Không gì trong đời khó khăn hơn cho bằng việc nhìn nhận lầm lỗi khiếm khuyết. Có nhiều câu chuyện khuyến cáo về việc lỗi mình nhìn thấy khó còn lỗi người lại dễ. Bàn đến lỗi lầm người khác, cũng là gián tiếp cho mình không tội. Công bằng mà nói, trên đời có nhiều chuyện không như ta tưởng, một phán đoán lành mạnh sẽ cho ta phân biệt tốt dở, đẹp xấu, nhưng biện phân để ý thức mà sống tốt hơn chứ không phải phân biệt để rồi phê phán, kết án.

Mọi ngày trong đời, có biết bao câu chuyện đáng buồn xảy ra trên thế giới, những câu chuyện ấy cho nhân loại những cái nhìn khác nhau. Tựu trung, không phải phê phán con người không biết nhận định, thế nhưng, sự thật bao giờ cũng là sự thật, trúng thì phải công nhận trúng, sai phải thừa nhận sai. Oái ăm ở chỗ con người không chịu nhìn nhận sự thật về mình. Thường tình người ta dễ tha thứ cho khuyết điểm của mình và gay gắt, khắt khe trước lỗi lầm của người. Đức Kytô muốn cho nhân loại một lối thoát, không phải không thể phủ nhận điều tốt xấu nhưng quan trọng hơn, là có cái nhìn cao thượng và đúng đắn về bản thân cũng như về người để mà cảm thông, tha thứ.

Con người không ai hoàn hảo, đó là sự thật đầu tiên mà bất cứ ai muốn làm người đúng nghĩa đều phải chân nhận. Nhìn nhận sự thật của mình để có thái độ đúng khi nhìn nhận người khác. Phải biết đánh giá thật hư để mà nhận định đúng sai. Ai cho mình toàn hảo, một cách nào đó gián tiếp nói rằng mình vô tội, nghĩa là tốt hơn người. Đứng trước mọi tai nạn, biến trắc trong cuộc sống người ta thường cho người làm điều ác ắt phải gặp tai ương, hoạn nạn, vì họ đáng chịu vậy xứng với tội họ đã phạm. Sự thật, không phải thế, Thiên Chúa tốt lành, Ngài chẳng bao giờ tạo nên sự dữ, thế nhưng Ngài có thể rút ra từ sự dữ ấy những điều tốt lành. Tai ương, hay hoạn nạn phần lớn là do tự do chọn lựa của con người, con người đã lạm dụng tự do chọn lựa điều xấu để tự huỷ hoại mình. Đứng trước rủi ro bất trắc của đồng loại, Thiên Chúa kêu mời nhân loại hãy nhìn vào mình để mà tha thứ cho người. Đừng kết án ai khi họ làm điều sai lỗi, đó chính là một tâm hồn cao thượng. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người, chúng ta cũng nghèo nàn, yếu đuối như bất cứ ai, thì làm sao có thể kết án người khác được. Nhìn nhận yếu đuối của người cũng là kinh nghiệm để cho ta đừng va vấp đi vào lối mòn lầm lỗi. Cần phải có thái độ dứt khoát với tội, nhưng cần phải có lòng khoan dung và trưởng thành với người có lỗi, nghiêm túc với tội người khác nhưng không có nghĩa là lên án họ, càng không phải là nhân nhượng để họ sai phạm nhưng hơn hết là phải cho họ một lối thoát để vươn lên chứ không phải đẩy họ xuống vực thẳm. Nay người mai ta, khoan dung tha thứ cho người cũng chính là tha thứ cho mình. Hơn hết, ai trong chúng ta cũng có giới hạn, cũng là người khiếm khuyết, cũng là người cần được tha thứ, tại sao chúng ta lại không tha thứ cho người hoặc tại sao chúng ta không có cái nhìn tích cực về người. Yếu đuối của người cũng chính là kinh nghiệm của ta. Con người ai cũng lỗi lầm, thông cảm, hiểu và tha thứ cho người khác cũng chính là tha thứ cho mình và còn là khiến cho tâm hồn mình nên cao thượng. Tha thứ không đồng nghĩa với nhân nhượng, càng không cùng nghiã với đồng loã nhưng là trưởng thành và bình an.

Trong đời thường, người ta hay kết án, nguyền rủa người có tội, như thể xem họ như đồ đáng bị bỏ đi, cần phải tránh xa, sự thật không vậy, con người ai cũng có phẩm giá và nhân cách, cho dù họ có thể để cho thế lực vật chất làm tha hoá nhân cách ấy, nhưng không phải vì vậy mà họ bị tước đoạt nhân phẩm. Cho dù lỗi lầm có lớn thế nào đi nữa, thì người duy nhất có đầy đủ tư cách làm biến đổi họ, tha thứ cho họ và đón nhận họ, đó là Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài mới là Đấng vô tội. Con người chúng ta, đều là những người có tội thì làm sao chúng ta có thể tha thứ cho người khác nói gì đến việc kết án. Hơn nữa, ta cần phải tha thứ vì chính chúng ta là những người được tha thứ.

Đừng vội vàng nhìn thấy lầm lỗi khiếm khuyết của người khác mà vỗ tay reo mừng, như còn hả hê nguyền rủa cho đáng đời, bõ ghét, đó thật không phải là nhân cách của một con người trưởng thành nhân bản cũng như tâm linh. Người có tâm linh trưởng thành phải là người vui với người vui và biết buồn với kẻ buồn. Chẳng lẽ chúng ta đang tâm nhìn người khác khốn đốn mà có thể vui mừng được hay sao, chúng ta nói rằng chúng ta có trái tim con người, trái tim nhân hậu biết yêu thương mà lại có thể đùa cợt, bửu bôi trước khiếm khuyết của người?

Điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ chính là sự sám hối, nhìn nhận sự thật về thân phận yếu đuối mỏng dòn dễ sa ngã hay phạm tội của mình chứ không phải đứng nhìn lỗi lầm của người khác để kết án hay mỉa mai chê cười. Vũ khí lớn nhất có thể khuất phục kẻ thù chính là cầu nguyện, hãy để Thiên Chúa biến đổi họ, còn chính mình hãy cộng tác bằng cầu nguyện, bằng sự thay đổi chính mình. Không phải cứ nhìn thấy người mắc nạn, gặp rủi ro, nguy hiểm là ta đắc thắng vỗ tay. Cười vui trên đau khổ của người khác đâu phải là quân tử, đâu phải là người cao thượng.

Đừng luôn nghĩ rằng mình tốt hơn bất cứ ai, để rồi không sám hối, quá tự tin ỷ nại vào bản thân mà đánh mất chính mình khi nào không biết. Nếu cứ mãi lo nhìn lỗi người để không canh tân lỗi mình, không chóng thì chày đến lượt mình cũng sa vào vũng lầy ấy. Đức Giêsu đã cảnh báo nhân loại để mọi người không rơi vào con đường mòn ấy nữa, con đường xét đoán, kết án, ngông cuồng, kiêu ngạo. Nếu cứ ở mãi trong tự mãn và lầm tưởng, ngộ nhận về mình, không khéo bạn lại trở nên đáng sợ. Hãy nhận biết mình, đó là điều kiện tiên quyết của một con người trưởng thành, người ta thường hay nói khờ khạo đáng tiếc nhất của một người đó là không biết mình. Ngu dốt mà lầm tưởng thông minh, sai lầm mà lại cho rằng vô tội, cái đáng sợ là ở chỗ đó, và cũng chính vì đó, mà bao nhiêu đáng tiếc xảy ra. Người ta chém giết nhau, loại trừ lẫn nhau cũng chỉ vì ai cũng cho mình công chính, vô tội. Làm gì có ai vô tội cơ chứ, nếu không phải chỉ mình Thiên Chúa. Cũng vậy, một khi không nhìn nhận sự thật về mình thì làm sao có thể biết sai mà thay đổi. Do vậy, phải biết sám hối để được thay đổi, để được cứu độ.

Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài tạo dựng nên thụ tạo Ngài yêu thương, trân trọng. Chính vì quá yêu thương con người, Ngài trao tặng cho họ tự do tuyệt đối của Ngài, lạm dụng tự do, con người đã phản nghịch, quay lưng lại với Thiên Chúa. Thế nhưng, không bỏ mặc con người, Ngài luôn yêu thương và chờ đợi họ quay trở về để được tha thứ. Thiên Chúa luôn luôn tha thứ không ngừng, yêu thương không ngừng và chờ đợi không ngừng. Con người thì hay ghi dấu chấm hết cho nhau, nhưng Thiên Chúa, Ngài không bao giờ ghi dấu chấm hết bất cứ ai. Kiên nhẫn chờ đợi và tha thứ là bản tính của Ngài. Sự chờ đợi và tha thứ của Thiên Chúa là không ngừng và không có giới hạn bởi Ngài là Đấng vô hạn. Người chủ vườn trong dụ ngôn cây vả, phần nào lột tả sự chờ đợi và tha thứ vô biên của Thiên Chúa, thay vì loại bỏ, Ngài đã luôn kiên trung đợi chờ và tha thứ là vậy.

Lạy Chúa, con rất nghiêm khắc với tội, nhưng lại dễ tha thứ cho mình. Khó chịu với lỗi lầm của người, nhất là với ích kỉ, bất công, tham lam, bạo tàn con trở nên cứng cỏi với cuộc sống. Trải qua nhiều thăng trầm sóng gió, con bất chợt nhận ra con mới đích thực cần phải thay đổi, sám hối chứ không phải người. Con mải mê chờ đợi người đổi thay nhưng không biết chính mình mới cần thay đổi. Con cứ mãi ủ ê than trách đời tàn nhẫn, người có tội nhởn nhơ sống ngoài vòng luật pháp, mặc nhiên hành động bạo tàn, thay vì phải hy sinh hãm mình nguyện cầu cho họ. Đứng trước bao vấn nạn tế nhị của thời đại, con cần phải biết yêu mến và cầu nguyện nhiều hơn. Ngược lại đứng trước lời kêu gọi cảnh báo khẩn thiết của Thiên Chúa, qua Lời của Ngài, qua giáo huấn Giáo Hội, qua dấu chỉ thời đại mà con lại giả điếc làm ngơ, không biết đến bao giờ con mới trở lại. Không biết con tính đợi cho đến bao giờ mới trở lại, đến bao giờ con mới trở về với Thiên Chúa để được cứu độ. Con có biết Thiên Chúa, Ngài đã đợi con, Ngài đã chờ đợi con từ khi nào và khẩn thiết đến mức nào, sao con có thể cứ mãi cắm đầu mải miết chạy theo tiếng gọi dục vọng hư vô đê hèn mà quên không trở lại?