Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, cuộc bút chiến của Thánh Giêrôm
13. Điều cuối cùng của Helviđiô là như thế này, và đây là điều hắn muốn chứng minh khi đề cập đến con đầu lòng, các Phúc âm đều có nhắc đến anh em của Chúa. Thí dụ: “Này, mẹ và anh em Ngài đứng bên ngoài, muốn nói chuyện với Ngài” (Mt 13:46). Nơi khác, “Sau đó, Ngài lên đường xuống Capharnaum, cả Ngài, mẹ Ngài và các anh em Ngài” (Ga 2:12). Lại nữa, “Anh em Chúa Giêsu nói với Ngài rằng: Đi khỏi đây đi mà vào Giuđêa để các đồ đệ của anh họ thấy những kỳ công anh làm. Vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu anh làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết” (Ga 7:3-4). Và Gioan thêm: “Vì ngay đến anh em Ngài cũng không tin Ngài” (Ga 7:5). Cả Maccô và Matthêu nữa: “Và trở lại chính quê hương mình, Ngài vào các hội đường giảng dạy, đến nỗi họ ngạc nhiên nói với nhau: ‘Do đâu mà người này khôn ngoan và làm nhiều việc vĩ đại như thế? Ông ta không phải là con của bác phó mộc đấy sao? Má ông ta không phải là Maria đó sao? và các em ông không phải là Giacôbê, Giuse, Simong và Giuđa đó sao? Còn các em gái của ông ấy nữa, há họ không sống với chúng ta đó ư?” (Mc 6:2-3; Mt 13:53-58). Trong Tông Đồ Công Vụ, Luca cũng thuật lại: “Tất cả những người này đồng tâm chuyên chăm cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria thân mẫu của Chúa Giêsu, và các em Ngài” (Cv 1:14). Cả Tông Đồ Phaolô cũng một giọng với họ, và làm chứng cho sự chính xác có tính cách lịch sử của họ: “tôi không gặp tông đồ nào, ngoại trừ Giacôbê, em của Chúa” (Gal 1:19). Và ở một nơi khác: “Há chúng tôi lại không có quyền ăn và uống ư? Không có quyền dẫn theo vợ con giống như các Tông đồ khác, như anh em của Chúa, và như Cephas hay sao?” (1 Cor 9:5). Và sợ rằng không ai nên có chứng cớ của người Do Thái, vì chính từ miệng họ mà ta nghe thấy tên các em của Ngài, nhưng nên chủ trương rằng các đồng bào của Ngài đã bị lầm cũng cùng một cái lầm liên quan đến anh em Ngài, một cái lầm mà họ đã rơi vào liên quan đến người cha, nên Helviđiô đã phải thốt ra lời cảnh cáo sắc bén sau đây: “Cũng cùng những tên ấy đã được Phúc âm gia nhắc lại trong các đoạn khác, và ở đấy những người ấy như thế vẫn là anh em của Chúa và con cái bà Maria”. Matthêu cho hay: “Ở đó (chắc chắn ở nơi Chúa bị đóng đinh), cũng có nhiều phụ nữ khác đứng nhìn từ đàng xa, họ là những người đã theo phục vụ Chúa Giêsu từ Galilêa: trong số ấy có Maria Magdalêna, Maria mẹ Giacôbê và Giôxét, và mẹ các con trai Dêbêđê” (Mt 27:55). Mac-cô cũng có đọan: “Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong số họ có Maria Magdelêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và mẹ Gioxét, cùng bà Salômê” (Mc 15:40); và liền sau đó không xa: “Và nhiều phụ nữ khác đã cùng lên Giêrusalem với Ngài” (Mc 15:41). Cả Luca nữa: “Có Maria Mađalêna, và Gioana, và Maria mẹ Giacôbê, và nhiều phụ nữ khác với họ” (Lc 24:10)
14. Lý do khiến tôi phải lặp đi lặp lại nhiều lần cùng một chuyện giống nhau là để ngăn ngừa hắn khỏi nêu ra những vấn đề không đúng sự thật và hô hoán lên là tôi cố ý giữ lại những đoạn có lợi cho hắn, và rằng quan điểm của hắn đã không bị đánh bại do bằng chứng của Thánh Kinh, nhưng là qua lý lẽ trốn tránh. Hắn bảo: hãy coi Giacôbê và Giôxét rõ ràng là con của Maria, mà họ chính là những người được người Do Thái gọi là anh em của Chúa Giêsu. Hãy coi Maria rõ ràng là mẹ của Giacobê hậu và Giôxét. Và Giacôbê được gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền là con trai của Dêbêđê, như Mac-cô đã nói ở nơi khác: “Và Maria Mađalêna và Maria mẹ Giôxét nhìn vào nơi Ngài được chôn cất. Và khi ngày Sabát đã qua, họ đi mua thuốc thơm để đến ướp xác Ngài” (Mc 15:47, 16:1). Và, hệt như điều mong đợi, hắn nói rằng: “Thật là một cái nhìn nghèo nàn và vô đạo xiết bao về Maria, khi chủ trương rằng trong khi những người đàn bà khác quan tâm đến việc chôn cất Chúa Giêsu, thì mẹ Ngài lại vắng mặt; hoặc khi tạo ra một bà Maria thứ hai; và còn hơn thế nữa, vì Phúc âm Gioan làm chứng rõ là bà có mặt ở đó, khi Chúa, từ trên thánh giá, trao phó bà, vốn là mẹ Ngài và nay trở thành quả phụ, cho Gioan chăm sóc. Hay là ta phải giả thiết là các Phúc âm gia lầm lẫn và khiến ta lầm lẫn đến độ gọi Maria là mẹ của những người được người Do-Thái biết đến như là anh em của Chúa Giêsu?”
15. Quả là tối tăm, quả là điên khùng tự lao mình xuống hố tự diệt! Ngươi nói rằng mẹ của Chúa có mặt bên thánh giá, ngươi nói rằng bà được trối trăng cho môn đệ Gioan vì thân phận quả phụ và đơn côi của bà: như thể, bà không có bốn con trai, và hàng tá con gái, như ngươi vốn trình bầy trước đây, những người mà bà có thể cậy nhờ sao? Ngươi còn dùng cả chữ quả phụ để chỉ về bà trong khi Thánh Kinh không hề dùng từ ngữ ấy. Và dù ngươi đã trích hết các đoạn Phúc Âm, nhưng duy có đoạn của Gioan là ngươi không thích. Ngươi nói qua loa rằng bà có mặt bên thánh giá, điều mà rõ ràng ngươi không cố ý bỏ qua, nhưng ngươi lại bỏ qua không nhắc đến những người đàn bà khác cũng có mặt bên thánh giá với bà. Ta sẵn sàng bỏ qua nếu người dốt nát, nhưng thực ra ta thấy ngươi có lý do để không nhắc đến họ. Để ta nhắc lại điều Gioan nói: “Đứng bên thánh giá của Chúa Giêsu có mẹ Ngài, chị mẹ Ngài, là Maria vợ Clopas, và Maria Mađalêna” (Ga 19:25). Không ai còn hồ nghi là có hai tông đồ được gọi là Giacôbê, Giacôbê con Giêbêđê, và Giacôbê con Alphêô. Ngươi có ý coi ông Giacôbê hậu, người ít được biết đến, mà trong Sách Thánh gọi là con của Maria, tuy không phải là Maria mẹ Chúa Giêsu, là một Tông đồ hay không? Nếu ông là một tông đồ, hẳn ông phải là con trai của Alphêô và một người tin vào Chúa Giêsu, “vì cả đến anh em Ngài cũng không tin Ngài”. Nếu ông không phải là tông đồ, nhưng là một Giacôbê thứ ba (ông là ai tôi không nói được), làm sao có thể coi ông là em trai của Chúa Giêsu, và làm sao, là người thứ ba, lại được gọi là ông hậu để phân biệt với ông tiền, khi tiền và hậu được dùng để chỉ các mối liên hệ giữa không phải ba mà là hai người? Mặt khác nên để ý điều này nguời anh em của Chúa là một tông đồ, như Phaolô đã nói: “Rồi sau ba năm, tôi lên Giêrusalem để thăm Cephas, và nấn ná ở lại với ông 15 ngày. Còn các tông đồ khác tôi không gặp được ai, ngoại trừ Giacôbê, người anh em của Chúa” (Gal 1:18-19). Và cùng trong Thư ấy: “Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Giacôbê, Kêpha và Gioan, những người được coi là cột trụ” (Gal 2:9) v.v... Và có thể là ngươi sẽ không chịu coi ông Giacôbê này là con của Giêbêđê, thì ngươi chỉ cần đọc Tông Đồ Công Vụ là sẽ thấy ông Giacôbê đó bị Hêrod hãm hại. Kết luận duy nhất chỉ có thể là bà Maria được miêu tả như là mẹ của Giacôbê hậu chính là vợ của Alphêô và là chị của Maria mẹ Chúa Giêsu, người mà Phúc âm gia Gioan gọi là “Maria Clopas”, có thể gọi theo tên cha, hay tên một thân nhân nào khác, hay vì một lý do nào khác. Nhưng nếu ngươi nghĩ đó là hai người khác nhau vì có nơi thì đọc là “Maria mẹ Giacôbê hậu” có nơi lại là “Maria Clopas”, thì người phải hiểu là trong Sách Thánh một cá nhân thường vẫn mang nhiều tên. Như Raguel, cha vợ của Mô-sen, cũng có tên là Jethro. Gedeon, chả có lý do nào để đổi tên, tự dưng được kêu là Jerubbaal. Ozias, Vua Giuđa, cũng có một tên khác là Azarias. Núi Tabor cũng được gọi là Itabyrium. Còn Hermon được người Phê-ni-xi gọi là Sanior, nhưng người Amorites lại gọi là Sanir. Cùng một giải đất được kêu bằng ba tên khác nhau trong sách Ezekiel đó là Negeb, Teman và Darom. Phêrô lúc được gọi là Simon, lúc được gọi là Cephas. Giuđa theo phe Nhiệt thành trong một Phúc âm khác được gọi là Ta-đê-ô. Và còn nhiều thí dụ khác mà người đọc có thể tự tìm ra từ khắp các phần của Sách Thánh.
16. Giờ đây chúng tôi xin giải thích ở đây điều mà tôi muốn chứng minh, là làm thế nào những người con trai của Maria, chị mẹ Chúa Giêsu, những người tuy trước đây không tin nhưng sau này đã tin, lại được gọi là anh em của Chúa. Rất có thể có trường hợp một trong những người anh em đó đã tin ngay từ trước trong khi những người khác thì mãi sau này mới tin, và cũng có thể một Maria là mẹ của Giacôbê và Giôxét, tức “Maria Clopas”, vợ của Alphêô, còn Maria kia là mẹ của Giacôbê hậu. Dù sao, nếu bà sau là mẹ của Chúa Giêsu, thì thánh Gioan hẳn đã gán cho bà tước hiệu ấy rồi, cũng như ở những đoạn văn khác, chứ đâu có kêu bà là mẹ của những người con trai khác khiến người ta phải lẫn lộn. Nhưng ở giai đoạn này, tôi chưa muốn xác định hay phủ nhận cái giả thiết cho rằng Maria vợ Clopas và Maria mẹ của Giacôbê và Giôxét là hai người đàn bà khác nhau, miễn là ta phải hiểu rõ ràng rằng Maria mẹ Giacôbê và Giôxét không phải là một với mẹ Chúa Giêsu. Helviđiô sẽ nói: như vậy phải chăng các anh sẽ cho rằng những người được gọi là anh em của Chúa thực ra không phải là anh em của Ngài sao? Đúng vậy, ta sẽ chứng minh điều ấy cho ngươi hay. Trong Thánh Kinh, có bốn loại anh em: anh em tự nhiên, anh em do chủng tộc, anh em thân thích (kindred), anh em kết nghĩa (love). Anh em tự nhiên như trường hợp Esau và Giacóp, 12 tổ phụ Do-Thái, Anđrê và Phêrô, Giacôbê và Gioan. Anh em do chủng tộc, mọi người Do-Thái đều được gọi là anh em đối với nhau, như trong sách Đệ Nhị Luật: “Nếu anh em ngươi, một người đàn ông Do-Thái, hay một người đàn bà Do-Thái, bị bán vào tay ngươi và đã phục vụ ngươi đủ sáu năm; thì đến năm thứ bẩy, ngươi phải trả tự do cho họ” (Đnl 15:12). Cũng trong sách ấy: “Ngươi sẽ đặt người mà Chúa sẽ chọn lên làm vua trên ngươi: ngươi sẽ đặt một người trong hàng anh em ngươi lên làm vua trên ngươi; ngươikhông được đặt bất cứ ngoại nhân nào, vốn không phải là anh em ngươi, lên làm vua ngươi” (Đnl 17:15). Lại nữa: “Ngươi không được thấy con bò hoặc con chiên của anh em ngươi đi lạc mà bỏ mặc làm ngơ: trái lại phải làm sao đưa chúng về cho anh em ngươi. Còn nếu anh em ngươi không ở gần ngươi, hoặc ngươi không biết họ, thì ngươi phải đem chúng về nhà ngươi, giữ chúng ở đó cho đến khi anh em ngươi đi kiếm chúng, lúc đó ngươi phải hoàn chúng lại cho họ” (Đnl 22:1-2). Còn Tông Đồ Phaolô thì viết như sau: “Tôi mong bị Chúa Kitô nguyền rủa vì anh em tôi, những người máu huyết vốn là người Do Thái của tôi” (Rm 9: 3-4). Hơn nữa, còn có thứ anh em thân thích nữa, những người cùng một dòng tộc mà ra, một patria, tương đương với từ Latinh paternitas, nghĩa là do cùng một gốc mà có những chi tộc khác nhau. Trong sách Sáng Thế, ta thấy: “Abram nói với Lót: cậu xin cháu, giữa cậu và cháu, giữa những người chăn chiên của cậu và những người chăn chiên của cháu, đừng bao giờ tranh chấp làm chi; vì cậu cháu mình đều là anh em với nhau cả” (St 13:8). Lại nữa: “Thế là Lót chọn cho mình trọn bình nguyên Gióc-đăng và đi về phía Đông: và họ chia tay nhau với người anh em mình” (St 13:11). Chắc chắn Lót không phải là anh em của Abram, mà là con của người em Abram, tên là Aram. Vì Terah sinh ra Abram, Nahor và Aram, và Aram sinh ra Lót. Chúng ta còn đọc thấy rằng: “Abram bẩy mươi lăm tuổi khi rời khỏi Hatan. Ông mang theo Sarai là vợ và Lót, con trai của em ông” (St 12:5). Nhưng nếu ngươi còn hồ nghi việc cháu mà được gọi là anh em, thì ta sẽ cho ngươi một thí dụ. “Và khi Abram nghe tin anh em mình bị bắt cầm tù, ông bèn dẫn theo những người đàn ông thiện chiến, vốn sinh trong nhà ông, hết thẩy khỏang ba trăm tám mươi người” (St 14:14). Và sau khi diễn tả cuộc tấn công và sát hại trong đêm, soạn giả Sáng Thế thêm, “và ông mang về mọi chiến lợi phẩm và cả em ông là Lót nữa” (St 14:16). Chứng cớ cho lời khẳng định của ta tưởng thế đã là đủ rồi. Nhưng sợ ngươi vẫn còn cố cãi cối cãi chày, để ráng bò thoát thân như loài rắn, ta đành phải cột cứng ngươi lại bằng những sợi thừng chứng cớ để ngươi khỏi cựa quậy kêu ca, vì ta biết rõ ngươi sẽ cho rằng ngươi bị đánh bại không phải bằng sự thật Thánh Kinh mà bằng những biện luận tế vi. Giacóp, con trai Isaac và Rêbecca, vì sợ mưu toan của anh, nên đã trốn đi Lưỡng Hà, đến gần và lăn hòn đá khỏi miệng giếng, đoạn cho đoàn vật của Laban uống nước, Laban là em trai mẹ ông. “Đoạn Giacóp hôn Rachel, và cất tiếng nói mà khóc. Giacóp nói với Rachel rằng mình là anh em của cha nàng, và mình là con trai của Rêbecca” (St 29:11-12). Đây là một thí dụ khác của điều đã nói trên kia theo đó cháu được gọi là anh em. Lại nữa: “Laban nói với Giacóp: vì cháu là anh em ta, chả lẽ cháu lại giúp ta không công? Hãy cho cậu hay cháu lấy tiền công ra sao” (ST 29:15). Và rồi 20 năm sau, không để cha vợ hay, ông đã cùng vợ con lên đường trở lại quê cha. Khi Laban chận ông lại trên núi Gilead, và không tìm ra những bức tượng bị Rachel dấu trong hành lý, Giacóp đã thưa với Laban như sau: “Tôi làm gì quấy, tôi có tội tình chi, mà cha lại săn đuổi theo tôi. Lục lọi tất cả đồ đạc của con, cho có tìm được đồ đạc gì của nhà cha không? Cha cứ đưa ra đây trước mặt anh em con và anh em cha, để họ phân xử cho hai bên” (St 31:37). Ngươi hãy cho ta hay ai là anh em của Giacóp và Laban đang hiện diện tại đó? Esau, anh của Giacóp, chắc chắn không có ở đó rồi, còn Laban, con của Bethuel, thì làm gì có anh em trai, ngoại trừ người em gái là Rêbecca.
17. Còn man vàn những thí dụ khác giống như thế trong Sách Thánh. Tuy nhiên, để vắn gọn, tôi xin trở lại loại cuối cùng trong bốn loại anh em, tức là anh em do yêu thương âu yếm mà gọi vậy. Loại này lại chia làm hai, một do liên hệ thiêng liêng, một do liên hệ chung chung. Tôi nói thiêng liêng, vì mọi Kitô hữu chúng ta đều được gọi là anh em, như trong câu: “Tốt lành và vui sung sướng xiết bao khi anh em đoàn kết với nhau” (Tv 133:1). Và trong một Thánh vịnh khác, Đấng Cứu Thế nói: “Ta sẽ tuyên xưng danh ngươi cho anh em ta” (Tv 22:23). Và chỗ khác: “Hãy đi gặp anh em ta mà nói với họ” (Mt 28:10). Còn chung chung, là vì chúng ta hết thẩy đều là con một Cha, như thể có một sợi dây huynh đệ giữa tất cả chúng ta. Đấng tiên tri đã nói: “Hãy nói với những kẻ ghét các ngươi rằng: các vị đều là anh em của chúng tôi”. Còn Tông Đồ Phaolô, trong thư Côrintô, viết như sau: “Đừng đi lại với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượu chè hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với những người như thế” (1 Cr 5:11). Vậy ta hỏi ngươi, ngươi coi những người anh em của Chúa trong Phúc âm thuộc loại anh em nào. Ngươi hẳn sẽ nói: là anh em tự nhiên. Nhưng Thánh Kinh đâu có nói như vậy; vì Thánh Kinh đâu có gọi họ là con của Maria hoặc con của Giuse. Liệu có nên coi họ là anh em do chủng tộc không? Nhưng thật là vô lý nếu cho rằng chỉ có một số ít người Do Thái được gọi là anh em của Ngài trong khi đáng lý ra người Do-Thái nào thời Ngài cũng phải được gọi là anh em của Ngài mới đúng chứ? Vậy có phải họ là anh em do sự thân mật gần gũi và sự đồng tâm nhất trí hay không? Nếu như vậy, còn ai thực sự là anh em của Ngài hơn các Tông đồ là những người được Ngài giáo huấn riêng và gọi là Mẹ Ngài và anh em Ngài? Lại nữa, nếu mọi người đều là anh em của Ngài, thì quả là rồ dại khi thông báo một cách đặc biệt rằng “Kìa, anh em Thầy đang kiếm Thầy đấy” (MT 12:47), vì ai cũng đáng được gọi bằng tước hiệu ấy. Chỉ còn mỗi cách là chấp nhận lối giải thích trên đây nghĩa là hiểu anh em theo nghĩa anh em thân thích (anh em họ), chứ không phải anh em do yêu thương, do kết nghĩa, cũng không phải anh em cùng chủng tộc, càng không phải anh em tự nhiên (anh em ruột). Giống như trường hợp Lot được gọi là em Abraham, Giacóp được gọi là em Laban, và những người con gái của Zelophehad nhận nhiều người làm anh em mình, và chính Abraham gọi vợ Sarah của mình là em gái, vì ông nói: “Nàng quả thật là em gái tôi, về phía cha chứ không phải về phía mẹ” (St 20:12) nghĩa là, nàng là con gái của em trai ông chứ không phải con gái của chị ông. Chứ nếu không, ta ăn nói làm sao về Abraham, một người công chính, mà lại cưới chính em gái con cùng cha với mình? Thánh kinh, khi kể lại chuyện người xưa, không muốn làm mệt tai ta bằng cách giảng giải dài dòng, nhưng thích để ta tự hiểu lấy: vì sau đó Thiên Chúa đã dùng luật mà ngăn cấm rõ ràng rằng: “Ai lấy em gái mình, con cùng cha hoặc cùng mẹ, mà lột trần nó ra, là phạm tội gớm ghiếc, phải bị tiêu diệt. Ai lột trần chị em mình, là mang lấy tội lỗi” (Lv 20:17).
18. Có những sự việc, mà vì quá ngu dốt, ngươi chưa bao giờ đọc, và do đó ngươi không biết hết toàn bộ Thánh Kinh, nhưng đã dùng sự ngu xuẩn của ngươi mà phạm đến Đức Nữ Trinh, hệt như câu truyện về anh chàng kia, vốn không được ai biết đến và biết là mình không làm được chuyện gì hay khiến thiên hạ biết đến tên, nên đành đi đốt đền thờ Điana: nhưng khi không thấy ai khám phá ra hành vi phạm thượng ấy, đã tự mình đi tới đi lui hô hoán cho mọi người thấy chính mình là người nổi lửa. Các nhà cầm quyền Êphêsô tò mò muốn biết điều gì đã khiến anh ta làm chuyện đó, thì anh trả lời là nếu anh ta không làm được điều gì tốt để lấy tiếng tăm, chắc mọi người sẽ cho anh ta tiếng tăm nhờ việc xấu. Lịch sử đảo Grece (Grecian) kể lại truyện đó. Nhưng ngươi còn tệ hơn thế nữa. Ngươi đã nổi lửa đốt phá đền thờ đã mang xác thân của Chúa, ngươi đã lăng nhục cung thánh Chúa Thánh Thần bằng cách nhất tâm biến nó thành nơi chứa đến bốn anh em trai và một lô chị em gái. Tắt một lời, đồng thanh với người Do Thái, ngươi lên tiếng: “Phải chăng người này không phải là con trai bác thợ mộc sao? Mẹ ông ta há không phải là Maria đấy ư? và các enh em của ông ta há không phải là Giacôbê, Giuse, và Simong cùng Giuđa đó sao? Và các chị em của ông ta há không sống giữa chúng ta đấy ư? Các từ này chắc chẳng ai dùng nếu như không có cả hàng đống anh em chị em”. Ta lạy nhà ngươi, nhà ngươi hãy cho ta hay trước nhà ngươi, có ai dám phạm thượng đến thế hay chưa? Ai dám nghĩ cái lý thuyết của ngươi đáng giá một xu không? Ngươi đã được toại nguyện, vì ngươi đã trở nên “tiếng tăm” nhờ tội ác. Đối với ta, kẻ đối thủ của ngươi, dù cùng có mặt trong một thành phố, nhưng quả, như câu cách ngôn người ta thường nói, ta không biết ngươi trắng hay đen. Ta bỏ qua các lỗi dùng từ có nhan nhản trong các sách ngươi viết. Ta không nói một lời về phần nhập đề đần độn của ngươi. Trời ơi! Ta không đòi hỏi tài hùng biện, vì vốn chẳng có tài ấy, nhưng ngươi đã nhờ người anh em của ngươi là Craterius giúp. Ta không đoì hỏi vẻ duyên dáng của văn phong, ta chỉ đi tìm sự trong sáng của tâmhồn: vì đốivới Kitô hữu, sai sót và tội lớn nhất về văn phong là đề cập đến một cái gì đê tiện cả trong lời nói lẫn trong hành động. Ta xin kết luận về những điều biện bạch của ta. Ta sẽ xử với ngươi như thể ta chưa hơn ngươi ở điểm nào; và ngươi sẽ thấy ngươi đang vất vưởng trên những cái sừng tiến thoái lưỡng nan (dilemma). Rõ ràng là anh em của Chúa được gọi một cách như khi Giuse được gọi là cha của Chúa vậy. “Mẹ và cha con héo hắt đi tìm con”. Chính mẹ Ngài nói câu đó, chứ không phải người Do-Thái. Chính Phúc âm gia thuật lại rằng Cha Ngài và Mẹ Ngài hết sức bỡ ngỡ về những điều người ta nói liên quan đến Ngài, và còn nhiều đoạn văn khác mà chúng ta đã trích dẫn trong đó Giuse và Maria được gọi là cha mẹ của Ngài. Biết rằng ngươi đã dại dột cho rằng các bản văn HyLạp có nhiều sai lạc, thì đáng lẽ ngươi phải đọc nhiều bản văn khác mới đúng chứ. Cho nên ta xin trích dẫn Phúc Âm Gioan, trong đó điều sau đây được viết rất rõ: “Philip gặp Nathanael và nói với ông này: Chúng tôi đã thấy đấng mà Môisen trong lề luật và các tiên tri đã viết về, đó là Giêsu Nagiarét, con trai Giuse” (Ga 1:45). Ngươi chắc chắn tìm thấy đoạn đó trong bản chép của ngươi. Vậy ngươi hãy cho ta hay, làm sao Chúa Giêsu lại là con trai của Giuse được khi rõ ràng Ngài đã được tượng thai do Chúa Thánh Thần? Giuse có phải là cha thật của Ngài không? Ngươi có tối tăm bao nhiêu đi chăng nữa, chắc cũng không dám quả quyết như thế. Hay ông là cha cho có tiếng (reputed) của Ngài mà thôi? Nếu thế, thì ngươi hãy áp dụng một quy luật như thế cho những người được gọi là anh em Ngài, một quy luật đã áp dụng cho Giuse khi ông được gọi là cha Ngài. Đồng Trinh Tốt Hơn Bậc Vợ Chồng
19. Giờ đây, sau khi đã dọn dẹp hết đá ghềnh và cát đụn, tôi phải căng buồm để chạy thẳng đến đoạn kết của hắn. Vì cảm thấy mình lõm bõm, nên hắn đã phải đưa Tertullianô ra làm bằng và trích dẫn nhiều lời của Victorinô, giám mục thành Petavium. Về Tertullianô, tôi chẳng cần phải nói gì hơn ngoài việc ông ta không thuộc về Giáo Hội. Còn đối với Victorinô, tôi xin quả quyết Ông chỉ nói điều đã được Phúc Âm chứng minh – nghĩa là anh em của Chúa Giêsu không phải là con cái của Maria, mà là anh em theo nghĩa tôi đã giải thích, tức là anh em họ hàng, chứ không phải anh em ruột. Tuy nhiên, chúng ta đang phí thì giờ cho những chuyện tầm phào và khi đi theo giòng dư luật nhỏ nhặt, ta đã bỏ qua cái bể dư đầy chân lý. Há, để chống lại ngươi, ta lại không biết đưa ra nhiều tác giả thời xưa sao? I-nha-xi-ô, Pô-li-carp, I-rê-nê-ô, Justin Tử Đạo, và nhiều học giả khác đầy tinh thần tông đồ và tài hùng biện, những người, trong khi chống lại Ê-bi-on, Thê-ô- đô-tô thành Byzantin, và Va-len-ti-nô, cũng đã bênh vực cùng một quan điểm như chúng ta, và đã trước tác nhiều cuốn sách đầy khôn ngoan. Nếu ngươi đọc được những điều họ viết ra, chắc chắn ngươi đã khôn hơn rồi. Tuy nhiên thiết nghĩ nên trả lời vắn tắt từng điểm một hơn là nấn ná lâu hơn khiến bài viết này trở nên dài dòng không cần thiết.
20. Giờ đây ta sẽ tấn công thẳng vào đoạn trong đó, để chứng tỏ mình khéo léo khôn ngoan, ngươi đã so sánh giữa đức đồng trinh và bậc sống hôn nhân. Ta không khỏi mỉm cười khi nghĩ đến câu phương ngôn và tự hỏi không biết có bao giờ ngươi đã được xem một cuộc khiêu vũ ý tứ chưa (cared dance)? Ngươi đặt câu hỏi: “Liệu các người đồng trinh có hơn được Abraham, Isaac, và Giacóp là những người có vợ chăng? Há các hài nhi không được Chúa ngày ngày tạo hình trong cung lòng các bà mẹ đó ư? Và nếu thế, ta có nên xấu hổ khi nghĩ đến việc đức Maria ăn ở với chồng sau khi đã sinh con không? Nếu qúi vị thấy điều đó là điều bất xứng, thì để nhất quán, có lẽ qúi vị không nên tin rằng một vì Thiên Chúa lại có thể sinh ra đời do một Trinh Nữ theo cách sinh nở tự nhiên. Vì theo qúi vị, việc một trinh nữ sinh hạ Thiên Chúa bằng chính cơ quan sinh đẻ của mình thì ô nhục hơn là một trinh nữ ăn nằm với chính chồng của mình sau khi đã sinh con.” Ông Helviđiô ạ, nếu muốn, sao ông không nói thêm những điều ô nhục khác thuộc giới tự nhiên, nào là dạ chửa chín tháng mỗi ngày một to hơn, nào là bệnh tật, đẻ đái, máu me, tã lót. Sao ông không tưởng tượng thêm hài nhi trong túi ối. Lại còn máng cỏ thô cứng, tiếng khóc ỉ ôi của bé thơ, cắt bì vào ngày thứ tám, thời gian thanh tẩy, để chứng tỏ là Ngài chẳng sạch sẽ gì. Chúng tôi đâu có mắc cỡ, chúng tôi chỉ không chịu im lặng mà thôi. Những ô nhục Ngài chịu vì tôi càng lớn bao nhiêu, tôi càng nợ ơn Người bấy nhiêu. Và khi ông kể ra đủ thứ, thì ông lại quên mất điều ô nhục lớn hơn hết mọi sự đó là cây thập tự, cây giá mà chúng tôi tuyên xưng, mà chúng tôi tin kính, mà nhờ đó chúng tôi chiến thắng mọi địch thù.
21. Nhưng vì chúng tôi không chối điều đã được viết ra, thì chúng tôi phải chối điều không được viết ra. Chúng tôi tin Thiên Chúa đã sinh ra đời do một Trinh Nữ, là vì chúng tôi đọc thấy điều đó. Còn việc đức Maria ăn ở với chồng sau khi sinh con, thì chúng tôi không tin vì chúng tôi không đọc thấy điều đó. Chúng tôi cũng không nói điều ấy để lên án hôn nhân, vì đức đồng trinh xét cho ngay chỉ là hoa trái của hôn nhân; nhưng chỉ là vì khi đề cập đến các thánh, ta không nên phán đoán hồ đồ. Nếu chịu nhìn nhận điều có thể có như tiêu chuẩn để phán đoán, có lẽ ta nên cho rằng Ông Giuse có nhiều vợ vì Abraham đã có nhiều vợ, và Giacóp cũng thế, nên các anh em của Chúa là con các bà vợ này, một thứ ý nghĩ tạo hoẹt do một số người đưa ra một cách võ đóan do ẩu tả hơn là do lòng đạo đức. Ngươi nói đức Maria không tiếp tục giữ mình đồng trinh, còn ta, ta nói rằng cả Ông Giuse, vì đức Maria, cũng giữ mình đồng trinh nữa, như thế nhờ một cuộc hôn nhân trinh khiết, một đứa con trinh khiết đã được hạ sinh. Vì nếu, với tư cách một người công chính, ông đã không bị thúc bách bởi lòng tà dâm và vì không có chỗ nào viết rằng ông có vợ khác, mà chỉ viết rằng ông là hộ thủ của đức Maria, người mà ông coi là vợ chứ không coi mình là chồng, nên kết luận chỉ có thể là đấng xứng đáng được gọi là cha của Chúa phải là người cũng đồng trinh.
22. Và giờ đây trước khi đưa ra một so sánh giữa đức đồng trinh và bậc sống hôn nhân, tôi xin các độc giả đừng nghĩ rằng khi ca tụng đức đồng trinh, tôi muốn hạ giá bậc hôn nhân, và tách biệt các thánh thời Cựu Ước với các thánh thời Tân Ước, nghĩa là các đấng có vợ và các đấng không muốn bận đến thê nhi: đúng hơn, tôi nghĩ rằng mỗi thời gian, mỗi hoàn cảnh một khác, nên các đấng thời Cựu Ước có luật dành cho các vị, còn với chúng ta, thời gian cánh chung đã gần lắm rồi nên một luật khác đã được áp dụng. Bao lâu còn luật kia, tức luật “Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất” (St 1:28) và “Vô phúc đàn bà khô cằn không dạ chửa trong Israel” còn đó, thì ai cũng lập gia đình, cũng lấy vợ lấy chồng, rời cha bỏ mẹ, mà nên một thân xác với nhau. Nhưng một khi tiếng loa sấm sét đã vang lên; “Thời gian chẳng còn bao nhiêu, vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có” (1Cor 7:29), thì ta nên bám chặt lấy Chúa, để nên một thần trí với Ngài. Tại sao lại vậy? Vì “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ” (1Cor 7:32-33). Giữa người vợ và người trinh nữ cũng có sự khác biệt: “Người không có chồng thì chuyên lo việc Chúa, để nên thánh cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1Cor 7: 34). Tại sao ngươi còn cãi cối cãi chầy? Tại sao người còn chống cự? Đấng ưu việt đã nói rõ điều ấy; Ngài cho ta hay giữa người vợ và người trinh nữ có khác biệt. Ngươi nên để ý cái bậc sống ấy hạnh phúc biết bao vì trong nó ngay cả sự phân biệt về giới tính cũng mất đi. Trinh nữ không bị gọi là đàn bà nữa. “Người không có chồng thì chuyên lo việc Chúa, để được thánh thiện cả hồn lẫn xác”. Trinh nữ được định nghĩa là người thánh thiện cả hồn lẫn xác, vì có ích gì đâu nếu chỉ trinh khiết ngoài thân xác mà linh hồn thì lại vương vấn chuyện chồng con. “Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Có phải ngươi nghĩ rằng không có khác biệt gì hết giữa một người chuyên chăm cầu nguyện và chay tịnh với người hễ chồng đến gần là phải sửa soạn nhan sắc, đi đứng yểu điệu, và cố gắng tỏ ta âu yếm chăng? Trinh nữ không cần phải tỏ ra sửa soạn như thế; tuy nàng không cần phải che dấu nét duyên dáng tự nhiên của mình. Đàn bà có chồng thì trái lại phải son phấn trước gương, và như để trêu ngươi đấng Hóa Công, họ ráng tạo được cái mà nhan sắc tự nhiên của họ không có. Rồi thì tiếng con trẻ la ó, cả nhà ồn ào, con chờ mẹ bảo ban, hôn hít, rồi tiền chợ tiền búa, dành dụm, chi tiêu. Một bên thì các ông đầu bếp trang bị sẵn đồ nghề đồ tể và sẵng sàng róc xương lọc thịt, bên kia thì tiếng ì ầm của các thợ đan. Giữa lúc đó, có tin chồng về đem theo mấy ông bạn qúi, thế là như con én, người vợ chạy đôn chạy đáo khắp nhà, lo lắng đủ chuyện: ghế tựa có phẳng phiu không, đường vào nhà đã được quét tước hay chưa? Hoa đã cắm vào bình chưa? Cơm nước đã sẵn sàng chưa? Ta xin ngươi, hãy cho ta hay, giữa những bận bịu ấy, có còn chỗ nào mà nghĩ đến Chúa nữa hay không? Gia đình như thế có hạnh phúc chăng? Giữa cái chốn chiêng trống như thế, ồn ào như vậy, nào là tiếng điếu, nào là tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng thanh la não bạt, ngươi còn thấy chỗ nào dành cho lòng kính sợ Chúa nữa không? Tầm gửi bị hất hủi nhưng lại cảm thấy tự hào về vinh dự đó. Rồi đến lúc phải làm nạn nhân cho những thèm muốn nửa kín nửa hở, một cái đích nhắm cho những con mắt thèm thuồng. Người vợ bất hạnh một là phải chiều theo và do đó vấp ngã, hai là cuỡng lại và trở thành kẻ khiếu khích chồng. Từ đó phát sinh bất hòa, gây mầm cho ly dị. Hoặc giả ngươi tìm cho ta một nhà nào trong đó những chuyện trên không xẩy ra, một con chim hoạ hiếm (rata avis)! Tuy nhiên, ngay ở đó, chính việc quán xuyến gia đình, việc giáo dục con cái, các đòi hỏi của chồng, việc sửa phạt người ăn người ở mà thôi cũng đủ khiến tâm trí ta chẳng còn chỗ nào mà nghĩ đến Chúa được nữa. “Sarah đã không còn có kinh như thói quen của phụ nữ nữa” (St 18:10), Thánh kinh nói như thế, và sau này Abraham nhận được lệnh của Chúa “mọi điều Sarah nói, ngươi phải nghe lời nàng” (St 21:12). Người đàn bà nào không còn chịu cảnh lo âu và đau đớn của việc sinh con và khi đã trải qua sự biến đổi trong đời, hết còn phải thi hành chức năng của một người đàn bà nữa, thì người ấy thoát khỏi sự nguyền rủa của Chúa: lúc ấy, nàng không còn là thèm muốn của chồng nữa, trái lại chồng nàng nay trở thành lệ thuộc nàng, cho nên Người mới ra lệnh cho người đàn ông rằng: “mọi điều Sarah nói, ngươi phải nghe lời nàng”. Nhờ thế hai vợ chồng có thì giờ cầu nguyện. Chứ bao lâu món nợ hôn nhân chưa trả xong, thì cầu nguyện vẫn còn bị sao lãng.
23. Tôi không chối là trong số những bà quả phụ cũng như những người có chồng, vẫn có những người thánh thiện; nhưng một là họ đã thôi không còn là vợ nữa hai là họ vẫn còn là vợ nhưng lại đã sống thanh khiết như trinh nữ. Thánh Tông Đồ, như thể có Chúa Kitô nói trong mình, đã làm chứng điều đó khi ngài nói rằng: “Người không có chồng thì chuyên lo việc của Chúa, họ tìm cách vui lòng Chúa: còn người có chồng thì chuyên lo việc đời: họ tìm cách làm vui lòng chồng”. Ngài để ta tự do sử dụng lý trí trong vấn đề này. Ngài không bó buộc ai cũng không muốn dẫn ai vào bẫy: ngài chỉ muốn khuyến dụ điều thích hợp khi ngài mong muốn mọi người đàn ông cũng nên bắt chước như ngài. Quả thực, ngài không nhận được một giới răn nào của Chúa buộc ta phải sống trinh khiết, vì ơn ấy vượt quá khả năng tự nhiên của con người, và quả là khiếm nhã khi buộc mọi người phải bay lên ngược với tự nhiên giới, nói cách khác là phải trở nên như thiên thần. Chính cái tinh khiết thiên thần ấy đem lại cho đức khiết trinh phần thưởng cao qúi nhất của nó, và dường như thánh Tông đồ không thích lối sống bị giằng co bởi mặc cảm tội lỗi. Tuy vậy, trong cùng mạch văn ấy, ngài thêm: “(Về vấn đề độc thân) Tôi chỉ khuyên nhủ anh em, với tư cách là người, nhờ Chúa thương, đáng được anh em tín nhiệm. Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt” (1Cor 7:25-26). Nỗi thống khổ hiện tại nói đây có nghĩa gì? “Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày ấy” (Mt 24:19. Cây gỗ lớn lên là để bị đốn xuống. Đồng lúa được gieo là để được gặt. Mặt đất đã đầy, và dân số đã quá lớn so với đất canh tác. Mỗi ngày, ta đều bị đốn ngã bởi chiến tranh, sát hại bởi bệnh tật, nuốt trửng bởi bão tố, ấy thế mà vẫn đưa nhau ra tòa vì mấy cái hàng rào ngăn tài sản. Đó chỉ là phụ khoản thêm vào luật chung do những người bước theo Con Chiên làm ra, và họ chưalàm dơ áo mặc, vì họ tiếp tục sống trong bậc đồng trinh của mình. Xin lưu ý đến ý nghĩa của chữ dơ (defiling). Tôi không muốn giải thích ở đây, sợ Helviđiô sẽ lạm dụng. Ta đồng ý với ngươi khi ngươi cho rằng có những trinh nữ chẳng khác chi gái lầu xanh; ta còn dám nói mạnh hơn vì trong số trinh nữ, có cả những dâm phụ ngoại tình nữa, và, chắc chắn ngươi còn phải ngạc nhiên hơn khi nghe người ta nói một số giáo sĩ làm nghề chủ chứa (inn-keepers), và không thiếu các đan sĩ dâm tặc. Ai lại không hiểu ngay rằng gái lầu xanh không thể là trinh nữ, dâm tặc không thể là đan sĩ, và giáo sĩ không thể làm chủ chứa? Liệu ta có nên chỉ trích đức khiết trinh chỉ vì những người sống trong bậc đó mắc lỗi không? Đối với ta, bỏ qua những người khác và chỉ bàn đến người đồng trinh mà thôi, ta chủ trương rằng bất cứ ai tham dự vào bán buôn (huckstering), dù có đồng trinh trong th�%
13. Điều cuối cùng của Helviđiô là như thế này, và đây là điều hắn muốn chứng minh khi đề cập đến con đầu lòng, các Phúc âm đều có nhắc đến anh em của Chúa. Thí dụ: “Này, mẹ và anh em Ngài đứng bên ngoài, muốn nói chuyện với Ngài” (Mt 13:46). Nơi khác, “Sau đó, Ngài lên đường xuống Capharnaum, cả Ngài, mẹ Ngài và các anh em Ngài” (Ga 2:12). Lại nữa, “Anh em Chúa Giêsu nói với Ngài rằng: Đi khỏi đây đi mà vào Giuđêa để các đồ đệ của anh họ thấy những kỳ công anh làm. Vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu anh làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết” (Ga 7:3-4). Và Gioan thêm: “Vì ngay đến anh em Ngài cũng không tin Ngài” (Ga 7:5). Cả Maccô và Matthêu nữa: “Và trở lại chính quê hương mình, Ngài vào các hội đường giảng dạy, đến nỗi họ ngạc nhiên nói với nhau: ‘Do đâu mà người này khôn ngoan và làm nhiều việc vĩ đại như thế? Ông ta không phải là con của bác phó mộc đấy sao? Má ông ta không phải là Maria đó sao? và các em ông không phải là Giacôbê, Giuse, Simong và Giuđa đó sao? Còn các em gái của ông ấy nữa, há họ không sống với chúng ta đó ư?” (Mc 6:2-3; Mt 13:53-58). Trong Tông Đồ Công Vụ, Luca cũng thuật lại: “Tất cả những người này đồng tâm chuyên chăm cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria thân mẫu của Chúa Giêsu, và các em Ngài” (Cv 1:14). Cả Tông Đồ Phaolô cũng một giọng với họ, và làm chứng cho sự chính xác có tính cách lịch sử của họ: “tôi không gặp tông đồ nào, ngoại trừ Giacôbê, em của Chúa” (Gal 1:19). Và ở một nơi khác: “Há chúng tôi lại không có quyền ăn và uống ư? Không có quyền dẫn theo vợ con giống như các Tông đồ khác, như anh em của Chúa, và như Cephas hay sao?” (1 Cor 9:5). Và sợ rằng không ai nên có chứng cớ của người Do Thái, vì chính từ miệng họ mà ta nghe thấy tên các em của Ngài, nhưng nên chủ trương rằng các đồng bào của Ngài đã bị lầm cũng cùng một cái lầm liên quan đến anh em Ngài, một cái lầm mà họ đã rơi vào liên quan đến người cha, nên Helviđiô đã phải thốt ra lời cảnh cáo sắc bén sau đây: “Cũng cùng những tên ấy đã được Phúc âm gia nhắc lại trong các đoạn khác, và ở đấy những người ấy như thế vẫn là anh em của Chúa và con cái bà Maria”. Matthêu cho hay: “Ở đó (chắc chắn ở nơi Chúa bị đóng đinh), cũng có nhiều phụ nữ khác đứng nhìn từ đàng xa, họ là những người đã theo phục vụ Chúa Giêsu từ Galilêa: trong số ấy có Maria Magdalêna, Maria mẹ Giacôbê và Giôxét, và mẹ các con trai Dêbêđê” (Mt 27:55). Mac-cô cũng có đọan: “Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong số họ có Maria Magdelêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và mẹ Gioxét, cùng bà Salômê” (Mc 15:40); và liền sau đó không xa: “Và nhiều phụ nữ khác đã cùng lên Giêrusalem với Ngài” (Mc 15:41). Cả Luca nữa: “Có Maria Mađalêna, và Gioana, và Maria mẹ Giacôbê, và nhiều phụ nữ khác với họ” (Lc 24:10)
14. Lý do khiến tôi phải lặp đi lặp lại nhiều lần cùng một chuyện giống nhau là để ngăn ngừa hắn khỏi nêu ra những vấn đề không đúng sự thật và hô hoán lên là tôi cố ý giữ lại những đoạn có lợi cho hắn, và rằng quan điểm của hắn đã không bị đánh bại do bằng chứng của Thánh Kinh, nhưng là qua lý lẽ trốn tránh. Hắn bảo: hãy coi Giacôbê và Giôxét rõ ràng là con của Maria, mà họ chính là những người được người Do Thái gọi là anh em của Chúa Giêsu. Hãy coi Maria rõ ràng là mẹ của Giacobê hậu và Giôxét. Và Giacôbê được gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền là con trai của Dêbêđê, như Mac-cô đã nói ở nơi khác: “Và Maria Mađalêna và Maria mẹ Giôxét nhìn vào nơi Ngài được chôn cất. Và khi ngày Sabát đã qua, họ đi mua thuốc thơm để đến ướp xác Ngài” (Mc 15:47, 16:1). Và, hệt như điều mong đợi, hắn nói rằng: “Thật là một cái nhìn nghèo nàn và vô đạo xiết bao về Maria, khi chủ trương rằng trong khi những người đàn bà khác quan tâm đến việc chôn cất Chúa Giêsu, thì mẹ Ngài lại vắng mặt; hoặc khi tạo ra một bà Maria thứ hai; và còn hơn thế nữa, vì Phúc âm Gioan làm chứng rõ là bà có mặt ở đó, khi Chúa, từ trên thánh giá, trao phó bà, vốn là mẹ Ngài và nay trở thành quả phụ, cho Gioan chăm sóc. Hay là ta phải giả thiết là các Phúc âm gia lầm lẫn và khiến ta lầm lẫn đến độ gọi Maria là mẹ của những người được người Do-Thái biết đến như là anh em của Chúa Giêsu?”
15. Quả là tối tăm, quả là điên khùng tự lao mình xuống hố tự diệt! Ngươi nói rằng mẹ của Chúa có mặt bên thánh giá, ngươi nói rằng bà được trối trăng cho môn đệ Gioan vì thân phận quả phụ và đơn côi của bà: như thể, bà không có bốn con trai, và hàng tá con gái, như ngươi vốn trình bầy trước đây, những người mà bà có thể cậy nhờ sao? Ngươi còn dùng cả chữ quả phụ để chỉ về bà trong khi Thánh Kinh không hề dùng từ ngữ ấy. Và dù ngươi đã trích hết các đoạn Phúc Âm, nhưng duy có đoạn của Gioan là ngươi không thích. Ngươi nói qua loa rằng bà có mặt bên thánh giá, điều mà rõ ràng ngươi không cố ý bỏ qua, nhưng ngươi lại bỏ qua không nhắc đến những người đàn bà khác cũng có mặt bên thánh giá với bà. Ta sẵn sàng bỏ qua nếu người dốt nát, nhưng thực ra ta thấy ngươi có lý do để không nhắc đến họ. Để ta nhắc lại điều Gioan nói: “Đứng bên thánh giá của Chúa Giêsu có mẹ Ngài, chị mẹ Ngài, là Maria vợ Clopas, và Maria Mađalêna” (Ga 19:25). Không ai còn hồ nghi là có hai tông đồ được gọi là Giacôbê, Giacôbê con Giêbêđê, và Giacôbê con Alphêô. Ngươi có ý coi ông Giacôbê hậu, người ít được biết đến, mà trong Sách Thánh gọi là con của Maria, tuy không phải là Maria mẹ Chúa Giêsu, là một Tông đồ hay không? Nếu ông là một tông đồ, hẳn ông phải là con trai của Alphêô và một người tin vào Chúa Giêsu, “vì cả đến anh em Ngài cũng không tin Ngài”. Nếu ông không phải là tông đồ, nhưng là một Giacôbê thứ ba (ông là ai tôi không nói được), làm sao có thể coi ông là em trai của Chúa Giêsu, và làm sao, là người thứ ba, lại được gọi là ông hậu để phân biệt với ông tiền, khi tiền và hậu được dùng để chỉ các mối liên hệ giữa không phải ba mà là hai người? Mặt khác nên để ý điều này nguời anh em của Chúa là một tông đồ, như Phaolô đã nói: “Rồi sau ba năm, tôi lên Giêrusalem để thăm Cephas, và nấn ná ở lại với ông 15 ngày. Còn các tông đồ khác tôi không gặp được ai, ngoại trừ Giacôbê, người anh em của Chúa” (Gal 1:18-19). Và cùng trong Thư ấy: “Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Giacôbê, Kêpha và Gioan, những người được coi là cột trụ” (Gal 2:9) v.v... Và có thể là ngươi sẽ không chịu coi ông Giacôbê này là con của Giêbêđê, thì ngươi chỉ cần đọc Tông Đồ Công Vụ là sẽ thấy ông Giacôbê đó bị Hêrod hãm hại. Kết luận duy nhất chỉ có thể là bà Maria được miêu tả như là mẹ của Giacôbê hậu chính là vợ của Alphêô và là chị của Maria mẹ Chúa Giêsu, người mà Phúc âm gia Gioan gọi là “Maria Clopas”, có thể gọi theo tên cha, hay tên một thân nhân nào khác, hay vì một lý do nào khác. Nhưng nếu ngươi nghĩ đó là hai người khác nhau vì có nơi thì đọc là “Maria mẹ Giacôbê hậu” có nơi lại là “Maria Clopas”, thì người phải hiểu là trong Sách Thánh một cá nhân thường vẫn mang nhiều tên. Như Raguel, cha vợ của Mô-sen, cũng có tên là Jethro. Gedeon, chả có lý do nào để đổi tên, tự dưng được kêu là Jerubbaal. Ozias, Vua Giuđa, cũng có một tên khác là Azarias. Núi Tabor cũng được gọi là Itabyrium. Còn Hermon được người Phê-ni-xi gọi là Sanior, nhưng người Amorites lại gọi là Sanir. Cùng một giải đất được kêu bằng ba tên khác nhau trong sách Ezekiel đó là Negeb, Teman và Darom. Phêrô lúc được gọi là Simon, lúc được gọi là Cephas. Giuđa theo phe Nhiệt thành trong một Phúc âm khác được gọi là Ta-đê-ô. Và còn nhiều thí dụ khác mà người đọc có thể tự tìm ra từ khắp các phần của Sách Thánh.
16. Giờ đây chúng tôi xin giải thích ở đây điều mà tôi muốn chứng minh, là làm thế nào những người con trai của Maria, chị mẹ Chúa Giêsu, những người tuy trước đây không tin nhưng sau này đã tin, lại được gọi là anh em của Chúa. Rất có thể có trường hợp một trong những người anh em đó đã tin ngay từ trước trong khi những người khác thì mãi sau này mới tin, và cũng có thể một Maria là mẹ của Giacôbê và Giôxét, tức “Maria Clopas”, vợ của Alphêô, còn Maria kia là mẹ của Giacôbê hậu. Dù sao, nếu bà sau là mẹ của Chúa Giêsu, thì thánh Gioan hẳn đã gán cho bà tước hiệu ấy rồi, cũng như ở những đoạn văn khác, chứ đâu có kêu bà là mẹ của những người con trai khác khiến người ta phải lẫn lộn. Nhưng ở giai đoạn này, tôi chưa muốn xác định hay phủ nhận cái giả thiết cho rằng Maria vợ Clopas và Maria mẹ của Giacôbê và Giôxét là hai người đàn bà khác nhau, miễn là ta phải hiểu rõ ràng rằng Maria mẹ Giacôbê và Giôxét không phải là một với mẹ Chúa Giêsu. Helviđiô sẽ nói: như vậy phải chăng các anh sẽ cho rằng những người được gọi là anh em của Chúa thực ra không phải là anh em của Ngài sao? Đúng vậy, ta sẽ chứng minh điều ấy cho ngươi hay. Trong Thánh Kinh, có bốn loại anh em: anh em tự nhiên, anh em do chủng tộc, anh em thân thích (kindred), anh em kết nghĩa (love). Anh em tự nhiên như trường hợp Esau và Giacóp, 12 tổ phụ Do-Thái, Anđrê và Phêrô, Giacôbê và Gioan. Anh em do chủng tộc, mọi người Do-Thái đều được gọi là anh em đối với nhau, như trong sách Đệ Nhị Luật: “Nếu anh em ngươi, một người đàn ông Do-Thái, hay một người đàn bà Do-Thái, bị bán vào tay ngươi và đã phục vụ ngươi đủ sáu năm; thì đến năm thứ bẩy, ngươi phải trả tự do cho họ” (Đnl 15:12). Cũng trong sách ấy: “Ngươi sẽ đặt người mà Chúa sẽ chọn lên làm vua trên ngươi: ngươi sẽ đặt một người trong hàng anh em ngươi lên làm vua trên ngươi; ngươikhông được đặt bất cứ ngoại nhân nào, vốn không phải là anh em ngươi, lên làm vua ngươi” (Đnl 17:15). Lại nữa: “Ngươi không được thấy con bò hoặc con chiên của anh em ngươi đi lạc mà bỏ mặc làm ngơ: trái lại phải làm sao đưa chúng về cho anh em ngươi. Còn nếu anh em ngươi không ở gần ngươi, hoặc ngươi không biết họ, thì ngươi phải đem chúng về nhà ngươi, giữ chúng ở đó cho đến khi anh em ngươi đi kiếm chúng, lúc đó ngươi phải hoàn chúng lại cho họ” (Đnl 22:1-2). Còn Tông Đồ Phaolô thì viết như sau: “Tôi mong bị Chúa Kitô nguyền rủa vì anh em tôi, những người máu huyết vốn là người Do Thái của tôi” (Rm 9: 3-4). Hơn nữa, còn có thứ anh em thân thích nữa, những người cùng một dòng tộc mà ra, một patria, tương đương với từ Latinh paternitas, nghĩa là do cùng một gốc mà có những chi tộc khác nhau. Trong sách Sáng Thế, ta thấy: “Abram nói với Lót: cậu xin cháu, giữa cậu và cháu, giữa những người chăn chiên của cậu và những người chăn chiên của cháu, đừng bao giờ tranh chấp làm chi; vì cậu cháu mình đều là anh em với nhau cả” (St 13:8). Lại nữa: “Thế là Lót chọn cho mình trọn bình nguyên Gióc-đăng và đi về phía Đông: và họ chia tay nhau với người anh em mình” (St 13:11). Chắc chắn Lót không phải là anh em của Abram, mà là con của người em Abram, tên là Aram. Vì Terah sinh ra Abram, Nahor và Aram, và Aram sinh ra Lót. Chúng ta còn đọc thấy rằng: “Abram bẩy mươi lăm tuổi khi rời khỏi Hatan. Ông mang theo Sarai là vợ và Lót, con trai của em ông” (St 12:5). Nhưng nếu ngươi còn hồ nghi việc cháu mà được gọi là anh em, thì ta sẽ cho ngươi một thí dụ. “Và khi Abram nghe tin anh em mình bị bắt cầm tù, ông bèn dẫn theo những người đàn ông thiện chiến, vốn sinh trong nhà ông, hết thẩy khỏang ba trăm tám mươi người” (St 14:14). Và sau khi diễn tả cuộc tấn công và sát hại trong đêm, soạn giả Sáng Thế thêm, “và ông mang về mọi chiến lợi phẩm và cả em ông là Lót nữa” (St 14:16). Chứng cớ cho lời khẳng định của ta tưởng thế đã là đủ rồi. Nhưng sợ ngươi vẫn còn cố cãi cối cãi chày, để ráng bò thoát thân như loài rắn, ta đành phải cột cứng ngươi lại bằng những sợi thừng chứng cớ để ngươi khỏi cựa quậy kêu ca, vì ta biết rõ ngươi sẽ cho rằng ngươi bị đánh bại không phải bằng sự thật Thánh Kinh mà bằng những biện luận tế vi. Giacóp, con trai Isaac và Rêbecca, vì sợ mưu toan của anh, nên đã trốn đi Lưỡng Hà, đến gần và lăn hòn đá khỏi miệng giếng, đoạn cho đoàn vật của Laban uống nước, Laban là em trai mẹ ông. “Đoạn Giacóp hôn Rachel, và cất tiếng nói mà khóc. Giacóp nói với Rachel rằng mình là anh em của cha nàng, và mình là con trai của Rêbecca” (St 29:11-12). Đây là một thí dụ khác của điều đã nói trên kia theo đó cháu được gọi là anh em. Lại nữa: “Laban nói với Giacóp: vì cháu là anh em ta, chả lẽ cháu lại giúp ta không công? Hãy cho cậu hay cháu lấy tiền công ra sao” (ST 29:15). Và rồi 20 năm sau, không để cha vợ hay, ông đã cùng vợ con lên đường trở lại quê cha. Khi Laban chận ông lại trên núi Gilead, và không tìm ra những bức tượng bị Rachel dấu trong hành lý, Giacóp đã thưa với Laban như sau: “Tôi làm gì quấy, tôi có tội tình chi, mà cha lại săn đuổi theo tôi. Lục lọi tất cả đồ đạc của con, cho có tìm được đồ đạc gì của nhà cha không? Cha cứ đưa ra đây trước mặt anh em con và anh em cha, để họ phân xử cho hai bên” (St 31:37). Ngươi hãy cho ta hay ai là anh em của Giacóp và Laban đang hiện diện tại đó? Esau, anh của Giacóp, chắc chắn không có ở đó rồi, còn Laban, con của Bethuel, thì làm gì có anh em trai, ngoại trừ người em gái là Rêbecca.
17. Còn man vàn những thí dụ khác giống như thế trong Sách Thánh. Tuy nhiên, để vắn gọn, tôi xin trở lại loại cuối cùng trong bốn loại anh em, tức là anh em do yêu thương âu yếm mà gọi vậy. Loại này lại chia làm hai, một do liên hệ thiêng liêng, một do liên hệ chung chung. Tôi nói thiêng liêng, vì mọi Kitô hữu chúng ta đều được gọi là anh em, như trong câu: “Tốt lành và vui sung sướng xiết bao khi anh em đoàn kết với nhau” (Tv 133:1). Và trong một Thánh vịnh khác, Đấng Cứu Thế nói: “Ta sẽ tuyên xưng danh ngươi cho anh em ta” (Tv 22:23). Và chỗ khác: “Hãy đi gặp anh em ta mà nói với họ” (Mt 28:10). Còn chung chung, là vì chúng ta hết thẩy đều là con một Cha, như thể có một sợi dây huynh đệ giữa tất cả chúng ta. Đấng tiên tri đã nói: “Hãy nói với những kẻ ghét các ngươi rằng: các vị đều là anh em của chúng tôi”. Còn Tông Đồ Phaolô, trong thư Côrintô, viết như sau: “Đừng đi lại với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng, quen chửi bới, say sưa rượu chè hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn uống với những người như thế” (1 Cr 5:11). Vậy ta hỏi ngươi, ngươi coi những người anh em của Chúa trong Phúc âm thuộc loại anh em nào. Ngươi hẳn sẽ nói: là anh em tự nhiên. Nhưng Thánh Kinh đâu có nói như vậy; vì Thánh Kinh đâu có gọi họ là con của Maria hoặc con của Giuse. Liệu có nên coi họ là anh em do chủng tộc không? Nhưng thật là vô lý nếu cho rằng chỉ có một số ít người Do Thái được gọi là anh em của Ngài trong khi đáng lý ra người Do-Thái nào thời Ngài cũng phải được gọi là anh em của Ngài mới đúng chứ? Vậy có phải họ là anh em do sự thân mật gần gũi và sự đồng tâm nhất trí hay không? Nếu như vậy, còn ai thực sự là anh em của Ngài hơn các Tông đồ là những người được Ngài giáo huấn riêng và gọi là Mẹ Ngài và anh em Ngài? Lại nữa, nếu mọi người đều là anh em của Ngài, thì quả là rồ dại khi thông báo một cách đặc biệt rằng “Kìa, anh em Thầy đang kiếm Thầy đấy” (MT 12:47), vì ai cũng đáng được gọi bằng tước hiệu ấy. Chỉ còn mỗi cách là chấp nhận lối giải thích trên đây nghĩa là hiểu anh em theo nghĩa anh em thân thích (anh em họ), chứ không phải anh em do yêu thương, do kết nghĩa, cũng không phải anh em cùng chủng tộc, càng không phải anh em tự nhiên (anh em ruột). Giống như trường hợp Lot được gọi là em Abraham, Giacóp được gọi là em Laban, và những người con gái của Zelophehad nhận nhiều người làm anh em mình, và chính Abraham gọi vợ Sarah của mình là em gái, vì ông nói: “Nàng quả thật là em gái tôi, về phía cha chứ không phải về phía mẹ” (St 20:12) nghĩa là, nàng là con gái của em trai ông chứ không phải con gái của chị ông. Chứ nếu không, ta ăn nói làm sao về Abraham, một người công chính, mà lại cưới chính em gái con cùng cha với mình? Thánh kinh, khi kể lại chuyện người xưa, không muốn làm mệt tai ta bằng cách giảng giải dài dòng, nhưng thích để ta tự hiểu lấy: vì sau đó Thiên Chúa đã dùng luật mà ngăn cấm rõ ràng rằng: “Ai lấy em gái mình, con cùng cha hoặc cùng mẹ, mà lột trần nó ra, là phạm tội gớm ghiếc, phải bị tiêu diệt. Ai lột trần chị em mình, là mang lấy tội lỗi” (Lv 20:17).
18. Có những sự việc, mà vì quá ngu dốt, ngươi chưa bao giờ đọc, và do đó ngươi không biết hết toàn bộ Thánh Kinh, nhưng đã dùng sự ngu xuẩn của ngươi mà phạm đến Đức Nữ Trinh, hệt như câu truyện về anh chàng kia, vốn không được ai biết đến và biết là mình không làm được chuyện gì hay khiến thiên hạ biết đến tên, nên đành đi đốt đền thờ Điana: nhưng khi không thấy ai khám phá ra hành vi phạm thượng ấy, đã tự mình đi tới đi lui hô hoán cho mọi người thấy chính mình là người nổi lửa. Các nhà cầm quyền Êphêsô tò mò muốn biết điều gì đã khiến anh ta làm chuyện đó, thì anh trả lời là nếu anh ta không làm được điều gì tốt để lấy tiếng tăm, chắc mọi người sẽ cho anh ta tiếng tăm nhờ việc xấu. Lịch sử đảo Grece (Grecian) kể lại truyện đó. Nhưng ngươi còn tệ hơn thế nữa. Ngươi đã nổi lửa đốt phá đền thờ đã mang xác thân của Chúa, ngươi đã lăng nhục cung thánh Chúa Thánh Thần bằng cách nhất tâm biến nó thành nơi chứa đến bốn anh em trai và một lô chị em gái. Tắt một lời, đồng thanh với người Do Thái, ngươi lên tiếng: “Phải chăng người này không phải là con trai bác thợ mộc sao? Mẹ ông ta há không phải là Maria đấy ư? và các enh em của ông ta há không phải là Giacôbê, Giuse, và Simong cùng Giuđa đó sao? Và các chị em của ông ta há không sống giữa chúng ta đấy ư? Các từ này chắc chẳng ai dùng nếu như không có cả hàng đống anh em chị em”. Ta lạy nhà ngươi, nhà ngươi hãy cho ta hay trước nhà ngươi, có ai dám phạm thượng đến thế hay chưa? Ai dám nghĩ cái lý thuyết của ngươi đáng giá một xu không? Ngươi đã được toại nguyện, vì ngươi đã trở nên “tiếng tăm” nhờ tội ác. Đối với ta, kẻ đối thủ của ngươi, dù cùng có mặt trong một thành phố, nhưng quả, như câu cách ngôn người ta thường nói, ta không biết ngươi trắng hay đen. Ta bỏ qua các lỗi dùng từ có nhan nhản trong các sách ngươi viết. Ta không nói một lời về phần nhập đề đần độn của ngươi. Trời ơi! Ta không đòi hỏi tài hùng biện, vì vốn chẳng có tài ấy, nhưng ngươi đã nhờ người anh em của ngươi là Craterius giúp. Ta không đoì hỏi vẻ duyên dáng của văn phong, ta chỉ đi tìm sự trong sáng của tâmhồn: vì đốivới Kitô hữu, sai sót và tội lớn nhất về văn phong là đề cập đến một cái gì đê tiện cả trong lời nói lẫn trong hành động. Ta xin kết luận về những điều biện bạch của ta. Ta sẽ xử với ngươi như thể ta chưa hơn ngươi ở điểm nào; và ngươi sẽ thấy ngươi đang vất vưởng trên những cái sừng tiến thoái lưỡng nan (dilemma). Rõ ràng là anh em của Chúa được gọi một cách như khi Giuse được gọi là cha của Chúa vậy. “Mẹ và cha con héo hắt đi tìm con”. Chính mẹ Ngài nói câu đó, chứ không phải người Do-Thái. Chính Phúc âm gia thuật lại rằng Cha Ngài và Mẹ Ngài hết sức bỡ ngỡ về những điều người ta nói liên quan đến Ngài, và còn nhiều đoạn văn khác mà chúng ta đã trích dẫn trong đó Giuse và Maria được gọi là cha mẹ của Ngài. Biết rằng ngươi đã dại dột cho rằng các bản văn HyLạp có nhiều sai lạc, thì đáng lẽ ngươi phải đọc nhiều bản văn khác mới đúng chứ. Cho nên ta xin trích dẫn Phúc Âm Gioan, trong đó điều sau đây được viết rất rõ: “Philip gặp Nathanael và nói với ông này: Chúng tôi đã thấy đấng mà Môisen trong lề luật và các tiên tri đã viết về, đó là Giêsu Nagiarét, con trai Giuse” (Ga 1:45). Ngươi chắc chắn tìm thấy đoạn đó trong bản chép của ngươi. Vậy ngươi hãy cho ta hay, làm sao Chúa Giêsu lại là con trai của Giuse được khi rõ ràng Ngài đã được tượng thai do Chúa Thánh Thần? Giuse có phải là cha thật của Ngài không? Ngươi có tối tăm bao nhiêu đi chăng nữa, chắc cũng không dám quả quyết như thế. Hay ông là cha cho có tiếng (reputed) của Ngài mà thôi? Nếu thế, thì ngươi hãy áp dụng một quy luật như thế cho những người được gọi là anh em Ngài, một quy luật đã áp dụng cho Giuse khi ông được gọi là cha Ngài. Đồng Trinh Tốt Hơn Bậc Vợ Chồng
19. Giờ đây, sau khi đã dọn dẹp hết đá ghềnh và cát đụn, tôi phải căng buồm để chạy thẳng đến đoạn kết của hắn. Vì cảm thấy mình lõm bõm, nên hắn đã phải đưa Tertullianô ra làm bằng và trích dẫn nhiều lời của Victorinô, giám mục thành Petavium. Về Tertullianô, tôi chẳng cần phải nói gì hơn ngoài việc ông ta không thuộc về Giáo Hội. Còn đối với Victorinô, tôi xin quả quyết Ông chỉ nói điều đã được Phúc Âm chứng minh – nghĩa là anh em của Chúa Giêsu không phải là con cái của Maria, mà là anh em theo nghĩa tôi đã giải thích, tức là anh em họ hàng, chứ không phải anh em ruột. Tuy nhiên, chúng ta đang phí thì giờ cho những chuyện tầm phào và khi đi theo giòng dư luật nhỏ nhặt, ta đã bỏ qua cái bể dư đầy chân lý. Há, để chống lại ngươi, ta lại không biết đưa ra nhiều tác giả thời xưa sao? I-nha-xi-ô, Pô-li-carp, I-rê-nê-ô, Justin Tử Đạo, và nhiều học giả khác đầy tinh thần tông đồ và tài hùng biện, những người, trong khi chống lại Ê-bi-on, Thê-ô- đô-tô thành Byzantin, và Va-len-ti-nô, cũng đã bênh vực cùng một quan điểm như chúng ta, và đã trước tác nhiều cuốn sách đầy khôn ngoan. Nếu ngươi đọc được những điều họ viết ra, chắc chắn ngươi đã khôn hơn rồi. Tuy nhiên thiết nghĩ nên trả lời vắn tắt từng điểm một hơn là nấn ná lâu hơn khiến bài viết này trở nên dài dòng không cần thiết.
20. Giờ đây ta sẽ tấn công thẳng vào đoạn trong đó, để chứng tỏ mình khéo léo khôn ngoan, ngươi đã so sánh giữa đức đồng trinh và bậc sống hôn nhân. Ta không khỏi mỉm cười khi nghĩ đến câu phương ngôn và tự hỏi không biết có bao giờ ngươi đã được xem một cuộc khiêu vũ ý tứ chưa (cared dance)? Ngươi đặt câu hỏi: “Liệu các người đồng trinh có hơn được Abraham, Isaac, và Giacóp là những người có vợ chăng? Há các hài nhi không được Chúa ngày ngày tạo hình trong cung lòng các bà mẹ đó ư? Và nếu thế, ta có nên xấu hổ khi nghĩ đến việc đức Maria ăn ở với chồng sau khi đã sinh con không? Nếu qúi vị thấy điều đó là điều bất xứng, thì để nhất quán, có lẽ qúi vị không nên tin rằng một vì Thiên Chúa lại có thể sinh ra đời do một Trinh Nữ theo cách sinh nở tự nhiên. Vì theo qúi vị, việc một trinh nữ sinh hạ Thiên Chúa bằng chính cơ quan sinh đẻ của mình thì ô nhục hơn là một trinh nữ ăn nằm với chính chồng của mình sau khi đã sinh con.” Ông Helviđiô ạ, nếu muốn, sao ông không nói thêm những điều ô nhục khác thuộc giới tự nhiên, nào là dạ chửa chín tháng mỗi ngày một to hơn, nào là bệnh tật, đẻ đái, máu me, tã lót. Sao ông không tưởng tượng thêm hài nhi trong túi ối. Lại còn máng cỏ thô cứng, tiếng khóc ỉ ôi của bé thơ, cắt bì vào ngày thứ tám, thời gian thanh tẩy, để chứng tỏ là Ngài chẳng sạch sẽ gì. Chúng tôi đâu có mắc cỡ, chúng tôi chỉ không chịu im lặng mà thôi. Những ô nhục Ngài chịu vì tôi càng lớn bao nhiêu, tôi càng nợ ơn Người bấy nhiêu. Và khi ông kể ra đủ thứ, thì ông lại quên mất điều ô nhục lớn hơn hết mọi sự đó là cây thập tự, cây giá mà chúng tôi tuyên xưng, mà chúng tôi tin kính, mà nhờ đó chúng tôi chiến thắng mọi địch thù.
21. Nhưng vì chúng tôi không chối điều đã được viết ra, thì chúng tôi phải chối điều không được viết ra. Chúng tôi tin Thiên Chúa đã sinh ra đời do một Trinh Nữ, là vì chúng tôi đọc thấy điều đó. Còn việc đức Maria ăn ở với chồng sau khi sinh con, thì chúng tôi không tin vì chúng tôi không đọc thấy điều đó. Chúng tôi cũng không nói điều ấy để lên án hôn nhân, vì đức đồng trinh xét cho ngay chỉ là hoa trái của hôn nhân; nhưng chỉ là vì khi đề cập đến các thánh, ta không nên phán đoán hồ đồ. Nếu chịu nhìn nhận điều có thể có như tiêu chuẩn để phán đoán, có lẽ ta nên cho rằng Ông Giuse có nhiều vợ vì Abraham đã có nhiều vợ, và Giacóp cũng thế, nên các anh em của Chúa là con các bà vợ này, một thứ ý nghĩ tạo hoẹt do một số người đưa ra một cách võ đóan do ẩu tả hơn là do lòng đạo đức. Ngươi nói đức Maria không tiếp tục giữ mình đồng trinh, còn ta, ta nói rằng cả Ông Giuse, vì đức Maria, cũng giữ mình đồng trinh nữa, như thế nhờ một cuộc hôn nhân trinh khiết, một đứa con trinh khiết đã được hạ sinh. Vì nếu, với tư cách một người công chính, ông đã không bị thúc bách bởi lòng tà dâm và vì không có chỗ nào viết rằng ông có vợ khác, mà chỉ viết rằng ông là hộ thủ của đức Maria, người mà ông coi là vợ chứ không coi mình là chồng, nên kết luận chỉ có thể là đấng xứng đáng được gọi là cha của Chúa phải là người cũng đồng trinh.
22. Và giờ đây trước khi đưa ra một so sánh giữa đức đồng trinh và bậc sống hôn nhân, tôi xin các độc giả đừng nghĩ rằng khi ca tụng đức đồng trinh, tôi muốn hạ giá bậc hôn nhân, và tách biệt các thánh thời Cựu Ước với các thánh thời Tân Ước, nghĩa là các đấng có vợ và các đấng không muốn bận đến thê nhi: đúng hơn, tôi nghĩ rằng mỗi thời gian, mỗi hoàn cảnh một khác, nên các đấng thời Cựu Ước có luật dành cho các vị, còn với chúng ta, thời gian cánh chung đã gần lắm rồi nên một luật khác đã được áp dụng. Bao lâu còn luật kia, tức luật “Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều cho đầy mặt đất” (St 1:28) và “Vô phúc đàn bà khô cằn không dạ chửa trong Israel” còn đó, thì ai cũng lập gia đình, cũng lấy vợ lấy chồng, rời cha bỏ mẹ, mà nên một thân xác với nhau. Nhưng một khi tiếng loa sấm sét đã vang lên; “Thời gian chẳng còn bao nhiêu, vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có” (1Cor 7:29), thì ta nên bám chặt lấy Chúa, để nên một thần trí với Ngài. Tại sao lại vậy? Vì “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ” (1Cor 7:32-33). Giữa người vợ và người trinh nữ cũng có sự khác biệt: “Người không có chồng thì chuyên lo việc Chúa, để nên thánh cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1Cor 7: 34). Tại sao ngươi còn cãi cối cãi chầy? Tại sao người còn chống cự? Đấng ưu việt đã nói rõ điều ấy; Ngài cho ta hay giữa người vợ và người trinh nữ có khác biệt. Ngươi nên để ý cái bậc sống ấy hạnh phúc biết bao vì trong nó ngay cả sự phân biệt về giới tính cũng mất đi. Trinh nữ không bị gọi là đàn bà nữa. “Người không có chồng thì chuyên lo việc Chúa, để được thánh thiện cả hồn lẫn xác”. Trinh nữ được định nghĩa là người thánh thiện cả hồn lẫn xác, vì có ích gì đâu nếu chỉ trinh khiết ngoài thân xác mà linh hồn thì lại vương vấn chuyện chồng con. “Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Có phải ngươi nghĩ rằng không có khác biệt gì hết giữa một người chuyên chăm cầu nguyện và chay tịnh với người hễ chồng đến gần là phải sửa soạn nhan sắc, đi đứng yểu điệu, và cố gắng tỏ ta âu yếm chăng? Trinh nữ không cần phải tỏ ra sửa soạn như thế; tuy nàng không cần phải che dấu nét duyên dáng tự nhiên của mình. Đàn bà có chồng thì trái lại phải son phấn trước gương, và như để trêu ngươi đấng Hóa Công, họ ráng tạo được cái mà nhan sắc tự nhiên của họ không có. Rồi thì tiếng con trẻ la ó, cả nhà ồn ào, con chờ mẹ bảo ban, hôn hít, rồi tiền chợ tiền búa, dành dụm, chi tiêu. Một bên thì các ông đầu bếp trang bị sẵn đồ nghề đồ tể và sẵng sàng róc xương lọc thịt, bên kia thì tiếng ì ầm của các thợ đan. Giữa lúc đó, có tin chồng về đem theo mấy ông bạn qúi, thế là như con én, người vợ chạy đôn chạy đáo khắp nhà, lo lắng đủ chuyện: ghế tựa có phẳng phiu không, đường vào nhà đã được quét tước hay chưa? Hoa đã cắm vào bình chưa? Cơm nước đã sẵn sàng chưa? Ta xin ngươi, hãy cho ta hay, giữa những bận bịu ấy, có còn chỗ nào mà nghĩ đến Chúa nữa hay không? Gia đình như thế có hạnh phúc chăng? Giữa cái chốn chiêng trống như thế, ồn ào như vậy, nào là tiếng điếu, nào là tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng thanh la não bạt, ngươi còn thấy chỗ nào dành cho lòng kính sợ Chúa nữa không? Tầm gửi bị hất hủi nhưng lại cảm thấy tự hào về vinh dự đó. Rồi đến lúc phải làm nạn nhân cho những thèm muốn nửa kín nửa hở, một cái đích nhắm cho những con mắt thèm thuồng. Người vợ bất hạnh một là phải chiều theo và do đó vấp ngã, hai là cuỡng lại và trở thành kẻ khiếu khích chồng. Từ đó phát sinh bất hòa, gây mầm cho ly dị. Hoặc giả ngươi tìm cho ta một nhà nào trong đó những chuyện trên không xẩy ra, một con chim hoạ hiếm (rata avis)! Tuy nhiên, ngay ở đó, chính việc quán xuyến gia đình, việc giáo dục con cái, các đòi hỏi của chồng, việc sửa phạt người ăn người ở mà thôi cũng đủ khiến tâm trí ta chẳng còn chỗ nào mà nghĩ đến Chúa được nữa. “Sarah đã không còn có kinh như thói quen của phụ nữ nữa” (St 18:10), Thánh kinh nói như thế, và sau này Abraham nhận được lệnh của Chúa “mọi điều Sarah nói, ngươi phải nghe lời nàng” (St 21:12). Người đàn bà nào không còn chịu cảnh lo âu và đau đớn của việc sinh con và khi đã trải qua sự biến đổi trong đời, hết còn phải thi hành chức năng của một người đàn bà nữa, thì người ấy thoát khỏi sự nguyền rủa của Chúa: lúc ấy, nàng không còn là thèm muốn của chồng nữa, trái lại chồng nàng nay trở thành lệ thuộc nàng, cho nên Người mới ra lệnh cho người đàn ông rằng: “mọi điều Sarah nói, ngươi phải nghe lời nàng”. Nhờ thế hai vợ chồng có thì giờ cầu nguyện. Chứ bao lâu món nợ hôn nhân chưa trả xong, thì cầu nguyện vẫn còn bị sao lãng.
23. Tôi không chối là trong số những bà quả phụ cũng như những người có chồng, vẫn có những người thánh thiện; nhưng một là họ đã thôi không còn là vợ nữa hai là họ vẫn còn là vợ nhưng lại đã sống thanh khiết như trinh nữ. Thánh Tông Đồ, như thể có Chúa Kitô nói trong mình, đã làm chứng điều đó khi ngài nói rằng: “Người không có chồng thì chuyên lo việc của Chúa, họ tìm cách vui lòng Chúa: còn người có chồng thì chuyên lo việc đời: họ tìm cách làm vui lòng chồng”. Ngài để ta tự do sử dụng lý trí trong vấn đề này. Ngài không bó buộc ai cũng không muốn dẫn ai vào bẫy: ngài chỉ muốn khuyến dụ điều thích hợp khi ngài mong muốn mọi người đàn ông cũng nên bắt chước như ngài. Quả thực, ngài không nhận được một giới răn nào của Chúa buộc ta phải sống trinh khiết, vì ơn ấy vượt quá khả năng tự nhiên của con người, và quả là khiếm nhã khi buộc mọi người phải bay lên ngược với tự nhiên giới, nói cách khác là phải trở nên như thiên thần. Chính cái tinh khiết thiên thần ấy đem lại cho đức khiết trinh phần thưởng cao qúi nhất của nó, và dường như thánh Tông đồ không thích lối sống bị giằng co bởi mặc cảm tội lỗi. Tuy vậy, trong cùng mạch văn ấy, ngài thêm: “(Về vấn đề độc thân) Tôi chỉ khuyên nhủ anh em, với tư cách là người, nhờ Chúa thương, đáng được anh em tín nhiệm. Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt” (1Cor 7:25-26). Nỗi thống khổ hiện tại nói đây có nghĩa gì? “Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày ấy” (Mt 24:19. Cây gỗ lớn lên là để bị đốn xuống. Đồng lúa được gieo là để được gặt. Mặt đất đã đầy, và dân số đã quá lớn so với đất canh tác. Mỗi ngày, ta đều bị đốn ngã bởi chiến tranh, sát hại bởi bệnh tật, nuốt trửng bởi bão tố, ấy thế mà vẫn đưa nhau ra tòa vì mấy cái hàng rào ngăn tài sản. Đó chỉ là phụ khoản thêm vào luật chung do những người bước theo Con Chiên làm ra, và họ chưalàm dơ áo mặc, vì họ tiếp tục sống trong bậc đồng trinh của mình. Xin lưu ý đến ý nghĩa của chữ dơ (defiling). Tôi không muốn giải thích ở đây, sợ Helviđiô sẽ lạm dụng. Ta đồng ý với ngươi khi ngươi cho rằng có những trinh nữ chẳng khác chi gái lầu xanh; ta còn dám nói mạnh hơn vì trong số trinh nữ, có cả những dâm phụ ngoại tình nữa, và, chắc chắn ngươi còn phải ngạc nhiên hơn khi nghe người ta nói một số giáo sĩ làm nghề chủ chứa (inn-keepers), và không thiếu các đan sĩ dâm tặc. Ai lại không hiểu ngay rằng gái lầu xanh không thể là trinh nữ, dâm tặc không thể là đan sĩ, và giáo sĩ không thể làm chủ chứa? Liệu ta có nên chỉ trích đức khiết trinh chỉ vì những người sống trong bậc đó mắc lỗi không? Đối với ta, bỏ qua những người khác và chỉ bàn đến người đồng trinh mà thôi, ta chủ trương rằng bất cứ ai tham dự vào bán buôn (huckstering), dù có đồng trinh trong th�%