có khả năng giúp người khác đang kinh qua cám dỗ” (56).

Ta thấy Người đã cố gắng sống thân phận con người ra sao trong cô tịch, trong tư riêng, trong thinh lặng, trong chay tịnh, trong cảnh giác, trong cầu nguyện, giúp bản tính nhân loại của Người cởi mở hơn để tiếp nhận Chúa Thánh Thần, tiếp nhận các phương tiện tốt hơn để cầu nguyện, để cảm nghiệm nhiều hơn sự kết hợp với Cha của Người trong hiểu biết và yêu thương. Chính trong lúc thinh lặng cầu nguyện như thế, Người đã học biết Thánh Ý Cha của Người và cảm nghiệm được sự phó thác hoàn toàn trong tình yêu. Trong cầu nguyện, Người nghe thấy lời Cha của Người nói (57), và cũng trong cầu nguyện, Người nhận biết Cha của Người bằng tình yêu (58).

Khi chia sẻ Thánh Thần đầy yêu thương và phó thác của mình cho các môn đệ, Người cũng chia sẻ với họ việc Người nên một với Cha của Người (59). Nhờ cách đó, ta đã trở thành con nuôi, nghĩa là nhờ ơn thánh, được chia sẻ điều mà Chúa Giêsu, người Anh của chúng ta, tự bản chất vốn là. “ Nếu là con, ta cũng là kẻ thừa tự: kẻ thừa tự của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Chúa Kitô, chia sẻ đau khổ của Người để cùng được chia sẻ vinh quang của Người” (60).

Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta chia sẻ cảm nghiệm nhân bản của Người về tình cha con với Chúa Cha trong tình yêu của Chúa Thánh Thần (61). Trong cầu nguyện chiêm niệm, chúng ta được hướng dẫn để tái tạo lại kinh nghiệm cầu nguyện của Chúa Giêsu, dù kinh nghiệm của ta chỉ là một kinh nghiệm bất toàn, dễ bị lung lay, nhưng một ngày kia sẽ được kiện toàn trong ánh sáng vinh quang của Người (62).

Đây là lối cầu nguyện của Đức Maria

Có một mấu chốt rất quan trọng giúp ta hiểu được cuộc sống thiêng liêng của Đức Maria. Đó là quyết định lạ lùng không muốn kết hôn của Ngài, một quyết định có trước biến cố Truyền Tin, mà theo truyền thống Do Thái và công luận lúc ấy chống lại bậc sống hôn nhân (63). Quyết định này cho thấy Ngài được ơn đặc biệt ngay từ lúc đầu đời. Hẳn từ lúc thiếu thời, Ngài đã quen sống với ý thức về Chúa và hẳn từng cảm nghiệm được niềm vui sống trước Thánh Nhan của Người, niềm vui được Người mỉm cười chúc phúc rồi (64). Một cách như theo bản năng, Ngài đã xa lánh tội lỗi và sự ác, vì những điều này làm mờ mối liên hệ ấy và cản trở không để con người của Ngài lại gần Chúa.

Trong trái tim của Ngài luôn có ơn thánh của một “anawim”, một tâm hồn khiêm hạ, kẻ nghèo hèn của Chúa luôn một lòng tìm kiếm Thánh Nhan của Người và ca ngợi Danh của Người. Nền linh đạo của tâm hồn ấy đã được Thánh vịnh 34 nói lên cách tuyệt diệu:

“Hãy cùng tôi tán dương Chúa: chúng ta hãy cùng nhau ca ngợi Danh của Người!

Tôi tìm kiếm Chúa và Chúa đáp ứng tôi:

Hãy hướng lên Chúa và hân hoan rạng rỡ!

Hãy nếm thử Chúa và thấy Chúa tốt lành dường bao

Hãy tìm kiếm và ráng mưu cầu bình an!

Những ai trú ẩn trong Người sẽ không bị kết án”.

Một cách như bản năng, Ngài bị lôi cuốn vào một lối sống giúp Ngài hoàn toàn tự do để phụng sự Thiên Chúa, không phải chỉ phụng sự bề ngoài, mà còn phụng sự nội tâm bằng ngợi ca và cám tạ. Ngài coi mình là nữ tì của Chúa, một lòng một dạ tìm kiếm Thánh Nhan của Người. Nếu Chúa chuẩn bị mang ơn cứu rỗi đến cho Dân của Người qua một Tôi Tớ nghèo nàn và khiêm hạ (65), tức “kẻ Ta đã chọn, kẻ hồn Ta vui thích”(66), thì Ngài chính là Tôi Tớ nghèo nàn và khiêm hạ ấy của Chúa, người Nữ Tì suốt đời nói lên tấm tình yêu và lòng thủy chung phu thê của mình, tấm tình yêu và lòng thủy chung mà Israel luôn tỏ ra thiếu vắng một cách rõ rệt (67).

Cứ thế, Ngài cảm thấy bị lôi cuốn vào quyết định không kết hôn, một quyết định giúp Ngài hoàn toàn phó mình đầy tin yêu cho sự hướng dẫn của Chúa. Cũng chính quyết định ấy đã dẫn Ngài tới gặp người thanh niên tên Giuse, một người cũng có một ơn thánh tương tự…

Ngài là người biết suy nghĩ (68), biết trân qúy các bài ca cầu nguyện (thánh vịnh) đầy chất thơ của truyền thống và các sứ điệp của Chúa qua miệng tiên tri. Ngài có các cảm nhận về ngôn ngữ chiêm niệm và khi được linh hứng, đã có thể xướng lên lời cầu nguyện của riêng mình dưới hình thức ca hát cổ truyển (69).

Ngài hẳn đã khai tâm Chúa Giêsu vào lối cầu nguyện của Do Thái. Là mẹ Chúa Giêsu, bậc thầy của cầu nguyện, và là bà dì của vị tiên tri có lối sống ẩn tu là Gioan Tẩy Giả, hẳn Ngài đã dành nhiều thì giờ để thinh lặng cầu nguyện và chiêm niệm. Lần cuối cùng gặp Ngài được Thánh Kinh nhắc tới, ta thấy Ngài cùng các môn đệ cầu nguyện liên tiếp, xin Chúa Thánh Thần hiện xuống như Con của Ngài từng hứa trước đó (70).

Ghi chú

55. Đnl 6:5

56. Dt 2:17-18

57. Ga 17: 8, 14

58. Ga 10:15; xem Mt 11:25-27.

59. Ga 17:21

60. Rm 8:17

61. Rm 8:28-30

62. 1Cor 13:12; 1Ga 3:2

63. Lc 1:31-34

64. Trong lịch sử Hồi Giáo, vốn mạnh mẽ chống lại bậc sống không lập gia đình, có kể lại trường hợp rất đáng chú ý về sự kiện vì Thiên Chúa mà giữ mình đồng trinh, dù bị mọi người chống đối. Đó là trường hợp bà Rabi’a ở Basra, qua đời tại Giêrusalem năm 801 CN. Bà có một cảm thức muốn hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và nhờ một cuộc sống nhiệm nhặt đã đạt tới một sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa cao cả. Bà đã gây ảnh hưởng lớn đối với phong trào chiêm niệm trong Hồi Giáo (phái Sufi), đến độ Faridu’d-Din Attar viết về bà như sau: “Rabi’a, Đấng sống ẩn dật, đã được mặc chiếc áo tinh tuyền. Bà đầy tràn lửa yêu mến và khát mong được tới gần Chúa của mình và được chìm ngập trong vinh quang của Người. Bà là Đức Maria thứ hai và là một phụ nữ không chút tì vết” (John Subhan trong Phái Sufi, Các Thánh và Đền Thánh Của Họ (Sufism, Its Saints and Shrines) Lucknow, 1960, tr.14.

65. Ds 6:25

66. Is các chương 42, 49, 50 và 52.

67. Is 42:1

68. Một chủ đề của nhiều tiên tri

69. Lc 2:19

70. Lc 1:46-55

71. Cv 1:14.

(còn tiếp)