LỄ THÁNH ANPHONGSO ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG CHÚA CỨU THẾ
Sắc lệnh Canh Tân và Thích Nghi Đời Sống Tu Dòng của Công đồng Vatican II dạy người tu: “phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng đặc biệt của các Ðấng Sáng Lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất cả những yếu tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng” (Số 2).
Theo lý ấy, dịp mừng lễ thánh Anphongso Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế vào ngày 01 tháng 8 hàng năm là cơ may để anh em Dòng Chúa Cứu Thế suy gẫm “tinh thần và ý hướng” của Đấng sáng lập.
Lời Chúa trong phụng lễ thánh Anphongso (x. Mt 9, 35-10.1) sẽ soi sáng tinh thần và ý hướng này.
I. LÒNG CHÚA CHẠNH THUƠNG
Đức Giê-su thấy đám đông dân chúng thì chạnh lòng thương (x. Mt 9, 36). Thời Chúa Giê-su, về xã hội cũng như tôn giáo, đám đông dân chúng đã có chính quyền chăm sóc và đã có giáo quyền quan tâm. Vậy mà họ vẫn là đám đông lầm than vất vưởng “như bày chiên không người chăn dắt”. Sao thế?
Đám đông lầm than vất vưởng là nạn nhân của sự cai trị hà khắc. Chính quyền bấy giờ là chính quyền ngoại bang đô hộ. Họ đã chất lên vai người dân đủ thứ thuế. Giáo quyền thì bày vẽ đủ thứ luật lệ bắt dân tuân giữ còn họ thì chỉ đóng kịch và giả hình. (x. Mt 23, 13-29). Đám đông này là những người không những nghèo vật chất mà còn thiếu trợ giúp thiêng liêng. Họ đã bị nền thống trị hà khắc của xã hội cũng như tôn giáo hất ra bên lề của cuộc đời.
Chúa Giê-su đã chạnh thương đám đông bơ vơ túng cực. Lòng chạnh thương của Chúa không mơ hồ, hời hợt. Chúa thiết lập nhóm 12 tông đồ (x. Mt 10, 1tt), sai các ông ra đi rao giảng Nước trời (x. Mt 10, 7 tt) để qua việc phục vụ dân Chúa của các tông đồ, tình thương của Chúa chạm đến từng thân phận người nghèo.
Nối tiếp sứ vụ của các thánh tông đồ, thánh Anphongso và các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế cũng được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt và được Người ban ân sủng để họ phục vụ ơn cứu độ nơi những người lầm than vất vưởng.
II. NGƯỜI NGHÈO Ở ĐÂU?
Những người lầm than vất vưởng (Mt 9, 36) bao gồm những con người nghèo đói vật chất, nghèo đói thiêng liêng. Tắt một lời: họ là những con người bị thiếu trợ giúp thiêng liêng.
Theo lý này, người nghèo lang thang ở khắp mọi nơi: chốn phồn hoa đô hội, nơi làng quê xa xăm, thậm chí rất có thể ngay trong lòng cộng đoàn … Nơi đâu, con người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu mạng sống hay giá trị con người bị khinh rẻ, nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu, giá trị thánh thiêng bị đánh mất, chỉ còn lừa lọc gian dối, toan tính vụ lợi… nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu có sự cai trị hà khắc vô nhân tính … nơi ấy có người nghèo. Người nghèo là những nạn nhân của sự cai trị hà khắc.
Ngày nay, sống giữa lòng đời, ngày ngày các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế cũng thấy hoặc tiếp xúc với những đám đông đủ mọi thành phần “thượng vàng hạ cám”. Hẳn mỗi người đều được gợi lên những suy nghĩ về những dấu chỉ của thời đại và tự hỏi lòng mình: Ta đã cảm thông xâu xa hay lạnh lùng vô cảm?
Khi xưa, cha thánh Anphongso đã nhận được thánh ý Chúa qua tiếng kêu cứu của người nghèo và Ngài đã dấn thân quyết liệt cho thánh ý Chúa: chuyên tâm phục vu người nghèo bị bỏ rơi, công bố năm hồng ân cứu độ:
aân cöùu ñoä:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. (Lc 4, 18-19).
Thời nay, qua tiếng kêu cứu của người nghèo, mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã nhận ra chính tiếng kêu “Ta khát” của Chúa trên thập giá. Từ đó, mẹ đã dốc tâm dốc sức phục vụ người nghèo như phục vụ chính Chúa: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời”(Cl 3, 23).
Người nghèo hiện diện khắp nơi. Ý thức diệu cảm của Đấng sáng lập, tiếng kêu cứu của người nghèo vẫn đang thúc bách lương tâm các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hiến mình phục vụ như Chúa “phục vụ và hiến mạng sống” (Mc 10, 45).
III. HIẾN MÌNH PHỤC VỤ
Hơn bao giờ hết, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế được mời gọi “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Mọi nỗi âu lo hay vui mừng của nhân loại đều có liên quan đến từng tu sĩ, bởi họ là người của Thiên Chúa, người của hội dòng và cũng là người của gia đình nhận loại.
Là người của Thiên Chúa, họ cảm nhận sự hy sinh của Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống được ban cho nhân loại (x. Ga 6, 51). Đến lượt mình, họ cũng được mời gọi mang tâm hồn của Chúa Giê-su mục tử nhân lành trở nên quà tặng phục vụ nhân loại “anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16).
Là người của hội dòng, họ bị đòi buộc dấn thân quyết liệt cho sứ vụ của hội dòng, giới thiệu cho thế giới về sự hiện diện yêu thương của Chúa Giê-su “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (x. Ga 13, 35).
Là người của gia đình nhân loại, họ phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ như Thiên Chúa đã tha thứ cho họ trong Đức Ki-tô (x. Ep 4, 32). Một cách cụ thể, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã xác định ba hướng phục vụ: Truyền giáo cho lương dân - Giúp những người nghèo ở thành thị - Giảng Đại Phúc.
Với tinh thần phục vụ nêu trên, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam được mời gọi trung thành và với lệnh truyền của Chúa “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…” (Lc 4, 18) và được thúc bách đồng hình đồng dạng với Chúa “phục vụ và hiến mạng sống” (Mc 10, 45).
Nhờ vậy, trong bất cứ môi trường hay lĩnh vực nào, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế luôn được mời gọi trở nên dung mạo của Chúa Giê-su Cứu Thế: chạnh thương những người lầm than vất vưởng…, cảm thông với mọi người dù khác biệt tôn giáo, văn hóa, quan điểm… hầu góp phần xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại.
KẾT
Chúa Giê-su đã chạnh thương đám đông dân chúng làm than vất vưởng như bày chiên không người chăn dắt (x. Mt 9, 36).
Người thiết lập tông đồ đoàn và ban cho các ông “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Từ đó, các tông đồ ra đi loan báo tin vui “Nước Trời đã đến gần, …chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ…”(Mt 10, 7tt).
Dõi theo “tinh thần và ý hướng” của cha thánh Anphongso Tổ phụ, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hân hoan lên đường loan báo hồng ân cứu độ trong niềm xác tín: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4, 18).
Sắc lệnh Canh Tân và Thích Nghi Đời Sống Tu Dòng của Công đồng Vatican II dạy người tu: “phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng đặc biệt của các Ðấng Sáng Lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất cả những yếu tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng” (Số 2).
Theo lý ấy, dịp mừng lễ thánh Anphongso Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế vào ngày 01 tháng 8 hàng năm là cơ may để anh em Dòng Chúa Cứu Thế suy gẫm “tinh thần và ý hướng” của Đấng sáng lập.
Lời Chúa trong phụng lễ thánh Anphongso (x. Mt 9, 35-10.1) sẽ soi sáng tinh thần và ý hướng này.
I. LÒNG CHÚA CHẠNH THUƠNG
Đức Giê-su thấy đám đông dân chúng thì chạnh lòng thương (x. Mt 9, 36). Thời Chúa Giê-su, về xã hội cũng như tôn giáo, đám đông dân chúng đã có chính quyền chăm sóc và đã có giáo quyền quan tâm. Vậy mà họ vẫn là đám đông lầm than vất vưởng “như bày chiên không người chăn dắt”. Sao thế?
Đám đông lầm than vất vưởng là nạn nhân của sự cai trị hà khắc. Chính quyền bấy giờ là chính quyền ngoại bang đô hộ. Họ đã chất lên vai người dân đủ thứ thuế. Giáo quyền thì bày vẽ đủ thứ luật lệ bắt dân tuân giữ còn họ thì chỉ đóng kịch và giả hình. (x. Mt 23, 13-29). Đám đông này là những người không những nghèo vật chất mà còn thiếu trợ giúp thiêng liêng. Họ đã bị nền thống trị hà khắc của xã hội cũng như tôn giáo hất ra bên lề của cuộc đời.
Chúa Giê-su đã chạnh thương đám đông bơ vơ túng cực. Lòng chạnh thương của Chúa không mơ hồ, hời hợt. Chúa thiết lập nhóm 12 tông đồ (x. Mt 10, 1tt), sai các ông ra đi rao giảng Nước trời (x. Mt 10, 7 tt) để qua việc phục vụ dân Chúa của các tông đồ, tình thương của Chúa chạm đến từng thân phận người nghèo.
Nối tiếp sứ vụ của các thánh tông đồ, thánh Anphongso và các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế cũng được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt và được Người ban ân sủng để họ phục vụ ơn cứu độ nơi những người lầm than vất vưởng.
II. NGƯỜI NGHÈO Ở ĐÂU?
Những người lầm than vất vưởng (Mt 9, 36) bao gồm những con người nghèo đói vật chất, nghèo đói thiêng liêng. Tắt một lời: họ là những con người bị thiếu trợ giúp thiêng liêng.
Theo lý này, người nghèo lang thang ở khắp mọi nơi: chốn phồn hoa đô hội, nơi làng quê xa xăm, thậm chí rất có thể ngay trong lòng cộng đoàn … Nơi đâu, con người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu mạng sống hay giá trị con người bị khinh rẻ, nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu, giá trị thánh thiêng bị đánh mất, chỉ còn lừa lọc gian dối, toan tính vụ lợi… nơi ấy có người nghèo. Nơi đâu có sự cai trị hà khắc vô nhân tính … nơi ấy có người nghèo. Người nghèo là những nạn nhân của sự cai trị hà khắc.
Ngày nay, sống giữa lòng đời, ngày ngày các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế cũng thấy hoặc tiếp xúc với những đám đông đủ mọi thành phần “thượng vàng hạ cám”. Hẳn mỗi người đều được gợi lên những suy nghĩ về những dấu chỉ của thời đại và tự hỏi lòng mình: Ta đã cảm thông xâu xa hay lạnh lùng vô cảm?
Khi xưa, cha thánh Anphongso đã nhận được thánh ý Chúa qua tiếng kêu cứu của người nghèo và Ngài đã dấn thân quyết liệt cho thánh ý Chúa: chuyên tâm phục vu người nghèo bị bỏ rơi, công bố năm hồng ân cứu độ:
aân cöùu ñoä:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. (Lc 4, 18-19).
Thời nay, qua tiếng kêu cứu của người nghèo, mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã nhận ra chính tiếng kêu “Ta khát” của Chúa trên thập giá. Từ đó, mẹ đã dốc tâm dốc sức phục vụ người nghèo như phục vụ chính Chúa: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời”(Cl 3, 23).
Người nghèo hiện diện khắp nơi. Ý thức diệu cảm của Đấng sáng lập, tiếng kêu cứu của người nghèo vẫn đang thúc bách lương tâm các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hiến mình phục vụ như Chúa “phục vụ và hiến mạng sống” (Mc 10, 45).
III. HIẾN MÌNH PHỤC VỤ
Hơn bao giờ hết, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế được mời gọi “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Mọi nỗi âu lo hay vui mừng của nhân loại đều có liên quan đến từng tu sĩ, bởi họ là người của Thiên Chúa, người của hội dòng và cũng là người của gia đình nhận loại.
Là người của Thiên Chúa, họ cảm nhận sự hy sinh của Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống được ban cho nhân loại (x. Ga 6, 51). Đến lượt mình, họ cũng được mời gọi mang tâm hồn của Chúa Giê-su mục tử nhân lành trở nên quà tặng phục vụ nhân loại “anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16).
Là người của hội dòng, họ bị đòi buộc dấn thân quyết liệt cho sứ vụ của hội dòng, giới thiệu cho thế giới về sự hiện diện yêu thương của Chúa Giê-su “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (x. Ga 13, 35).
Là người của gia đình nhân loại, họ phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ như Thiên Chúa đã tha thứ cho họ trong Đức Ki-tô (x. Ep 4, 32). Một cách cụ thể, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã xác định ba hướng phục vụ: Truyền giáo cho lương dân - Giúp những người nghèo ở thành thị - Giảng Đại Phúc.
Với tinh thần phục vụ nêu trên, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam được mời gọi trung thành và với lệnh truyền của Chúa “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…” (Lc 4, 18) và được thúc bách đồng hình đồng dạng với Chúa “phục vụ và hiến mạng sống” (Mc 10, 45).
Nhờ vậy, trong bất cứ môi trường hay lĩnh vực nào, các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế luôn được mời gọi trở nên dung mạo của Chúa Giê-su Cứu Thế: chạnh thương những người lầm than vất vưởng…, cảm thông với mọi người dù khác biệt tôn giáo, văn hóa, quan điểm… hầu góp phần xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại.
KẾT
Chúa Giê-su đã chạnh thương đám đông dân chúng làm than vất vưởng như bày chiên không người chăn dắt (x. Mt 9, 36).
Người thiết lập tông đồ đoàn và ban cho các ông “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Từ đó, các tông đồ ra đi loan báo tin vui “Nước Trời đã đến gần, …chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ…”(Mt 10, 7tt).
Dõi theo “tinh thần và ý hướng” của cha thánh Anphongso Tổ phụ, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế hân hoan lên đường loan báo hồng ân cứu độ trong niềm xác tín: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4, 18).