John L. Allen Jr., chủ bút tạp chí Crux, ngày 15 tháng 9 năm 2024, nhận định rằng đối với một vị giáo hoàng thường bị coi là có ác cảm với Hoa Kỳ – và, ta hãy thừa nhận điều đó, ấn tượng đó không hoàn toàn vô căn cứ – tuy nhiên, trong những bình luận gần đây của ngài về "điều ít tệ hại hơn trong hai điều tệ hại" liên quan đến cuộc đua Trump/Harris, Đức Phanxicô dường như đã truyền tải được bản chất người Mỹ mà ngài vốn nghĩ một cách khá tốt.



Ý tôi là, có bao nhiêu người Mỹ, Công Giáo hay không, đôi khi cảm thấy trong các chu kỳ bầu cử gần đây chúng ta phải lựa chọn giữa hai phương án thiếu sót, buộc phải đưa ra những lựa chọn đáng thất vọng?

Thật vậy, có những người nhiệt tình ở cả hai phía của sự chia rẽ đảng phái của chúng ta, những người có lẽ không nhìn nhận mọi thứ theo cách đó, nhưng cách Đức Phanxicô đánh giá tình hình sẽ gây được tiếng vang với một bộ phận lớn người Mỹ, bất kể có tôn giáo hay không, những người đơn giản là không thể có được lập trường hoàn toàn, ngay thẳng và kiên định ủng hộ bất cứ phương án nào.

Tuy nhiên, đối với người Công Giáo Mỹ nói riêng, những bình luận của Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về Rome từ Singapore cũng đã chỉ ra một sự thật phũ phàng, một sự thật thường bị lãng quên giữa sự ồn ào và náo nhiệt của mùa bầu cử: Cụ thể, bất cứ người Mỹ nào coi trọng toàn bộ giáo lý xã hội Công Giáo thì đơn giản là không thể thoải mái với bất cứ đảng phái chính trị lớn nào của chúng ta.

Quan điểm này đã từng được John Carr, người khi đó là người vận động hành lang chính cho các giám mục Hoa Kỳ và hiện đang điều hành Sáng kiến về Tư tưởng Xã hội Công Giáo và Đời sống Công cộng tại Georgetown, đúc kết thành một câu nói nổi tiếng. Carr cho biết một người Công Giáo Mỹ đang cố gắng nhất quán trong việc áp dụng giáo lý của Giáo hội vào hệ thống hai đảng của Hoa Kỳ thì chắc chắn sẽ mãi "vô gia cư về mặt chính trị".

Sự tương tác giữa các giáo hoàng và tổng thống trong nhiều năm chắc chắn đã chứng minh điều đó.

Khi Tổng thống Lyndon Johnson lên nắm quyền tại Hoa Kỳ vào năm 1963, chỉ vài tháng sau cuộc bầu cử của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, hầu hết các chuyên gia đều dự đoán rằng vị giáo hoàng có tư tưởng tiến bộ này sẽ tìm được tiếng nói chung với nhà lãnh đạo đảng Dân chủ về phong trào dân quyền và Cuộc chiến chống đói nghèo. Cả hai người đều thừa hưởng vai trò lãnh đạo từ những người tiền nhiệm đầy sức lôi cuốn, và cả hai đều chia sẻ một chương trình cải cách tiến bộ rộng rãi.

Mặc dù tất cả những điều đó đều đúng cho đến nay, nhưng vào thời điểm hai người gặp nhau tại Vatican vào tháng 12 năm 1967, các báo cáo chỉ ra rằng Đức Phaolô VI thực sự đã hét vào mặt Johnson tại một thời điểm, đập tay xuống bàn, về những bất đồng sâu sắc liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam.

Sau đó, người ta cũng cho rằng Giáo hoàng Gioan Phaolô II bảo thủ hơn sẽ cảm thấy thoải mái khi Tổng thống George W. Bush nhậm chức vào tháng 1 năm 2001, xét vì lập trường ủng hộ sự sống mạnh mẽ của Bush, sự ủng hộ của ông đối với các sáng kiến dựa trên đức tin và sự ngưỡng mộ rõ ràng của ông đối với Giáo Hội Công Giáo mặc dù ông xuất là người Thệ Phản.

Tuy nhiên, không có điều gì trong số đó ngăn chặn được một trong những cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất trong lịch sử quan hệ Hoa Kỳ/Vatican khi Bush quyết định tham chiến ở Iraq vì sự phản đối mạnh mẽ của Đức Gioan Phaolô.

Tất nhiên, mô hình đó vẫn tiếp tục dưới thời Giáo hoàng Phanxicô. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, một người Công Giáo tự do cổ điển của trường phái cũ, chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Đức Phanxicô, nhưng Đức Giáo Hoàng và tổng thống có quan điểm trái ngược nhau rõ ràng về các vấn đề từ Ukraine và Gaza đến chính sách phá thai và lý thuyết phái tính.

Người ta có thể tiếp tục liệt kê những ví dụ về sự bất hòa như vậy - cách Gioan Phaolô II và Tổng thống Bill Clinton xung đột trong các hội nghị của Liên hợp quốc về dân số và phụ nữ tại Cairo và Bắc Kinh, được tổ chức lần lượt vào năm 1994 và 1995, đặc biệt là về vấn đề "quyền" phá thai quốc tế, nhưng lại thấy mình hợp lực trong năm thánh 2000 để ủng hộ việc xóa nợ cho các quốc gia đang phát triển.

Hoặc, để trích dẫn một trường hợp khác, bất chấp sự tương phản rõ ràng giữa Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI và Tổng thống Barack Obama về nhiều vấn đề khác nhau, khi hai người gặp nhau tại Vatican vào năm 2009, phần lớn cuộc trò chuyện đều dành cho thông điệp Caritas in Veritate của Đức Bê-nê-đíc-tô, trong đó vị giáo hoàng ủng hộ việc phân phối lại của cải để phục vụ người nghèo, kêu gọi củng cố thẩm quyền chính trị thế giới và than thở về biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường - tất cả các vấn đề mà vị giáo hoàng bảo thủ và tổng thống tự do có thể tìm thấy tiếng nói chung.

Vấn đề là, thực sự không quan trọng liệu một đảng viên Cộng hòa hay Dân chủ chiếm giữ Nhà Trắng. Trong cả hai trường hợp, sẽ có một số lĩnh vực mà Giáo hội và nhà nước sẽ hòa hợp, và những lĩnh vực khác thì không.

Động lực đó có một lời giải thích đơn giản: Mỗi bên trong sự chia rẽ đảng phái của Hoa Kỳ đều mạnh về một phần học thuyết xã hội Công Giáo nhưng tương đối yếu về phần khác.

Nói một cách đơn giản hóa quá mức, đảng Cộng hòa có xu hướng dễ dãi với giáo lý giáo hội về các vấn đề sự sống, tự do tôn giáo và việc ủng hộ của công chúng đối với các tổ chức tôn giáo, trong khi đảng Dân chủ thường gần gũi hơn với giáo lý về các vấn đề xã hội, bao gồm các nỗ lực chống đói nghèo, án tử hình, môi trường và quan hệ chủng tộc.

Nói cách khác, khi người Công Giáo Mỹ bước vào phòng bỏ phiếu, họ luôn cố gắng đóng một cái chốt vuông vào một lỗ tròn.

Trong thời gian chuẩn bị cho chiến tranh Iraq, có một thời điểm Đức Gioan Phaolô II đã cử Hồng Y Pio Laghi đến Washington để cố gắng thuyết phục người Mỹ vào phút cuối hủy bỏ mọi thứ. Đó là một lựa chọn tự nhiên, vì Laghi đã phục vụ với tư cách là sứ giả của Đức Giáo Hoàng tại Hoa Kỳ trong suốt một thập niên, từ năm 1980 đến năm 1990, và có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với gia đình Bush. Tuy nhiên, cuối cùng nhiệm vụ của ngài đã thất bại, và Hoa Kỳ vẫn phát động cuộc xâm lược.

Khi Laghi trở về Rome, ngài đã có một cuộc họp báo ngắn với một nhóm nhỏ các phóng viên, và tôi nhớ rõ phản ứng của ngài: "Vấn đề là tất cả bọn họ đều là người theo thuyết Manichean ở đó", ngài nói, không những ám chỉ bản chất nhị nguyên của chính trị Hoa Kỳ, mà còn ám chỉ theo nhiều cách quan điểm chung của chúng ta về thế giới.

Theo nghĩa đó, những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói vào tối thứ Sáu hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm của người Công Giáo cả từ xa xưa và gần đây. Tác động của nó đối với cuộc đua Trump/Harris, nếu có, vẫn còn phải chờ xem, nhưng ít nhất đây là một trường hợp mà bạn không thể thực sự cáo buộc vị Giáo hoàng người Argentina đã hiểu sai về nước Mỹ.