Có lẽ mỗi người Công giáo chúng ta đều mong muốn được hành hương nơi Đất Thánh. Khi còn tại quê nhà rất ít người có được cơ hội này. Nhưng khi định cư tại Hoa kỳ hay các nước Âu châu thì ước vọng này có thể thực hiện được. Có nhiều người sau khi đã đi làm nhiều năm, nay về hưu, họ sắp xếp mỗi năm đi du lịch một nơi, những người Kitô giáo thường tính tới hành hương Đất Thánh. Những người già cả tài chánh eo hẹp, nhưng con cái học hành thành tài có công ăn việc làm khá giả, thường cũng mong nuốn báo đáp công ơn cha mẹ bằng cách thoả mãn ước mơ này của cha mẹ. Nói chung Hành hương Đất thánh đối những người Kitô hữu hải ngoại là khả thi.
Là người lần đầu đi hành hương “Đất Thánh”tôi muốn nói lên đôi chút kinh nghiệm qua chuyến đi này hy vọng góp thêm một chút kiến thức cho những ai có ý định Hành hương Đất thánh.
Câu nói của ông hướng dẫn (tour guider): “Nước nào cũng có người bước chân tới Thành địa hoặc đi du lịch, hoặc đi chiêm niệm hay cầu nguyện và mong chứng kiến những chặng đường Đấng Cứu thế đã đi qua, trừ ra chỉ còn mỗi Cuba là chưa có ai tới đây cả.”
Ông cũng nói đùa: “Quý vị có biết tại sao người Do thái dùng nhiều cellphone không. Bởi vì các nơi khác trên thế giới gọi cellphone cho Chúa, phài tính longdistance rất tốn kém, nhưng nếu gọi tại Do thái sẽ tính giá local rất dẻ.”
Vì thế số người hành hương đến Do thái nườm nượp mỗi ngày. Đi tới bất cừ đia điểm nào cũng nhiều phái đoàn, đông người. Á châu thường gồm Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Phi luật tân. Còn các nước Âu châu không kể những nước như Pháp, Đức, Balan, Thụy điển, Na uy, Đan mạch, nhưng ngay cả người Nga cũng đến đây, vì có rất nhiều nhà thờ Chính thống giáo ngay tại Giêrusalem. Các nhà thờ Công gíáo, Tin lành, Chính thống giáo, hay Hồi giáo xen kẻ khắp Do thái. Chỉ tại một địa điểm hành hương thôi cũng có những nhà thờ của các tôn giáo khác cùng được xây dựng. Đặc biệt là thời gian xung khắc giữa Hồi giáo và Công giáo gọi là “Thời Kỳ Thập tự chính (Crusader)”, có nhà thờ Công giáo bị phá đi và xây nhà thờ Hồi giáo lên hay ngược lại.
Khi đi hành hương thường là đi theo toán, có người hướng dẫn, vấn đề tài chánh và thời gian cho một chuyến đi rất khác nhau, nên giá cả cũng rất khác nhau. Dĩ nhiên những người từ Âu châu đến chi phí sẽ đỡ tốn kém hơn những người từ Mỹ châu hay những nơi khác. Nhưng cùng ở Hoa kỳ giá cũng rất khác nhau tuỳ theo mỗi Tiểu bang. Cụ thể tại Houston, chi phí cho chuyến hành hương này trên dưới $300.00/ một ngày gồm chi phí di chuyển, hotel và ăn uống. Hotel bốn sao, và ngày hai bữa sáng tối đều buffet rất thịnh soạn, còn trưa ăn ở restaurant gần những địa điểm hành hương.
Đoàn chúng tôi gồm 25 người đi cùng phái đoàn người Mễ cũng gồm 25 người khởi hành từ Houston lúc 8:55 AM đến New Newark lúc 1:35 PM và sang máy bay lớn lẽ ra cất cánh lúc 4:00 PM nhưng phải hoãn mất hai tiếng đồng hồ. Mọi người chờ đợi tại sân bay không biết lý do nên cũng áy náy. Vì máy bay về vùng này dầu chẳng có gì nhưng cũng hơi ngại. Nhưng khi máy bay cất cánh rồi mới rõ lý do hoãn vì bão và chúng tôi đã tới Phi trường Tel Aviv lúc hơn 11 giờ sáng hôm sau. Rời Phi trường trên đường tới khách sạn, hướng dẫn viên tranh thủ giới thiệu cảnh đầu tiên trong chuyến đi là bờ Hồ Tibêria. mọi người xuống xe ngắm cảnh chụp hình khoảng nửa tiếng, sau đó về khách sạn Dan Panorama Hotel tắm rửa nghỉ ngơi tới sáu giờ chiều ăm cơm tối chuẩn bị ngày tới.
Nước Do thái rộng 20,770 kilometers vưông với dân số gần 8.000.000 người. Khí hậu pha trộn Địa trung Hài, và sa mạc, gió nhiều, nóng và ít mưa. Riêng Jerusalem mỗi năm có mấy ngày tuyết rơi. Cây cối đặc trưng của Do thái ngoài cây olive được trồng khắp nơi, vừa là cây cảnh vừa là cây ăn trái. Loại cây này không cao sống trên đất khô cằn và rất thọ. Những cây olives tại vườn Jessemani cách nay hơn 2.000 năm, nơi Chúa Cứu Giêsu vào cầu nguyện trước khi nộp mình chịu chết, ngày nay vẫn tươi tốt; rồi đến cây chà là. Người ta còn thấy cây bông giấy hoa rực rỡ khắp nơi. Người Do thái cũng trồng nhiều cây lựu làm cảnh trước nhà hay quanh những khu thương mại. Giao thông: những freeway xây dựng cũng giống bên Hoa kỳ, hai chiều phân biệt. Ngoài xe hơi tư nhân, đa số dân chúng dùng xe bus để đi lại, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe đạp, nên không có vấn đề tắc nghẽn giao thông. Nói chung việc di chuyển rất thoải mái. Về kiến trúc: Những kiến trúc gắn liền với truyền thống tôn giáo nên được bảo trì rất kỹ. Những hòn đá hay những chiếc cột đá gẫy vỡ vẫn được giữ nguyên, nếu có rời chỗ hay sửa chữa hay trùng tu phải được đánh dấu cẩn thận và thường những hướng dẫn viên du lịch giải thích một cách tường tận. Kiến trúc nguyên thủy do ai xây cất và được xây cất từ năm nào.
Vê nông nghiệp: Tuy đất đai khô cằn sỏi đá, nhưng người Do thái không những tự túc về lương thực và còn dư để xuất khẩu. Ngoài ngũ cốc, họ còn trồng đủ lại cây ăn trái gồm những loại cây ôn đới như nho táo, mận, đào hay những lại cây nhiệt đới, như dưa hấu, soài, chuối. Hai bên đường đi thấy rất nhiều green houses trồng soài và chuối. Green house mái vòng cung để khi nước bốc hơi đọng thành giọt sẽ chảy trở lại ngay.
Mọi cây lớn nhỏ, ăn trái hay chỉ làm cảnh đều có một ống dẫn nước nhỏ đặt sâu tới tận rễ, nên tưới tốn rất ít nước mà cây cối lúc nào cũng xanh tốt. Sống tại Do thái mới ý thức được giá trị của giọt nước và cách bảo quản va dùng nước một cách hợp lý. Sinh ra tại Việtnam, khí hậu nhiệt đới, chỗ nào cũng có sông ngòi, ao hồ; khi qua định cự tại Mỹ hay những quốc gia có đời sống cao, nước dùng không bao giờ bị hạn chế nên không có ý niệm giá trị của giọt nước. Nhưng tại Do thái, ngay từ nhỏ, mọi người đã quen với sự trân quý nước, nên dùng nước ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, tưới cây rất khoa học hợp lý không phí phạm.
Chương trình chuyến hành hương tùy nhiều ngày hay ít ngày đã dược phối hợp giữa người tổ chức chuyến đi với hãng du lịch địa phương sằp xếp chỗ ăn ở và những địa điểm thăm viếng cho thích hợp. Như trưởng hợp chuyến đi của chúng tôi tổng cộng cả ngày đi và ngày về là 10 ngày; nên những ngày còn lại để thăm viếng là bẩy ngày vì khi đi mất hai ngày và về một ngày.
Rời phi trường, chúng tôi đươc đưa tới Hotel Dan Panaroma tại Tel Aviv. Nhân tiện trên đường đi, hướng dẫn viên giới thiệu cảnh đẹp đầu tiên trên bờ Hồ Galile phía Tiberia. Mọi người xuống xe hít thở không khí, đi lại thoả mái, chụp những bức hình đầu tiên trong chuyến hành hương. Sau đó lên xe về khách sạn nghỉ ngơi tới sáu giờ chiều dùng cơm tối tại khách sạn, cũng là bữa ăn đầu tiên trên đất Do thái.
Mùa này đang mùa hè tại Houston, ngoài trời nắng găy gắt, độ ẩm cao, nên mỗi khi ra ngoài cảm thấy không thoải mái, nhưng ở Do thái mùa này cũng đang mùa hè nóng, nhưng độ ấm thấp, nên có thể đi bộ ngoài trời vẫn cảm thấy thoải mái dễ chịu. Tuy nhiên, khi đến nơi nào phải đi bộ hay lên dốc, hướng dẫn viên thường nói trước phải mang theo nước đề phòng cơ thể thiếu nước có thể bị xỉu. Khi nghe vậy ai cũng mang theo chai nưóc. Nhưng đối với người Việt mình thì điều đó không cần thiết lắm. Bản thân tôi, cũng như các anh chị em khác thấy ai cũng thủ chai nước, nhưng thực sự không thấy ai đụng đến cả. Vì suốt trong chuyến hành hương không có chỗ nào phải đi bộ hay leo dốc quá 30 phút. Có một địa điểm thăm viếng cao nhất là Pháo dài Massada, nhưng lại được đưa lên bằng xe cáp (cable car). Không cần quan tâm tới nước uống, vì trên xe bus lúc nào cũng sẵn, giá một dollar một chai Khi chúng tôi đến thăm vùng Qumran Caves, nơi những di cảo lâu đời nhất được tìm thấy, có hệ thống chứa nước sâu. Nghe nói phải đi xuống tới 180 bậc tam cấp, ai lượng sức thấy mình không xuống được có thể ở lại xe bus. Trong toán, anh Đỗ văn Quang yếu nhất nên Chị Đỗ mỹ Lộc trưởng toán hỏi anh nếu cảm thấy mình không di được thì ở lại xe. Nhưng anh nói đã đến đây thì phải đi có xỉu dọc đường cũng không sao, trong khi có mấy ngưòi khác lại thấy ngán và ở lại xe bus chờ. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì xẩy ra, anh Quang cũng như mọi người khác đều thoải mái. Như anh Quang nói rất đúng, đã đến đây thì chỗ nào cũng cần phải thăm, địa điểm nào cũng tới được, chỉ trừ người phải ngôi xe lăn đành chịu, còn tất cả mọi địa điểm đã được hãng du lịch sắp xếp đến thăm, mọi ngưòi đều có thể đến được ngay cả người phải chống nạng.
Sáng hôm sau, mọi người được đánh thức lúc 6:30 AM và tới 7:00AM ăn sáng và mang hành trang ra xe để đi thăm đầu tiên là Hải cảng Caesarea nơi có những bức tượng khoả thân của mấy vị hoàng đế La mã, ngay phía sau là hý trường khá lớn đã đưọc trùng tu một phần, nhưng về kích thước vẫn được giữ nguyên. Xa xa gần bờ biển có những trụ cẩm thạch bể gẫy nằm ngổn ngang, nhưng vẫn được duy trì nguyên vị trí để mọi người khi đến thăm sẽ thấy được trinh độ nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc của người La mã cách đây mấy ngàn năm trước
Sau đó chúng tôi tới thăm Nazareth, quê hương Đức Mẹ, khi tới nới có cảm tưởng đang ở phố Dalat, khí hậu vừa phải, không nóng lắm, đường xe lên xuống, hai bên nhà cửa chen nhau, hoa nờ rực rỡ trưóc nhà rất thơ mộng, khiến nhớ về quê ngoại. Quê hương Đức Mẹ đúng là quê ngoại của mỗi người. Tham dự Thánh Lễ do cha tuyên úy của đoàn tại Nhà thờ Truyền tin. Sau đó đến Cana tuyên hứa lại “Bí tích Hôn phối. Có những cặp vợ chồng già cuộc sống nhiều thăng trần vẫn giữ lòng chung thủy với nhau, nên khi tuyên lại những lởi hứa này đã không cầm được nhũng giọt lệ gây cho người khác nhiều xúc động và sau đó khi lên xe là một dịp trêu chọc thật vui nhộn. Nhân dịp tuyên hứa lại này mỗi cặp cũng được cấp một chứng chỉ ‘Đã tuyên hứa lại Hôn phối tại Cana.”. Đi tới khách sạn khác là Leonardo Plaza Hotel ở Tiberia và sẽ ở lại đây hai đêm.
Sáng hôm sau chúng tôi lên Núi Tabor nơi Chúa biến hình. Xe bus chỉ đi được nửa chừng và xe nhỏ sẽ đưa tiếp quãng đưởng lên tới đỉnh. Trên này có nhà thờ rất đẹp. Trời trong với nhũng gợn mây lững lờ nên chụp hình rất đẹp. Có lẽ nhiều người đã biết, nhưng cũng xin góp ý một chút vế chụp ảnh. Vì hầu hết di tich lịch sử, đặc biệt những nhà thờ, thường khi đúng chụp không đủ khoảng cách để lấy được toàn cảnh, nên cần mang theo ống kính có độ mở rộng (wide angle). Sau khi xuống núi, sẽ bơi thuyên trên Hồ Galilee sang Ginnosar thăm bảo tàng viện nơi trưng bầy chiếc thuyền được cho là Chúa đã đứng trên đó và Thánh Phêrô vâng lời Chúa thả lưới và kéo được mẻ lưới đầy cá.
Sau đó chúng tôi đi thuyền qua Hồ Galilee. Đặc biệt khi trên thuyền, vừa bắt đầu rời bến là họ mở nhạc bài Quốc ca Hoa kỳ, rồi Quốc ca Do thái. người Việt mình vì ai cũng thuộc bài quốc ca nên mọi người ca tiếp Quốc ca Việtnam ngay sau khi bài Quốc ca Do thái chấm dứt đã gây cho mọi người đầy ngạc nhiên và thích thú. Tiếp đên đi Capernaum có nhà thờ ngay tại bờ hồ. Mọi người đều lội xuống hồ nhặt đá về làm kỷ niệm và dùng bữa trưa tại nhà hàng sát bờ hồ. Mỗi người sẽ được ăn một con cá rô phi chiên cỡ hơn một pound để nhắc lại mẻ lưới cá của Thánh Phêrô. Tiếp đến đi Đồi Tabgha, nới Chúa làm phép lạ cho năm cái bánh và hai con cá để nuôi hơn 5.000 người. Rồi Nhà thờ Mensa Christy ( Bàn của Chúa) và leo lên Đồi Tám Mối Phúc thật và tham dự Thánh Lễ rồi trở về Khách sạn.
Sang ngày thứ ba đến Sông Jordan, vừa đến nơi là tham dự Thánh Lễ, sau đó là nghi thức Rửa tội trên Sông Jordan. Ngay bên bờ sông, họ xây nhiều ngăn có bậc tam cấp và tay vịn để lên xuống cho nhiều nhóm khác nhau xuống làm phép rửa. Thưòng là lội xuống nước và linh mục hay mục sư lấy nước đổ lên đầu và tuyên xưng lại nhũng điều đã hứa khi mới chịu phép rửa. Khu vực lội xuống sông hạn chế dưới đáy tráng ciment chỉ sâu nửa đầu gối và có hàng rào sắt giới hạn. Có thể ra xa giữa sông, cũng không sâu lắm, nhưng phải thuê bộ đồ trắng giá 10 đồng Do thái tính ra ba dollars. Sau đó đến khu vực khảo cổ tại địa điểm chiến lược nối kết thung lũng Jezreel vă Jordan. Ăn trưa tại công viên suối nước nóng Sachne rồi đến chân Đồi Gilboa và di chuyển đến Crowne Plazar Hotel tại Jerusalem và ở lại đây cho tới ngày về để đi thăm những nơi gần Jerusalem.
Ngày tiếp đi thăm Vườn Cày dầu. Nơi đây mọi người sẽ thấy tảng đá Chúa đã quỳ ngà mình xuống hai tay đưa ra trước cầu nguyện hiện nằm ngay nách nhà thờ, và những câu dầu (olive) cổ thụ bên cạnh hiện vẫn còn xanh tốt, nhưng được rào lại để bảo quản. Đi tiếp thăm Nhà thờ Pater Notre và Nhà thờ Mộ Đức Mẹ (Mary’s Tomb Church). Từ đây sẽ đi thăm Hang đá Belem. Hang đá Belem nằm bên kia biên giới Palestin được ngăn chia bằng bức tường xi măng cao chắc, Khi xe tới biên giới phải đổi tài xế và hướng dẫn viên du lịch người Palestin. Hang Belem là một trong cả ngàn hang đá nằm trong cánh đồng mục tử (Shepherdas’ field), là một hang rộng. Theo truyền thuyết thôi chứ cũng không chắc 100% chính là nơi Chúa đã sinh ra. Tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ gần ngay Hang Belem và rồi ăn trưa tại nột quán ăn bên Palestin.
Cũng không khí và đất sỏi đá giống Do thái, nhưng nhìn qua thấy cuộc sống khá khác nhau, kinh tế không được phát triển. ít thấy vườn hay đồn điền trồng cây. Cuộc sống có vẻ khó khăn hơn. Khi trở lại Do thái, xe được khàm xét kỹ lưỡng. An ninh Do thái lên xe và xét passport, nhưng chỉ vài người thôi. Vì xe du lịch sang Palestin nhiều nên khi trở lại cũng phải đợi hơi lâu. Sau đó trở vế lại khách sạn.
Sang ngày thứ năm, đi thăm Núi Sion, mồ Vua David, Dinh Thày cả Thượng phẩm Caipha và Phòng Tiệc ly (Upper Room). Dâng Thánh Lễ tại Nhà thờ Thánh Phêrô tại Galicanto rồi thăm Tu viện Dormition Abbey. Ăn trưa tại Jerusalem Hotel. Tiếp đến thăm Vườn Nghĩa trang (Garden Tomb), Dinh Herod, Bức Tường Than khóc. Đặc biệt hôm nay nhằm ngày Chúa nhật, nên khắp các địa điểm du lịch có rất nhiều quân nhân Do thái để họ vừa thực tập vừa giữ an ninh. Tất cả các Thanh niên Do thái không phân biệt nam nữ tới 18 tuổi đều phải nhập ngũ, nữ hai năm, nam bốn năm. Những quân nhân này rất trẻ và họ rất thân thiện nên nhiều du khách đã mời chụp hình chung. Rồi đến khu Khai quật Bức tường phía Nam (Southern Wall Excavations), và phía Nam Đền Thờ Jerusalem, phía chính dành cho dân chúng, nơi có những tam cấp dài dọc theo đền thờ dẫn từ sân nơi Chúa đã xua đuổi những người buôn bán, dẫn lên đền thờ..
Ngày tiếp thăm Hồ Bethesda, nơi theo truyền thuyết mỗi năm khi nước động, bệnh nhân nào xuống trước sẽ được khỏi bệnh và có lần Chúa đi ngang qua thấy một bệnh nhân đã nằm chờ lâu và Người đã hỏi: “Sao anh không xuống hồ để được khỏi bệnh” và anh đã trả lời khi nước động chẳng có ai khiêng tôi xuống cả. Động long thưong Chúa đã nói: “Hãy đứng dậy vác chõng mà về.” Tiếp tục đến Nhà thờ Thánh Anna, Tu viện các Sơ Zion ( Couvent of Sisters of Zion), nơi đây sẽ thấy những lối đi lát đá của Pháo đài Antonio. Tham dự chặng đường Thánh giá. Có nhiều thánh giá cho nhiều toán hành hưong khác nhau.
Khi vác thanh giá, họ yêu cầu ba người vác, tuy rất nhẹ. Hai người hai cánh còn người thứ ba cầm phía cuối thánh giá, và lần lượt thay từng ba người một cho mỗi chặng. Mục đích để nhiều người được chạm đến thánh giá. Đường thánh giá nằm ngay khu thương mại, đường hẹp giữa hai bên là những cửa tiệm bán hầu hết là hàng lưu niệm hay những vật dụng cho du lịch như valy, giầy dép, túi xách tay. Rồi đến nơi táng xác Chúa. Bên cạnh nơi táng xác truyền thống được Công giáo và Chính thống giáo công nhận lâu đời, lại còn có nơi táng xác mới của người Tin lành. Họ chỉ về sườn Núi sọ có ba lỗ hõm vào và nhỉn xa như hình chiếc đầu lâu và họ cho đó chính là lý do tại sao lại có tên là Núi Sọ. Thực ra thì sườn núi với những chỗ lồi lõm cả ngàn năm qua mưa gió thay đổi nên thấy không có gì chính xác cà. Họ cũng xây dựng thành một khu vườn cây cối xanh tươi mát mẻ, nên thơ, rất đẹp.
Ngày áp chót đi thăm hang người xưa đã giấu những di cảo viét trên da dê cừu ở những hang hốc lưng chừng núi để tránh lụt làm hư hại và ngày nay vì tình cờ người ta đã khám phá ra. Ngay chân núi là cả một hệ thống chứa nước và nhà tắm. Nhìn thấy núi trọc và cả một khu cằn cỗi chung quanh người ta tự hỏi với môi trường như vậy sao người ta sống được. Nhưng quan sát cuộc sống của người Do thái bây giờ và những gì chúng ta biết về họ, thì thấy đúng là có luật bù trừ. Từ đầu họ đã phải sinh sống trên những mảnh đất khô cằn nên họ cũng được phú cho đức tinh kiên nhẫn, chịu đựng và sáng tạo. Người Do thái hay gốc Do thái dẫn đầu về những phát minh khoa học làm thay đổi cuộc sống Theo ông hưóng dân cho hay hiện họ đang cố vấn cho Tiểu bang Texas về nông nghiệp. Nhân tiện đây cũng xin nhắc lại câu của Tướng Moss Dayan khi thăm Việtnam mùa hè năm 1972 đã nói: “Muốn thắng Cộng sản, phải đê Miền Nam thua Cộng sản trước.” Cộng sản đã thắng Miền Nam năm 1975, và ngày hôm nay mọi người đều thấy CS đang thua. Cái thua đầu tiên là kinh tế phải đổi mới. Từ nay cho tới khi thay đổi chình trị hy vọng cũng không còn lâu nữa.
Sau đó dùng cơm trưa và trên đường về đi thăm Emmaus và dấu tích đổ nát của nhà thờ thời Byzantine đã được xây cất tại đây.
Ngày sau cùng là thăm Pháo đài Masada, nằm cao trên núi đưa lên bằng xe cáp. Truyện kể sau khi Người La mã đã chính phục mọi nơi của Do thái, chỉ còn Pháo dài Masada. Quân trú phòng trên dưói 1.000 người không biết có tính luôn gia đình họ hay không. Trên này có cả một hệ thống chứa nước, không biết rõ vấn đề lương thực như thế nào, người hướng dân cho hay họ đã trồng rau và cây lương thực trên này. Nhưng nhìn quanh thấy thật khó để thấy được nguồn lương thực nuôi sống 1.000 người trong vòng năm năm. Quân La mã gồm 5.000 quân với 25.000 nô lệ đã bao vây năm năm mới chiếm được. Khi gần thất trận, những người Do thái đã tình nguyện chết tất cả. Vì nếu bị bắt sống thỉ tất cả đàn ông sẽ bị đóng đinh, đàn bà sẽ bị bắt để phục vụ sinh lý, còn trẻ con sẽ trở thành nô lệ. Những phụ nữ tình nguyện chết trước vì họ sẽ không thể chịu đựng được khi chứng kiến con mình bị chém., tiếp đến là trẻ em. Rồi đến quân nhân từ cấp thấp nhất, cứ nhũng cấp cao hơn giết cấp dưới kế tiếp, và sau cùng là vị tướng chỉ huy sẽ rút gươm tự kết liễu đời mình. Nhưng họ vẫn để lại lương thực để chứng tỏ cho người La mã biết rằng họ chết vì muốn sống tự do chứ không phải vì thiếu thực phẩm.
Khi người La mã lên chiếm thấy mọi người đã chết, tuy nhiên còn một phụ nữ sống sót và câu chuyện được thuật lại. Một sử gia La mã nhưng gốc Do thái đã tường thuật lại rất chi tiết sự kiện này. Để hun đúc ý chí trung thành bảo vệ tổ quốc và nhất là tự do, tất cả thanh niên Do thái sau khi tốt nghiệp quân trường đều phải lên đây để tuyên lời thề trung thành bảo vệ tổ quốc.
Xuống khỏi pháo đài, mọi người được đưa ra tắm tại Biển Chết (Dead Sea) ăn thông giữa Do thái và Jordan, chung quanh núi cao bao bọc nên nưóc chứa rất nhiều khoáng chất và rất mặn. Được quảng cáo là bùn ở đây dùng bôi lên da sẽ làm cho da dẻ mịn màng tươi trẻ, nên bất cứ ai đến tắm ở đây đều trát đầy bùn lên mặt và tất cả mọi phần da hở ra trên cơ thể. Mọi ngưòi không quên lấy keo lọ hay nhất là những bình chứa nước phở “to go” vì miệng lớn dễ cho bùn vô để mang về. Gần đó cũng có cửa tiệm bán mỹ phẩm chế biến từ bùn Biển Chết giá rất mắc. Nguyên mỹ phẩm sản xuất bằng bùn Biển Chết cũng mang lại lợi tức cho Do thái ba tỷ mỹ kim hằng năm.
Thế là kết thục cuộc hành hương kéo dài bảy ngày. Trong cuộc hành hưong này, người ta lưu ý về tiền dâng cúng những nơi tham dự Thánh Lễ, hay tặng cho những cơ quan bảo quản di sản tôn giáo để có phương tiện duy trì được lâu dài. Ngoài ra cũng có thời giờ dành để shopping. Ngoài những kỷ vật tôn giáo nhu ảnh tượng, tràng hạt, quần áo. Nhưng đáng kể nhất là nữ trang. Chỉ Do thái mới có Đá King Salomon, rất đẹp làm dây chuyền, bông tai, vòng đeo tay. Nhưng phải cẩn thận trả giá. Vì họ nói giá rất trời ơi, gấp hai hay ba là chuyện bình thường. Có một vòng đeo cổ bằng đá Vua Salomon, họ nói 800 dollars, nhưng họ đã bán với giá chỉ có 400 dollars. Tuy nhìên cũng phải tới lui cả gần tiếng đông hồ. Điều quan trọng là phải tỏ ra có bán với giá đó thì mua không thì thôi không cần thiết lắm.
Điều sau cùng muốn được chia sẻ là người đưa chúng ta đi (Tour leader) là người hướng dẫn chúng ta đi ngay từ Mỹ tới Do thái, tức người thu tiền, lo máy bay, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho mọi người trong suốt cuộc hành hương. Trước khi đi nên hỏi những người đi trước để biết rõ người hướng dẫn này là ai, tính tình thế nào, có kiến nhẫn, hoà nhã hay dễ nổi giận la lối sẽ làm cho cuộc hành hương mất đi nhiều ý nghĩa. Khi tới một nơi, ai cũng muốn chụp hình. Đã đành bất cứ địa điểm nào nổi tiếng trên thế giới ngày nay không phải riêng gì “Đất Thánh” cũng có tràn lan hình ảnh do những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp. Chỉ cần mở internet, kích “Images”, rồi đánh tên địa điểm và bấm vào “Search” là có đầy đủ hình ảnh đẹp hiện lên. Nhưng chắc chắn những hình ảnh này không thể so sánh với những tấm ảnh chúng ta đích thân chụp những nơi chúng ta đã từng đặt chân tới dầu xấu chăng nữa. Vì mỗi khi có dịp coi lại những tấm hình đó sẽ nhắc lại cho mình những giây phút sống động quý giá mà chính mình đã trải nghiệm, nên phải có ít phút dành cho chúng ta quay phim và chụp ảnh. Không thể la lối và nói những ảnh này không cần thiết người ta bán khắp nơi. Tuy nhiên mỗi người cũng cần lưu ý thì giờ chúng của mọi người, và cũng phải luôn canh chừng nơi đất khách quê người, xa lạ dễ bị thất lạc. Còn khi vào những nơi shopping, chúng ta muốn mua gì là quyền của mình, người hướng dẫn chỉ nên cho ý kiến mua thứ nào ở đây hay nơi nào khác tốt và được giá hơn chứ không có quyền bắt chúng ta chỉ được mua thứ này hay thứ nọ ở một chỗ họ chỉ định sẵn mà thôi. Những chuyện sắp xếp ví lợi ích cá nhân với cửa hàng là tối kỵ.
Trên đây là những điều chia sẽ với những ai có ý định sẽ “Hành Hương Đất Thánh”. Hy vọng mỗi người hành hương có được một chuyến hành hương hạnh phúc thoải mái, những kinh nghiệm quý giá để bồi bổ Đúc Tin và làm cho cuộc sống thường ngày trở nên phong phú hơn.
Là người lần đầu đi hành hương “Đất Thánh”tôi muốn nói lên đôi chút kinh nghiệm qua chuyến đi này hy vọng góp thêm một chút kiến thức cho những ai có ý định Hành hương Đất thánh.
Câu nói của ông hướng dẫn (tour guider): “Nước nào cũng có người bước chân tới Thành địa hoặc đi du lịch, hoặc đi chiêm niệm hay cầu nguyện và mong chứng kiến những chặng đường Đấng Cứu thế đã đi qua, trừ ra chỉ còn mỗi Cuba là chưa có ai tới đây cả.”
Ông cũng nói đùa: “Quý vị có biết tại sao người Do thái dùng nhiều cellphone không. Bởi vì các nơi khác trên thế giới gọi cellphone cho Chúa, phài tính longdistance rất tốn kém, nhưng nếu gọi tại Do thái sẽ tính giá local rất dẻ.”
![]() |
| Thành phố Jesusalem về đêm |
Vì thế số người hành hương đến Do thái nườm nượp mỗi ngày. Đi tới bất cừ đia điểm nào cũng nhiều phái đoàn, đông người. Á châu thường gồm Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Phi luật tân. Còn các nước Âu châu không kể những nước như Pháp, Đức, Balan, Thụy điển, Na uy, Đan mạch, nhưng ngay cả người Nga cũng đến đây, vì có rất nhiều nhà thờ Chính thống giáo ngay tại Giêrusalem. Các nhà thờ Công gíáo, Tin lành, Chính thống giáo, hay Hồi giáo xen kẻ khắp Do thái. Chỉ tại một địa điểm hành hương thôi cũng có những nhà thờ của các tôn giáo khác cùng được xây dựng. Đặc biệt là thời gian xung khắc giữa Hồi giáo và Công giáo gọi là “Thời Kỳ Thập tự chính (Crusader)”, có nhà thờ Công giáo bị phá đi và xây nhà thờ Hồi giáo lên hay ngược lại.
Khi đi hành hương thường là đi theo toán, có người hướng dẫn, vấn đề tài chánh và thời gian cho một chuyến đi rất khác nhau, nên giá cả cũng rất khác nhau. Dĩ nhiên những người từ Âu châu đến chi phí sẽ đỡ tốn kém hơn những người từ Mỹ châu hay những nơi khác. Nhưng cùng ở Hoa kỳ giá cũng rất khác nhau tuỳ theo mỗi Tiểu bang. Cụ thể tại Houston, chi phí cho chuyến hành hương này trên dưới $300.00/ một ngày gồm chi phí di chuyển, hotel và ăn uống. Hotel bốn sao, và ngày hai bữa sáng tối đều buffet rất thịnh soạn, còn trưa ăn ở restaurant gần những địa điểm hành hương.
Đoàn chúng tôi gồm 25 người đi cùng phái đoàn người Mễ cũng gồm 25 người khởi hành từ Houston lúc 8:55 AM đến New Newark lúc 1:35 PM và sang máy bay lớn lẽ ra cất cánh lúc 4:00 PM nhưng phải hoãn mất hai tiếng đồng hồ. Mọi người chờ đợi tại sân bay không biết lý do nên cũng áy náy. Vì máy bay về vùng này dầu chẳng có gì nhưng cũng hơi ngại. Nhưng khi máy bay cất cánh rồi mới rõ lý do hoãn vì bão và chúng tôi đã tới Phi trường Tel Aviv lúc hơn 11 giờ sáng hôm sau. Rời Phi trường trên đường tới khách sạn, hướng dẫn viên tranh thủ giới thiệu cảnh đầu tiên trong chuyến đi là bờ Hồ Tibêria. mọi người xuống xe ngắm cảnh chụp hình khoảng nửa tiếng, sau đó về khách sạn Dan Panorama Hotel tắm rửa nghỉ ngơi tới sáu giờ chiều ăm cơm tối chuẩn bị ngày tới.
Nước Do thái rộng 20,770 kilometers vưông với dân số gần 8.000.000 người. Khí hậu pha trộn Địa trung Hài, và sa mạc, gió nhiều, nóng và ít mưa. Riêng Jerusalem mỗi năm có mấy ngày tuyết rơi. Cây cối đặc trưng của Do thái ngoài cây olive được trồng khắp nơi, vừa là cây cảnh vừa là cây ăn trái. Loại cây này không cao sống trên đất khô cằn và rất thọ. Những cây olives tại vườn Jessemani cách nay hơn 2.000 năm, nơi Chúa Cứu Giêsu vào cầu nguyện trước khi nộp mình chịu chết, ngày nay vẫn tươi tốt; rồi đến cây chà là. Người ta còn thấy cây bông giấy hoa rực rỡ khắp nơi. Người Do thái cũng trồng nhiều cây lựu làm cảnh trước nhà hay quanh những khu thương mại. Giao thông: những freeway xây dựng cũng giống bên Hoa kỳ, hai chiều phân biệt. Ngoài xe hơi tư nhân, đa số dân chúng dùng xe bus để đi lại, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe đạp, nên không có vấn đề tắc nghẽn giao thông. Nói chung việc di chuyển rất thoải mái. Về kiến trúc: Những kiến trúc gắn liền với truyền thống tôn giáo nên được bảo trì rất kỹ. Những hòn đá hay những chiếc cột đá gẫy vỡ vẫn được giữ nguyên, nếu có rời chỗ hay sửa chữa hay trùng tu phải được đánh dấu cẩn thận và thường những hướng dẫn viên du lịch giải thích một cách tường tận. Kiến trúc nguyên thủy do ai xây cất và được xây cất từ năm nào.
Vê nông nghiệp: Tuy đất đai khô cằn sỏi đá, nhưng người Do thái không những tự túc về lương thực và còn dư để xuất khẩu. Ngoài ngũ cốc, họ còn trồng đủ lại cây ăn trái gồm những loại cây ôn đới như nho táo, mận, đào hay những lại cây nhiệt đới, như dưa hấu, soài, chuối. Hai bên đường đi thấy rất nhiều green houses trồng soài và chuối. Green house mái vòng cung để khi nước bốc hơi đọng thành giọt sẽ chảy trở lại ngay.
Mọi cây lớn nhỏ, ăn trái hay chỉ làm cảnh đều có một ống dẫn nước nhỏ đặt sâu tới tận rễ, nên tưới tốn rất ít nước mà cây cối lúc nào cũng xanh tốt. Sống tại Do thái mới ý thức được giá trị của giọt nước và cách bảo quản va dùng nước một cách hợp lý. Sinh ra tại Việtnam, khí hậu nhiệt đới, chỗ nào cũng có sông ngòi, ao hồ; khi qua định cự tại Mỹ hay những quốc gia có đời sống cao, nước dùng không bao giờ bị hạn chế nên không có ý niệm giá trị của giọt nước. Nhưng tại Do thái, ngay từ nhỏ, mọi người đã quen với sự trân quý nước, nên dùng nước ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, tưới cây rất khoa học hợp lý không phí phạm.
Chương trình chuyến hành hương tùy nhiều ngày hay ít ngày đã dược phối hợp giữa người tổ chức chuyến đi với hãng du lịch địa phương sằp xếp chỗ ăn ở và những địa điểm thăm viếng cho thích hợp. Như trưởng hợp chuyến đi của chúng tôi tổng cộng cả ngày đi và ngày về là 10 ngày; nên những ngày còn lại để thăm viếng là bẩy ngày vì khi đi mất hai ngày và về một ngày.
Rời phi trường, chúng tôi đươc đưa tới Hotel Dan Panaroma tại Tel Aviv. Nhân tiện trên đường đi, hướng dẫn viên giới thiệu cảnh đẹp đầu tiên trên bờ Hồ Galile phía Tiberia. Mọi người xuống xe hít thở không khí, đi lại thoả mái, chụp những bức hình đầu tiên trong chuyến hành hương. Sau đó lên xe về khách sạn nghỉ ngơi tới sáu giờ chiều dùng cơm tối tại khách sạn, cũng là bữa ăn đầu tiên trên đất Do thái.
![]() |
| Từ Tiberia nhìn qua Hồ Galile sang Jerusalem |
Mùa này đang mùa hè tại Houston, ngoài trời nắng găy gắt, độ ẩm cao, nên mỗi khi ra ngoài cảm thấy không thoải mái, nhưng ở Do thái mùa này cũng đang mùa hè nóng, nhưng độ ấm thấp, nên có thể đi bộ ngoài trời vẫn cảm thấy thoải mái dễ chịu. Tuy nhiên, khi đến nơi nào phải đi bộ hay lên dốc, hướng dẫn viên thường nói trước phải mang theo nước đề phòng cơ thể thiếu nước có thể bị xỉu. Khi nghe vậy ai cũng mang theo chai nưóc. Nhưng đối với người Việt mình thì điều đó không cần thiết lắm. Bản thân tôi, cũng như các anh chị em khác thấy ai cũng thủ chai nước, nhưng thực sự không thấy ai đụng đến cả. Vì suốt trong chuyến hành hương không có chỗ nào phải đi bộ hay leo dốc quá 30 phút. Có một địa điểm thăm viếng cao nhất là Pháo dài Massada, nhưng lại được đưa lên bằng xe cáp (cable car). Không cần quan tâm tới nước uống, vì trên xe bus lúc nào cũng sẵn, giá một dollar một chai Khi chúng tôi đến thăm vùng Qumran Caves, nơi những di cảo lâu đời nhất được tìm thấy, có hệ thống chứa nước sâu. Nghe nói phải đi xuống tới 180 bậc tam cấp, ai lượng sức thấy mình không xuống được có thể ở lại xe bus. Trong toán, anh Đỗ văn Quang yếu nhất nên Chị Đỗ mỹ Lộc trưởng toán hỏi anh nếu cảm thấy mình không di được thì ở lại xe. Nhưng anh nói đã đến đây thì phải đi có xỉu dọc đường cũng không sao, trong khi có mấy ngưòi khác lại thấy ngán và ở lại xe bus chờ. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì xẩy ra, anh Quang cũng như mọi người khác đều thoải mái. Như anh Quang nói rất đúng, đã đến đây thì chỗ nào cũng cần phải thăm, địa điểm nào cũng tới được, chỉ trừ người phải ngôi xe lăn đành chịu, còn tất cả mọi địa điểm đã được hãng du lịch sắp xếp đến thăm, mọi ngưòi đều có thể đến được ngay cả người phải chống nạng.
Sáng hôm sau, mọi người được đánh thức lúc 6:30 AM và tới 7:00AM ăn sáng và mang hành trang ra xe để đi thăm đầu tiên là Hải cảng Caesarea nơi có những bức tượng khoả thân của mấy vị hoàng đế La mã, ngay phía sau là hý trường khá lớn đã đưọc trùng tu một phần, nhưng về kích thước vẫn được giữ nguyên. Xa xa gần bờ biển có những trụ cẩm thạch bể gẫy nằm ngổn ngang, nhưng vẫn được duy trì nguyên vị trí để mọi người khi đến thăm sẽ thấy được trinh độ nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc của người La mã cách đây mấy ngàn năm trước
![]() |
| Tượng Hoàng đế Lamã tại bờ Biển Caesarea |
Sau đó chúng tôi tới thăm Nazareth, quê hương Đức Mẹ, khi tới nới có cảm tưởng đang ở phố Dalat, khí hậu vừa phải, không nóng lắm, đường xe lên xuống, hai bên nhà cửa chen nhau, hoa nờ rực rỡ trưóc nhà rất thơ mộng, khiến nhớ về quê ngoại. Quê hương Đức Mẹ đúng là quê ngoại của mỗi người. Tham dự Thánh Lễ do cha tuyên úy của đoàn tại Nhà thờ Truyền tin. Sau đó đến Cana tuyên hứa lại “Bí tích Hôn phối. Có những cặp vợ chồng già cuộc sống nhiều thăng trần vẫn giữ lòng chung thủy với nhau, nên khi tuyên lại những lởi hứa này đã không cầm được nhũng giọt lệ gây cho người khác nhiều xúc động và sau đó khi lên xe là một dịp trêu chọc thật vui nhộn. Nhân dịp tuyên hứa lại này mỗi cặp cũng được cấp một chứng chỉ ‘Đã tuyên hứa lại Hôn phối tại Cana.”. Đi tới khách sạn khác là Leonardo Plaza Hotel ở Tiberia và sẽ ở lại đây hai đêm.
Sáng hôm sau chúng tôi lên Núi Tabor nơi Chúa biến hình. Xe bus chỉ đi được nửa chừng và xe nhỏ sẽ đưa tiếp quãng đưởng lên tới đỉnh. Trên này có nhà thờ rất đẹp. Trời trong với nhũng gợn mây lững lờ nên chụp hình rất đẹp. Có lẽ nhiều người đã biết, nhưng cũng xin góp ý một chút vế chụp ảnh. Vì hầu hết di tich lịch sử, đặc biệt những nhà thờ, thường khi đúng chụp không đủ khoảng cách để lấy được toàn cảnh, nên cần mang theo ống kính có độ mở rộng (wide angle). Sau khi xuống núi, sẽ bơi thuyên trên Hồ Galilee sang Ginnosar thăm bảo tàng viện nơi trưng bầy chiếc thuyền được cho là Chúa đã đứng trên đó và Thánh Phêrô vâng lời Chúa thả lưới và kéo được mẻ lưới đầy cá.
![]() |
| Chiếc thuyền được cho là của Thánh Phêrô |
Sau đó chúng tôi đi thuyền qua Hồ Galilee. Đặc biệt khi trên thuyền, vừa bắt đầu rời bến là họ mở nhạc bài Quốc ca Hoa kỳ, rồi Quốc ca Do thái. người Việt mình vì ai cũng thuộc bài quốc ca nên mọi người ca tiếp Quốc ca Việtnam ngay sau khi bài Quốc ca Do thái chấm dứt đã gây cho mọi người đầy ngạc nhiên và thích thú. Tiếp đên đi Capernaum có nhà thờ ngay tại bờ hồ. Mọi người đều lội xuống hồ nhặt đá về làm kỷ niệm và dùng bữa trưa tại nhà hàng sát bờ hồ. Mỗi người sẽ được ăn một con cá rô phi chiên cỡ hơn một pound để nhắc lại mẻ lưới cá của Thánh Phêrô. Tiếp đến đi Đồi Tabgha, nới Chúa làm phép lạ cho năm cái bánh và hai con cá để nuôi hơn 5.000 người. Rồi Nhà thờ Mensa Christy ( Bàn của Chúa) và leo lên Đồi Tám Mối Phúc thật và tham dự Thánh Lễ rồi trở về Khách sạn.
Sang ngày thứ ba đến Sông Jordan, vừa đến nơi là tham dự Thánh Lễ, sau đó là nghi thức Rửa tội trên Sông Jordan. Ngay bên bờ sông, họ xây nhiều ngăn có bậc tam cấp và tay vịn để lên xuống cho nhiều nhóm khác nhau xuống làm phép rửa. Thưòng là lội xuống nước và linh mục hay mục sư lấy nước đổ lên đầu và tuyên xưng lại nhũng điều đã hứa khi mới chịu phép rửa. Khu vực lội xuống sông hạn chế dưới đáy tráng ciment chỉ sâu nửa đầu gối và có hàng rào sắt giới hạn. Có thể ra xa giữa sông, cũng không sâu lắm, nhưng phải thuê bộ đồ trắng giá 10 đồng Do thái tính ra ba dollars. Sau đó đến khu vực khảo cổ tại địa điểm chiến lược nối kết thung lũng Jezreel vă Jordan. Ăn trưa tại công viên suối nước nóng Sachne rồi đến chân Đồi Gilboa và di chuyển đến Crowne Plazar Hotel tại Jerusalem và ở lại đây cho tới ngày về để đi thăm những nơi gần Jerusalem.
Ngày tiếp đi thăm Vườn Cày dầu. Nơi đây mọi người sẽ thấy tảng đá Chúa đã quỳ ngà mình xuống hai tay đưa ra trước cầu nguyện hiện nằm ngay nách nhà thờ, và những câu dầu (olive) cổ thụ bên cạnh hiện vẫn còn xanh tốt, nhưng được rào lại để bảo quản. Đi tiếp thăm Nhà thờ Pater Notre và Nhà thờ Mộ Đức Mẹ (Mary’s Tomb Church). Từ đây sẽ đi thăm Hang đá Belem. Hang đá Belem nằm bên kia biên giới Palestin được ngăn chia bằng bức tường xi măng cao chắc, Khi xe tới biên giới phải đổi tài xế và hướng dẫn viên du lịch người Palestin. Hang Belem là một trong cả ngàn hang đá nằm trong cánh đồng mục tử (Shepherdas’ field), là một hang rộng. Theo truyền thuyết thôi chứ cũng không chắc 100% chính là nơi Chúa đã sinh ra. Tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ gần ngay Hang Belem và rồi ăn trưa tại nột quán ăn bên Palestin.
Cũng không khí và đất sỏi đá giống Do thái, nhưng nhìn qua thấy cuộc sống khá khác nhau, kinh tế không được phát triển. ít thấy vườn hay đồn điền trồng cây. Cuộc sống có vẻ khó khăn hơn. Khi trở lại Do thái, xe được khàm xét kỹ lưỡng. An ninh Do thái lên xe và xét passport, nhưng chỉ vài người thôi. Vì xe du lịch sang Palestin nhiều nên khi trở lại cũng phải đợi hơi lâu. Sau đó trở vế lại khách sạn.
![]() |
| Vườn Cây Dầu |
Sang ngày thứ năm, đi thăm Núi Sion, mồ Vua David, Dinh Thày cả Thượng phẩm Caipha và Phòng Tiệc ly (Upper Room). Dâng Thánh Lễ tại Nhà thờ Thánh Phêrô tại Galicanto rồi thăm Tu viện Dormition Abbey. Ăn trưa tại Jerusalem Hotel. Tiếp đến thăm Vườn Nghĩa trang (Garden Tomb), Dinh Herod, Bức Tường Than khóc. Đặc biệt hôm nay nhằm ngày Chúa nhật, nên khắp các địa điểm du lịch có rất nhiều quân nhân Do thái để họ vừa thực tập vừa giữ an ninh. Tất cả các Thanh niên Do thái không phân biệt nam nữ tới 18 tuổi đều phải nhập ngũ, nữ hai năm, nam bốn năm. Những quân nhân này rất trẻ và họ rất thân thiện nên nhiều du khách đã mời chụp hình chung. Rồi đến khu Khai quật Bức tường phía Nam (Southern Wall Excavations), và phía Nam Đền Thờ Jerusalem, phía chính dành cho dân chúng, nơi có những tam cấp dài dọc theo đền thờ dẫn từ sân nơi Chúa đã xua đuổi những người buôn bán, dẫn lên đền thờ..
Ngày tiếp thăm Hồ Bethesda, nơi theo truyền thuyết mỗi năm khi nước động, bệnh nhân nào xuống trước sẽ được khỏi bệnh và có lần Chúa đi ngang qua thấy một bệnh nhân đã nằm chờ lâu và Người đã hỏi: “Sao anh không xuống hồ để được khỏi bệnh” và anh đã trả lời khi nước động chẳng có ai khiêng tôi xuống cả. Động long thưong Chúa đã nói: “Hãy đứng dậy vác chõng mà về.” Tiếp tục đến Nhà thờ Thánh Anna, Tu viện các Sơ Zion ( Couvent of Sisters of Zion), nơi đây sẽ thấy những lối đi lát đá của Pháo đài Antonio. Tham dự chặng đường Thánh giá. Có nhiều thánh giá cho nhiều toán hành hưong khác nhau.
Khi vác thanh giá, họ yêu cầu ba người vác, tuy rất nhẹ. Hai người hai cánh còn người thứ ba cầm phía cuối thánh giá, và lần lượt thay từng ba người một cho mỗi chặng. Mục đích để nhiều người được chạm đến thánh giá. Đường thánh giá nằm ngay khu thương mại, đường hẹp giữa hai bên là những cửa tiệm bán hầu hết là hàng lưu niệm hay những vật dụng cho du lịch như valy, giầy dép, túi xách tay. Rồi đến nơi táng xác Chúa. Bên cạnh nơi táng xác truyền thống được Công giáo và Chính thống giáo công nhận lâu đời, lại còn có nơi táng xác mới của người Tin lành. Họ chỉ về sườn Núi sọ có ba lỗ hõm vào và nhỉn xa như hình chiếc đầu lâu và họ cho đó chính là lý do tại sao lại có tên là Núi Sọ. Thực ra thì sườn núi với những chỗ lồi lõm cả ngàn năm qua mưa gió thay đổi nên thấy không có gì chính xác cà. Họ cũng xây dựng thành một khu vườn cây cối xanh tươi mát mẻ, nên thơ, rất đẹp.
![]() |
| Người Tin lành nói có tên Núi Sọ vì hình này |
Ngày áp chót đi thăm hang người xưa đã giấu những di cảo viét trên da dê cừu ở những hang hốc lưng chừng núi để tránh lụt làm hư hại và ngày nay vì tình cờ người ta đã khám phá ra. Ngay chân núi là cả một hệ thống chứa nước và nhà tắm. Nhìn thấy núi trọc và cả một khu cằn cỗi chung quanh người ta tự hỏi với môi trường như vậy sao người ta sống được. Nhưng quan sát cuộc sống của người Do thái bây giờ và những gì chúng ta biết về họ, thì thấy đúng là có luật bù trừ. Từ đầu họ đã phải sinh sống trên những mảnh đất khô cằn nên họ cũng được phú cho đức tinh kiên nhẫn, chịu đựng và sáng tạo. Người Do thái hay gốc Do thái dẫn đầu về những phát minh khoa học làm thay đổi cuộc sống Theo ông hưóng dân cho hay hiện họ đang cố vấn cho Tiểu bang Texas về nông nghiệp. Nhân tiện đây cũng xin nhắc lại câu của Tướng Moss Dayan khi thăm Việtnam mùa hè năm 1972 đã nói: “Muốn thắng Cộng sản, phải đê Miền Nam thua Cộng sản trước.” Cộng sản đã thắng Miền Nam năm 1975, và ngày hôm nay mọi người đều thấy CS đang thua. Cái thua đầu tiên là kinh tế phải đổi mới. Từ nay cho tới khi thay đổi chình trị hy vọng cũng không còn lâu nữa.
Sau đó dùng cơm trưa và trên đường về đi thăm Emmaus và dấu tích đổ nát của nhà thờ thời Byzantine đã được xây cất tại đây.
Ngày sau cùng là thăm Pháo đài Masada, nằm cao trên núi đưa lên bằng xe cáp. Truyện kể sau khi Người La mã đã chính phục mọi nơi của Do thái, chỉ còn Pháo dài Masada. Quân trú phòng trên dưói 1.000 người không biết có tính luôn gia đình họ hay không. Trên này có cả một hệ thống chứa nước, không biết rõ vấn đề lương thực như thế nào, người hướng dân cho hay họ đã trồng rau và cây lương thực trên này. Nhưng nhìn quanh thấy thật khó để thấy được nguồn lương thực nuôi sống 1.000 người trong vòng năm năm. Quân La mã gồm 5.000 quân với 25.000 nô lệ đã bao vây năm năm mới chiếm được. Khi gần thất trận, những người Do thái đã tình nguyện chết tất cả. Vì nếu bị bắt sống thỉ tất cả đàn ông sẽ bị đóng đinh, đàn bà sẽ bị bắt để phục vụ sinh lý, còn trẻ con sẽ trở thành nô lệ. Những phụ nữ tình nguyện chết trước vì họ sẽ không thể chịu đựng được khi chứng kiến con mình bị chém., tiếp đến là trẻ em. Rồi đến quân nhân từ cấp thấp nhất, cứ nhũng cấp cao hơn giết cấp dưới kế tiếp, và sau cùng là vị tướng chỉ huy sẽ rút gươm tự kết liễu đời mình. Nhưng họ vẫn để lại lương thực để chứng tỏ cho người La mã biết rằng họ chết vì muốn sống tự do chứ không phải vì thiếu thực phẩm.
Khi người La mã lên chiếm thấy mọi người đã chết, tuy nhiên còn một phụ nữ sống sót và câu chuyện được thuật lại. Một sử gia La mã nhưng gốc Do thái đã tường thuật lại rất chi tiết sự kiện này. Để hun đúc ý chí trung thành bảo vệ tổ quốc và nhất là tự do, tất cả thanh niên Do thái sau khi tốt nghiệp quân trường đều phải lên đây để tuyên lời thề trung thành bảo vệ tổ quốc.
![]() |
| Nữ quân nhân Do thái chụp hình với du khách |
Xuống khỏi pháo đài, mọi người được đưa ra tắm tại Biển Chết (Dead Sea) ăn thông giữa Do thái và Jordan, chung quanh núi cao bao bọc nên nưóc chứa rất nhiều khoáng chất và rất mặn. Được quảng cáo là bùn ở đây dùng bôi lên da sẽ làm cho da dẻ mịn màng tươi trẻ, nên bất cứ ai đến tắm ở đây đều trát đầy bùn lên mặt và tất cả mọi phần da hở ra trên cơ thể. Mọi ngưòi không quên lấy keo lọ hay nhất là những bình chứa nước phở “to go” vì miệng lớn dễ cho bùn vô để mang về. Gần đó cũng có cửa tiệm bán mỹ phẩm chế biến từ bùn Biển Chết giá rất mắc. Nguyên mỹ phẩm sản xuất bằng bùn Biển Chết cũng mang lại lợi tức cho Do thái ba tỷ mỹ kim hằng năm.
Thế là kết thục cuộc hành hương kéo dài bảy ngày. Trong cuộc hành hưong này, người ta lưu ý về tiền dâng cúng những nơi tham dự Thánh Lễ, hay tặng cho những cơ quan bảo quản di sản tôn giáo để có phương tiện duy trì được lâu dài. Ngoài ra cũng có thời giờ dành để shopping. Ngoài những kỷ vật tôn giáo nhu ảnh tượng, tràng hạt, quần áo. Nhưng đáng kể nhất là nữ trang. Chỉ Do thái mới có Đá King Salomon, rất đẹp làm dây chuyền, bông tai, vòng đeo tay. Nhưng phải cẩn thận trả giá. Vì họ nói giá rất trời ơi, gấp hai hay ba là chuyện bình thường. Có một vòng đeo cổ bằng đá Vua Salomon, họ nói 800 dollars, nhưng họ đã bán với giá chỉ có 400 dollars. Tuy nhìên cũng phải tới lui cả gần tiếng đông hồ. Điều quan trọng là phải tỏ ra có bán với giá đó thì mua không thì thôi không cần thiết lắm.
Điều sau cùng muốn được chia sẻ là người đưa chúng ta đi (Tour leader) là người hướng dẫn chúng ta đi ngay từ Mỹ tới Do thái, tức người thu tiền, lo máy bay, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho mọi người trong suốt cuộc hành hương. Trước khi đi nên hỏi những người đi trước để biết rõ người hướng dẫn này là ai, tính tình thế nào, có kiến nhẫn, hoà nhã hay dễ nổi giận la lối sẽ làm cho cuộc hành hương mất đi nhiều ý nghĩa. Khi tới một nơi, ai cũng muốn chụp hình. Đã đành bất cứ địa điểm nào nổi tiếng trên thế giới ngày nay không phải riêng gì “Đất Thánh” cũng có tràn lan hình ảnh do những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp. Chỉ cần mở internet, kích “Images”, rồi đánh tên địa điểm và bấm vào “Search” là có đầy đủ hình ảnh đẹp hiện lên. Nhưng chắc chắn những hình ảnh này không thể so sánh với những tấm ảnh chúng ta đích thân chụp những nơi chúng ta đã từng đặt chân tới dầu xấu chăng nữa. Vì mỗi khi có dịp coi lại những tấm hình đó sẽ nhắc lại cho mình những giây phút sống động quý giá mà chính mình đã trải nghiệm, nên phải có ít phút dành cho chúng ta quay phim và chụp ảnh. Không thể la lối và nói những ảnh này không cần thiết người ta bán khắp nơi. Tuy nhiên mỗi người cũng cần lưu ý thì giờ chúng của mọi người, và cũng phải luôn canh chừng nơi đất khách quê người, xa lạ dễ bị thất lạc. Còn khi vào những nơi shopping, chúng ta muốn mua gì là quyền của mình, người hướng dẫn chỉ nên cho ý kiến mua thứ nào ở đây hay nơi nào khác tốt và được giá hơn chứ không có quyền bắt chúng ta chỉ được mua thứ này hay thứ nọ ở một chỗ họ chỉ định sẵn mà thôi. Những chuyện sắp xếp ví lợi ích cá nhân với cửa hàng là tối kỵ.
Trên đây là những điều chia sẽ với những ai có ý định sẽ “Hành Hương Đất Thánh”. Hy vọng mỗi người hành hương có được một chuyến hành hương hạnh phúc thoải mái, những kinh nghiệm quý giá để bồi bổ Đúc Tin và làm cho cuộc sống thường ngày trở nên phong phú hơn.






