Ông Giuse Bùi Đình Đạm đã được Thiên Chúa gọi về Nhà Cha Trên Trời vào sáng ngày 30 tháng 5 năm 2009 tại thành phố San Jose, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi. Ông để lại vợ là bà quả phụ Bùi Đỉnh Đạm và các con các cháu.
Ông Bùi Đình Đạm là cựu Thiếu tướng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời cũng là một người chồng tốt và là một người Công giáo chân chính, nêu cao tấm gương sống đạo bằng chính gương sáng qua hành động đạo đức, cuộc sống khiêm nhường, vị tha và hay giúp đỡ người.
Vào ngày 4.6.2009 có nghi thức phủ cờ VNCH trên quan tài của ông tại nhà quàn Darling Fischer Funeral Home, San Jose. Trong những ngày từ 4 tới 6/6/2009 đều có những giờ đọc kinh cầu nguyện cho Ông Giuse do các đoàn thể và Cộng đoàn CGVN tại San José đến thăm viếng và cầu nguyện.
Sáng thứ Bảy hôm nay ngày 6/6/2009, qúi linh mục đã cử hành thánh lễ đồng tế An táng cho linh hồn Giuse tại Thánh Đường Saint Elizabeth, thành phố Milpitas, California, và vào ngày 8/6/2009, ông Giuse sẽ được chôn cất tại Nghĩa trang Gate of Haven Catholic Cementery, Los Altos, California.
Trong thánh lễ An táng ông Giuse, đã có trích đoạn Kinh Thánh từ Sách Khôn Ngoan (Kn 3,1-9) như sau:
"Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Thiên Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Thiên Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói, và chiếu tỏa ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Thiên Chúa thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Thiên Chúa trong tình yêu, vì ơn Thiên Chúa và bình an sẽ dành cho những người Thiên Chúa tuyển chọn."
Sơ Lược Tiểu Sử Ông Giuse Bùi Đình Đạm
-Sinh năm 1926,
-Tại Đan Phượng, Hà Đông, Việt Nam,
-Thụ huấn Khóa 1, Trường Sĩ Quan Việt Nam, Khóa Phan Bội Châu, tại Huế năm 1948, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Uy’
-Trung đội trưởng, Đại đội trưởng: 6/1949-8/1950,
-Du học Pháp, ngành Quản Trị: 9/1950-12/1951,
-Chánh sự vụ Sở Quân Nhu, Saigon: 1/1952-4/1954,
-Tham Mưu Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức: 5/1954-6/1956,
-Du học Trường Chỉ Huy&Tham Mưu Hoa Kỳ: 7/1956-7/1957,
-Huấn luyện viên, Tham Mưu Trưởng Trường Đại Học Quân Sự: 8/1957-5/1960,
-Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 6/1960,
-Kiêm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 5/1962-11/1962,
-Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 12/1962-10/1963,
-Trưởng Phòng Tư BTTM/QLVNCH: 11/1963-1/1965,
-Trưởng Phòng Tổng Quản Trị BTTM: 2/1965-11/1965,
-Giám Đốc Nha Động Viên Bộ Quốc Phòng: 12/1965-8/1973,
-Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng: 9/1973-4/1975
+Chủ Tịch Liên Đoàn Quân Nhân Công Giáo Toàn Quốc VNCH.
+Cử nhân Văn Khoa, Viện Đại Học Saigon (1970).
+Cao học Xã Hội Học, Viện Đại Học Saigon (1973).
+Giáo sư môn Xã Hội Học, Đại Chủng Viện Saigon (1971-1975).
+Master of Social Work, San Jose State University, California, USA (1985).
+Khóa Hội Học Kitô hữu Cursillista năm 1992 tại San Jose, USA.
+Ước nguyện: Cầu mong Quê Hương Việt Nam sớm được Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường.
Sau đây là chia sẻ của ông Trần Hiếu, một người bạn của gia đình ông Bùi Đình Đạm đã viết như sau:
"Thương nhớ Bác Bùi Ðình Ðạm"
“Phúc thay ai hiền lành, Vì họ sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp” (Matthew 5:4)
Bác Giuse Bùi Ðình Ðạm ra đi đã để lại tiếc thương và cảm tình sâu đậm cho nhiều người. Ðể tưởng nhớ một con người đạo hạnh, tài năng mà rất hiền lành, khiêm tốn, tôi ước mong được nhắc lại vài kỷ niệm của mình với bác.
Tôi rất may mắn được quen biết bác Ðạm, từ những ngày đầu bước chân vào trường đại học cộng đồng Delta ở Stockton năm 1979, và về sau học chung ngành “Công Tác Xã Hội”, bác ở trường San Jose State còn tôi ở Sacramento State. Vào mùa Thu năm 1985, sau khi tốt nghiệp, cả hai chúng tôi được nhận vào làm việc cho chương trình An Sinh Trẻ Em, tại Sở Xã Hội, hạt Santa Clara. Tuy tuổi tác cách biệt, bác luôn đối xử với tôi, cũng như với những người khác, bằng tấm lòng khoan dung hoà đồng.
Khi còn học ở Delta, thỉnh thoảng có vài đứa bạn quen nhìn thấy bác vác ba lô trên vai, khều tôi và nói, “Ông ấy hồi xưa làm tướng trong quân đội!” Ở trường lúc đó cũng có một số vị khác, rất nổi tiếng, nhưng ít ai được nhiều người chú ý như bác Bùi Ðình Ðạm, vì tư chất hiền hoà bình dị và thái độ gần gũi thân thiện của bác.
Trong công việc, bác là một người tài năng, chăm chỉ, tận tụy với nhiệm vụ được giao phó. Mỗi ngày bác vào sở làm rất sớm, chú tâm vào công việc, và khi rảnh rỗi bác đi bách bộ với một vài bạn trẻ. Bác thường chia sẻ với tôi các uẩn khúc hồ sơ liên quan trẻ em và gia đình, và qua đó tôi thấy phản ánh tâm hồn dạt dào tình cảm, cũng như nỗi lòng day dứt khôn nguôi của bác.
Bác mồ côi mẹ từ khi chưa đầy một tuổi, vào Nam một mình lúc chia đôi đất nước, sau năm 1975 bác mới biết người bố đã qua đời bên kia dòng sông Bến Hải, mà bác không được để tang!
Tôi tham dự khoá Học Hội Kitô Giáo Cursillo năm 1992, và nhận thấy lợi ích của khóa học, tôi liền nghĩ đến bác Ðạm và năm nào cũng cố giới thiệu bác tham dự. Nhưng Ý Chúa nhiệm mầu, sau hai năm thoái thác, bác mới đến với tôi và nói, “Thế khoá tĩnh tâm gì đó có còn không?” Tôi như mở cờ trong bụng vì biết rằng, một người đạo hạnh như thế, có vai vế trong xã hội, đúng là con chim đại bàng mà phong trào đang cần. Ông Ross Peros nói, “Chim đại bàng không đi thành bầy, phải bắt từng con một”; vì thế, tôi vội vàng ghi danh cho bác.
May mắn thay, năm đó tôi mời được cả Bác Sĩ Trần Văn Nam, một thân hữu, và lại được biết bác Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia của tôi ngày xưa, do bác Trần Thanh Ðiền giới thiệu, cùng tham dự. Như vậy, không phải chim đại bàng đi riêng lẻ, mà đi thành cặp. Thế là chắc ăn rồi, các bác đã có bạn nên không thể nào thoái thác được nữa!
Bác Ðạm là một mảnh đất màu mỡ, bây giờ được thêm nước, thêm gió, thêm ánh nắng mặt trời, nên gieo thứ gì mà chẳng đậu! Mà quả thật, sau khoá học, bác đã trở nên một con người sốt mến lạ thường, một tông đồ môi trường hết sức nhiệt thành và hữu hiệu. Nhưng phần nhiều bác hoạt động trong âm thầm, như thánh Giuse, là người mà bác đã chọn làm quan thầy.
Bác dấn thân vào chương trình cao niên, đảm nhận các công tác khiêm tốn nơi hậu trường của giáo xứ, đóng vai môi giới với các tôn giáo bạn, và bác còn tham gia vào nhiều sinh hoạt khác ngoài cộng đồng. Khi có những xung khắc bất đồng, bác luôn là người trung gian can gián, hoà giải. Bác lúc nào cũng nhỏ nhẹ, thiên về thuyết phục, nặng về tình cảm và với tâm hồn thành tâm khiêm tốn, ai cũng nể lời.
Ðối với vợ chồng chúng tôi, bác coi như con cháu, lúc nào cũng lộ vẻ yêu thương, khích lệ như một vị cha già. Bác gọi tôi là “anh bạn trẻ”, nhưng gọi nhà tôi là “người bạn thân” của bác. Tôi hỏi, “tại sao?” thì bác trả lời, “Vì Hoa- tên bà xã tôi - với bác cùng size!”
Nhiều lần, có khách quý đến nhà, chúng tôi mời bác đến tham dự, phần nhiều là để nhờ bác tiếp chuyện các vị khách qúy đó. Bác không những vui vẻ nhận lời, mà lúc nào cũng mang món nầy món kia tới, mặc dù chúng tôi dặn dò bác đừng làm gì cả. Có lúc, bác tự tay nấu xôi, làm bánh rồi mang tới. Có những lần khác, họp hành ở nhà tôi, bác nói đừng lo gì cả và bác mang tới đủ tất cả các món.
Bác điện thoại cho tôi thường xuyên, gần như hằng tuần. Tôi và nhà tôi thường hay nói chuyện với bác rất lâu. Chỉ vài hôm trước khi từ trần, bác còn điện thoại cho tôi mời tham gia vào một nhóm công tác để cùng với bác, giúp các linh mục Việt Nam từ nhiều nơi về Santa Clara họp mặt. Từ khi quen thân với bác, tôi không thể từ chối bác điều gì, vì tôi biết bác luôn nhắm cho tôi công việc phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình.
Khi bố tôi qua đời ở Stockton cách đây 8 năm, bác cùng với các anh chị khác trong phong trào Cursillo bỏ nguyên một ngày để dự lễ mai táng mà hình ảnh đó tôi luôn luôn ghi nhớ.
Bác đã từng nói, “quê hương Việt Nam thì không bao giờ quên được và như bao người Việt khác, bác chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai, nhưng quê hương đích thực chính là Nước Trời mà mọi Kitô hữu đều cậy trông và ngóng về.” Vậy là, sau bao năm dài khát khao ngắm nhìn thánh nhan Chúa, giờ đây bác đã toại nguyện. Bác ra đi nhưng gương sáng của bác vẫn ở lại trong tôi. Cầu xin lòng Chúa bao dung, cho bác sớm sum họp với tổ tiên trên nước Thiên Ðàng.
Trần Hiếu
![]() |
| Cựu thiếu tướng Bùi Đình Đạm |
Vào ngày 4.6.2009 có nghi thức phủ cờ VNCH trên quan tài của ông tại nhà quàn Darling Fischer Funeral Home, San Jose. Trong những ngày từ 4 tới 6/6/2009 đều có những giờ đọc kinh cầu nguyện cho Ông Giuse do các đoàn thể và Cộng đoàn CGVN tại San José đến thăm viếng và cầu nguyện.
Sáng thứ Bảy hôm nay ngày 6/6/2009, qúi linh mục đã cử hành thánh lễ đồng tế An táng cho linh hồn Giuse tại Thánh Đường Saint Elizabeth, thành phố Milpitas, California, và vào ngày 8/6/2009, ông Giuse sẽ được chôn cất tại Nghĩa trang Gate of Haven Catholic Cementery, Los Altos, California.
Trong thánh lễ An táng ông Giuse, đã có trích đoạn Kinh Thánh từ Sách Khôn Ngoan (Kn 3,1-9) như sau:
"Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Thiên Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Thiên Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói, và chiếu tỏa ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Thiên Chúa thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Thiên Chúa trong tình yêu, vì ơn Thiên Chúa và bình an sẽ dành cho những người Thiên Chúa tuyển chọn."
Sơ Lược Tiểu Sử Ông Giuse Bùi Đình Đạm
-Sinh năm 1926,
-Tại Đan Phượng, Hà Đông, Việt Nam,
-Thụ huấn Khóa 1, Trường Sĩ Quan Việt Nam, Khóa Phan Bội Châu, tại Huế năm 1948, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Uy’
-Trung đội trưởng, Đại đội trưởng: 6/1949-8/1950,
-Du học Pháp, ngành Quản Trị: 9/1950-12/1951,
-Chánh sự vụ Sở Quân Nhu, Saigon: 1/1952-4/1954,
-Tham Mưu Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức: 5/1954-6/1956,
-Du học Trường Chỉ Huy&Tham Mưu Hoa Kỳ: 7/1956-7/1957,
-Huấn luyện viên, Tham Mưu Trưởng Trường Đại Học Quân Sự: 8/1957-5/1960,
-Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 6/1960,
-Kiêm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 5/1962-11/1962,
-Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh: 12/1962-10/1963,
-Trưởng Phòng Tư BTTM/QLVNCH: 11/1963-1/1965,
-Trưởng Phòng Tổng Quản Trị BTTM: 2/1965-11/1965,
-Giám Đốc Nha Động Viên Bộ Quốc Phòng: 12/1965-8/1973,
-Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng: 9/1973-4/1975
+Chủ Tịch Liên Đoàn Quân Nhân Công Giáo Toàn Quốc VNCH.
+Cử nhân Văn Khoa, Viện Đại Học Saigon (1970).
+Cao học Xã Hội Học, Viện Đại Học Saigon (1973).
+Giáo sư môn Xã Hội Học, Đại Chủng Viện Saigon (1971-1975).
+Master of Social Work, San Jose State University, California, USA (1985).
+Khóa Hội Học Kitô hữu Cursillista năm 1992 tại San Jose, USA.
+Ước nguyện: Cầu mong Quê Hương Việt Nam sớm được Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường.
Sau đây là chia sẻ của ông Trần Hiếu, một người bạn của gia đình ông Bùi Đình Đạm đã viết như sau:
"Thương nhớ Bác Bùi Ðình Ðạm"
“Phúc thay ai hiền lành, Vì họ sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp” (Matthew 5:4)
Bác Giuse Bùi Ðình Ðạm ra đi đã để lại tiếc thương và cảm tình sâu đậm cho nhiều người. Ðể tưởng nhớ một con người đạo hạnh, tài năng mà rất hiền lành, khiêm tốn, tôi ước mong được nhắc lại vài kỷ niệm của mình với bác.
Tôi rất may mắn được quen biết bác Ðạm, từ những ngày đầu bước chân vào trường đại học cộng đồng Delta ở Stockton năm 1979, và về sau học chung ngành “Công Tác Xã Hội”, bác ở trường San Jose State còn tôi ở Sacramento State. Vào mùa Thu năm 1985, sau khi tốt nghiệp, cả hai chúng tôi được nhận vào làm việc cho chương trình An Sinh Trẻ Em, tại Sở Xã Hội, hạt Santa Clara. Tuy tuổi tác cách biệt, bác luôn đối xử với tôi, cũng như với những người khác, bằng tấm lòng khoan dung hoà đồng.
Khi còn học ở Delta, thỉnh thoảng có vài đứa bạn quen nhìn thấy bác vác ba lô trên vai, khều tôi và nói, “Ông ấy hồi xưa làm tướng trong quân đội!” Ở trường lúc đó cũng có một số vị khác, rất nổi tiếng, nhưng ít ai được nhiều người chú ý như bác Bùi Ðình Ðạm, vì tư chất hiền hoà bình dị và thái độ gần gũi thân thiện của bác.
Trong công việc, bác là một người tài năng, chăm chỉ, tận tụy với nhiệm vụ được giao phó. Mỗi ngày bác vào sở làm rất sớm, chú tâm vào công việc, và khi rảnh rỗi bác đi bách bộ với một vài bạn trẻ. Bác thường chia sẻ với tôi các uẩn khúc hồ sơ liên quan trẻ em và gia đình, và qua đó tôi thấy phản ánh tâm hồn dạt dào tình cảm, cũng như nỗi lòng day dứt khôn nguôi của bác.
Bác mồ côi mẹ từ khi chưa đầy một tuổi, vào Nam một mình lúc chia đôi đất nước, sau năm 1975 bác mới biết người bố đã qua đời bên kia dòng sông Bến Hải, mà bác không được để tang!
Tôi tham dự khoá Học Hội Kitô Giáo Cursillo năm 1992, và nhận thấy lợi ích của khóa học, tôi liền nghĩ đến bác Ðạm và năm nào cũng cố giới thiệu bác tham dự. Nhưng Ý Chúa nhiệm mầu, sau hai năm thoái thác, bác mới đến với tôi và nói, “Thế khoá tĩnh tâm gì đó có còn không?” Tôi như mở cờ trong bụng vì biết rằng, một người đạo hạnh như thế, có vai vế trong xã hội, đúng là con chim đại bàng mà phong trào đang cần. Ông Ross Peros nói, “Chim đại bàng không đi thành bầy, phải bắt từng con một”; vì thế, tôi vội vàng ghi danh cho bác.
May mắn thay, năm đó tôi mời được cả Bác Sĩ Trần Văn Nam, một thân hữu, và lại được biết bác Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia của tôi ngày xưa, do bác Trần Thanh Ðiền giới thiệu, cùng tham dự. Như vậy, không phải chim đại bàng đi riêng lẻ, mà đi thành cặp. Thế là chắc ăn rồi, các bác đã có bạn nên không thể nào thoái thác được nữa!
Bác Ðạm là một mảnh đất màu mỡ, bây giờ được thêm nước, thêm gió, thêm ánh nắng mặt trời, nên gieo thứ gì mà chẳng đậu! Mà quả thật, sau khoá học, bác đã trở nên một con người sốt mến lạ thường, một tông đồ môi trường hết sức nhiệt thành và hữu hiệu. Nhưng phần nhiều bác hoạt động trong âm thầm, như thánh Giuse, là người mà bác đã chọn làm quan thầy.
Bác dấn thân vào chương trình cao niên, đảm nhận các công tác khiêm tốn nơi hậu trường của giáo xứ, đóng vai môi giới với các tôn giáo bạn, và bác còn tham gia vào nhiều sinh hoạt khác ngoài cộng đồng. Khi có những xung khắc bất đồng, bác luôn là người trung gian can gián, hoà giải. Bác lúc nào cũng nhỏ nhẹ, thiên về thuyết phục, nặng về tình cảm và với tâm hồn thành tâm khiêm tốn, ai cũng nể lời.
Ðối với vợ chồng chúng tôi, bác coi như con cháu, lúc nào cũng lộ vẻ yêu thương, khích lệ như một vị cha già. Bác gọi tôi là “anh bạn trẻ”, nhưng gọi nhà tôi là “người bạn thân” của bác. Tôi hỏi, “tại sao?” thì bác trả lời, “Vì Hoa- tên bà xã tôi - với bác cùng size!”
Nhiều lần, có khách quý đến nhà, chúng tôi mời bác đến tham dự, phần nhiều là để nhờ bác tiếp chuyện các vị khách qúy đó. Bác không những vui vẻ nhận lời, mà lúc nào cũng mang món nầy món kia tới, mặc dù chúng tôi dặn dò bác đừng làm gì cả. Có lúc, bác tự tay nấu xôi, làm bánh rồi mang tới. Có những lần khác, họp hành ở nhà tôi, bác nói đừng lo gì cả và bác mang tới đủ tất cả các món.
Bác điện thoại cho tôi thường xuyên, gần như hằng tuần. Tôi và nhà tôi thường hay nói chuyện với bác rất lâu. Chỉ vài hôm trước khi từ trần, bác còn điện thoại cho tôi mời tham gia vào một nhóm công tác để cùng với bác, giúp các linh mục Việt Nam từ nhiều nơi về Santa Clara họp mặt. Từ khi quen thân với bác, tôi không thể từ chối bác điều gì, vì tôi biết bác luôn nhắm cho tôi công việc phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình.
Khi bố tôi qua đời ở Stockton cách đây 8 năm, bác cùng với các anh chị khác trong phong trào Cursillo bỏ nguyên một ngày để dự lễ mai táng mà hình ảnh đó tôi luôn luôn ghi nhớ.
Bác đã từng nói, “quê hương Việt Nam thì không bao giờ quên được và như bao người Việt khác, bác chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai, nhưng quê hương đích thực chính là Nước Trời mà mọi Kitô hữu đều cậy trông và ngóng về.” Vậy là, sau bao năm dài khát khao ngắm nhìn thánh nhan Chúa, giờ đây bác đã toại nguyện. Bác ra đi nhưng gương sáng của bác vẫn ở lại trong tôi. Cầu xin lòng Chúa bao dung, cho bác sớm sum họp với tổ tiên trên nước Thiên Ðàng.
Trần Hiếu
