ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Chúa Nhật 27 Thường Niên. Bối cảnh trực tiếp về dụ ngôn những tá điền sát nhân của vườn nho là tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel. Thiên Chúa đã gởi đến dân Israel các tiên tri trước và sau đó chính Con của Người.
Nhưng tương tự với tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu, truyện này có một sự chân thật nào đó. Trong tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, có phát họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaiah, mà chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất. Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn và giọng nói của nó. Tại sao Chúa “trồng một vườn nho” và những “hoa quả “ nào được trông đợi, mà Chúa sẽ đến tìm?
Ở đây dụ ngôn không tương ứng với thực tại. Những con người không trồng những vườn nho và chịu khó chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích của họ. Thiên Chúa thì khác. Người dựng nên con người và lập giao ước với họ, không phải vì chính lợi ích cho Thiên Chúa, những vì lợi ích cho con người, do tình yêu mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu của Thiên Chúa và sự công bình đới với những kẻ bị áp bức: tất cả mọi sự là vì lợi ích cho con người, không phài cho Chúa.
Dụ ngôn này của Chúa Giêsu có liên quan khủng khiếp với châu Âu, và nói chung với thế giới Kitô hữu. Trong bối cảnh này, cũng vậy, chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài một văn hóa tự xưng là hậu-Kitô hữu, hay là có khi phản-Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho vang dội, nếu không trong những lời nói ít nhất trong những việc làm, của xã hội tục hóa chúng ta ngày nay: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài của nó!”
Bây giờ không ai muốn nghe nói về những gốc rễ Kitô hữu, về gia sản Kitô hữu của châu Âu. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ. Sartre đặt tuyên ngôn khủng khiếp này trong miệng của một trong những đặc điểm của ông: “Không có gì trên trời, không tốt cũng không xấu, không có ai có thể ra lệnh cho tôi. […] Tôi là một con người, và mỗi người phải tìm ra con đường cho mình.”
Điều tôi mới phác họa là một sự áp dụng “broadband –có chiều rộng” của dụ ngôn. Nhưng những dụ ngôn của Chúa Giêsu hầu như luôn luôn có một sự áp dụng “có chiều hẹp” hơn, một sự áp dụng cho cá nhân: những dụ ngôn đó áp dụng cho mỗi cá nhân, không hẳn cho nhân loại hay là dân Kitô Giáo nói chung. Chúng ta được mời tự hỏi: Số phận nào tôi đã chuẩn bị cho Chúa Kitô trong sự sống của tôi? Tôi đáp trả cách nào cho tình yêu vô biên của Chúa cho tôi? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô, chăng?
Tôi nhớ môt ngày kia tôi đang nghe dụ ngôn này trong Thánh lễ khi đó tôi đang lo ra thật sự. Lúc đó tới những tiếng của ông chủ vườn nho: “Chúng sẽ nễ con Ta.” Tôi nhảy dựng lên, và tôi hiểu những lời này chỉ về tôi cách riêng trong lúc này. Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với tôi trong bí tích mình và máu Người. Tôi có hiểu tầm quan trọng của lúc cao trọng này không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính, sự sùng kính mà Cha mong đợi? Những lời này thình lình làm tôi mất hết những ý nghĩ giông dài.
Có một cảm giác hối tiếc, ảo tưởng trong dụ ngôn. Đó chắc không phải là một truyện với một kết thúc may mắn ! Nhưng trong những chiều sâu của nó dụ ngôn nói với chúng ta về tình yêu vô biên Chúa yêu dân Người và mọi tạo vật. Đó là một tình yêu mà, cả qua những biến cố thay đổi mất và được lại, luôn luôn sẽ chiến thắng và có tiếng nói cuôi cùng.
Những sự loại trừ của Thiên Chúa không bao giờ dứt khoát. Đó là những sự loại bỏ có tính sư phạm. Cả sự loại bỏ dân Israel, vang dội cách quanh co qua những lời Chúa Kitô –“Nước Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”—là thuộc loại này, như Isaiah diễn tả trong bài đọc thứ nhất. Chúng ta thấy sự nguy hiểm này cũng đe dọa dân Kitô Giáo, hay là ít ra phần lớn dân ấy.
Thánh Phaolô viết trong thơ Người gởi cho tín hữu Roma: “Phải chăng Thiên Chùa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Israel, thuộc dòng dõi Abraham, thuộc chi tộc Benjamin. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước. … Phải chăng dân Israel đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị…. Nếu vì họ bị gạt qua một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Romans 11:1 passim)
Trong ngày 29/9. các anh em chúng ta đã cử hành Năm Mới với lễ Rosh Hashanah. Tôi muốn nhân dịp này cống hiến những cầu chúc của tôi vì hoà bình và thịnh vượng. Với Tông Đồ Phaolo tôi xin “hoà bình xuống trên dân Israel của Thiên Chúa.”
Nhưng tương tự với tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu, truyện này có một sự chân thật nào đó. Trong tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, có phát họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaiah, mà chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất. Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn và giọng nói của nó. Tại sao Chúa “trồng một vườn nho” và những “hoa quả “ nào được trông đợi, mà Chúa sẽ đến tìm?
Ở đây dụ ngôn không tương ứng với thực tại. Những con người không trồng những vườn nho và chịu khó chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích của họ. Thiên Chúa thì khác. Người dựng nên con người và lập giao ước với họ, không phải vì chính lợi ích cho Thiên Chúa, những vì lợi ích cho con người, do tình yêu mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu của Thiên Chúa và sự công bình đới với những kẻ bị áp bức: tất cả mọi sự là vì lợi ích cho con người, không phài cho Chúa.
Dụ ngôn này của Chúa Giêsu có liên quan khủng khiếp với châu Âu, và nói chung với thế giới Kitô hữu. Trong bối cảnh này, cũng vậy, chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài một văn hóa tự xưng là hậu-Kitô hữu, hay là có khi phản-Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho vang dội, nếu không trong những lời nói ít nhất trong những việc làm, của xã hội tục hóa chúng ta ngày nay: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài của nó!”
Bây giờ không ai muốn nghe nói về những gốc rễ Kitô hữu, về gia sản Kitô hữu của châu Âu. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ. Sartre đặt tuyên ngôn khủng khiếp này trong miệng của một trong những đặc điểm của ông: “Không có gì trên trời, không tốt cũng không xấu, không có ai có thể ra lệnh cho tôi. […] Tôi là một con người, và mỗi người phải tìm ra con đường cho mình.”
Điều tôi mới phác họa là một sự áp dụng “broadband –có chiều rộng” của dụ ngôn. Nhưng những dụ ngôn của Chúa Giêsu hầu như luôn luôn có một sự áp dụng “có chiều hẹp” hơn, một sự áp dụng cho cá nhân: những dụ ngôn đó áp dụng cho mỗi cá nhân, không hẳn cho nhân loại hay là dân Kitô Giáo nói chung. Chúng ta được mời tự hỏi: Số phận nào tôi đã chuẩn bị cho Chúa Kitô trong sự sống của tôi? Tôi đáp trả cách nào cho tình yêu vô biên của Chúa cho tôi? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô, chăng?
Tôi nhớ môt ngày kia tôi đang nghe dụ ngôn này trong Thánh lễ khi đó tôi đang lo ra thật sự. Lúc đó tới những tiếng của ông chủ vườn nho: “Chúng sẽ nễ con Ta.” Tôi nhảy dựng lên, và tôi hiểu những lời này chỉ về tôi cách riêng trong lúc này. Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với tôi trong bí tích mình và máu Người. Tôi có hiểu tầm quan trọng của lúc cao trọng này không? Tôi có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính, sự sùng kính mà Cha mong đợi? Những lời này thình lình làm tôi mất hết những ý nghĩ giông dài.
Có một cảm giác hối tiếc, ảo tưởng trong dụ ngôn. Đó chắc không phải là một truyện với một kết thúc may mắn ! Nhưng trong những chiều sâu của nó dụ ngôn nói với chúng ta về tình yêu vô biên Chúa yêu dân Người và mọi tạo vật. Đó là một tình yêu mà, cả qua những biến cố thay đổi mất và được lại, luôn luôn sẽ chiến thắng và có tiếng nói cuôi cùng.
Những sự loại trừ của Thiên Chúa không bao giờ dứt khoát. Đó là những sự loại bỏ có tính sư phạm. Cả sự loại bỏ dân Israel, vang dội cách quanh co qua những lời Chúa Kitô –“Nước Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”—là thuộc loại này, như Isaiah diễn tả trong bài đọc thứ nhất. Chúng ta thấy sự nguy hiểm này cũng đe dọa dân Kitô Giáo, hay là ít ra phần lớn dân ấy.
Thánh Phaolô viết trong thơ Người gởi cho tín hữu Roma: “Phải chăng Thiên Chùa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính tôi đây cũng là người Israel, thuộc dòng dõi Abraham, thuộc chi tộc Benjamin. Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã biết từ trước. … Phải chăng dân Israel đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị…. Nếu vì họ bị gạt qua một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Romans 11:1 passim)
Trong ngày 29/9. các anh em chúng ta đã cử hành Năm Mới với lễ Rosh Hashanah. Tôi muốn nhân dịp này cống hiến những cầu chúc của tôi vì hoà bình và thịnh vượng. Với Tông Đồ Phaolo tôi xin “hoà bình xuống trên dân Israel của Thiên Chúa.”