Thờ ngẫu thần: Phản đề của Thiên Chúa hằng sống
Mỗi sáng, khi thức dậy, chúng ta có một trải nghiệm đặc biệt mà hầu như chúng ta không bao giờ lưu ý. Trong đêm, những thứ hiện hữu xung quanh chúng ta là cách chúng ta để chúng lại vào đêm hôm trước: giường, cửa sổ, căn phòng. Có lẽ mặt trời đã chiếu sáng bên ngoài, nhưng chúng ta không thấy nó vì mắt chúng ta đang nhắm và màn cửa kéo lại. Chỉ khi chúng ta thức giấc, mọi thứ mới bắt đầu hoặc trở lại hiện diện đối với tôi bởi vì tôi nhận thức được chúng, tôi mới nhận ra chúng. Trước đó, dường như những thứ này không hiện hữu.
Cũng một điều trên đúng với Thiên Chúa. Người luôn ở đó: Thánh Phaolô nói với người Athen “Trong Người, chúng ta sống và di chuyển và có hữu thể của mình” (Cv 17:28). Nhưng nói chung điều này xảy ra như trong giấc ngủ của chúng ta, chúng ta không nhận thức được nó. Ngoài ra còn có một sự thức tỉnh của tinh thần, một ý thức đột ngột bừng tỉnh. Đây là lý do tại sao Kinh thánh khuyên chúng ta thường xuyên thức tỉnh khỏi giấc ngủ của mình: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Eph 5:14); “Đã đến lúc anh em phải thức dậy (Rm 13:11).
Thờ ngẫu thần, cũ và mới
Thiên Chúa trong Kinh thánh được định nghĩa là “sống động” để phân biệt Người với những ngẫu thần là những thứ chết. Đây là cuộc đấu tranh xuất hiện trong tất cả các sách của Cựu Ước và Tân Ước. Chúng ta chỉ cần tình cờ mở một trang nào bất cứ từ các tiên tri và thánh vịnh cũng có thể tìm thấy dấu chỉ trận chiến sử thi này để bảo vệ vị Thiên Chúa duy nhất và độc nhất của Israel. Thờ ngẫu thần là phản đề nguyên tuyền của Thiên Chúa hằng sống. Một thánh vịnh nói về các ngẫu thần,
“Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành.
Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe.
Có hai tay, không sờ không mó; có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng” (Tv 115: 4-7)
Trái ngược với ngẫu thần, Thiên Chúa sống động xuất hiện như một vị Thiên Chúa “làm những gì Người muốn”, nói năng, nhìn xem, nghe thấy, một vị Thiên Chúa “thở hơi!” Hơi thở của Người có tên trong Kinh thánh, là Ruah Yahweh, Thần Khí của Thiên Chúa.
Thật không may, cuộc đấu tranh chống lại việc thờ ngẫu thần đã không kết thúc với việc kết thúc của chủ nghĩa ngoại giáo lịch sử; nó luôn luôn tiếp diễn. Các ngẫu thần đã thay đổi tên của chúng, nhưng chúng có mặt hơn bao giờ hết. Như chúng ta sẽ thấy, trong mỗi chúng ta, luôn hiện hữu một thứ ngẫu thần đáng sợ nhất. Do đó, đáng dừng lại giây lát trong vấn đề này như một vấn đề hiện thời, chứ không phải chỉ là vấn đề trong quá khứ.
Người đưa ra cuộc phân tích sáng suốt và sâu sắc nhất về việc thờ ngẫu thần là Thánh Tông đồ Phaolô. Chúng ta hãy để ngài hướng dẫn chúng ta khám phá ra “con bò vàng” vốn ẩn nấp đâu đó trong mỗi người chúng ta. Ở phần đầu của Thư gửi tín hữu Rôma, chúng ta đọc điều này:
“Từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội” (Rm 1: 18-21).
Trong tâm trí những người từng nghiên cứu thần học, những lời lẽ đó được liên kết hầu như chuyên nhất với luận đề khả thể hiểu biết tự nhiên về sự hiện hữu của Thiên Chúa từ những điều Người đã tạo dựng nên. Do đó, một khi vấn đề này được giải quyết, hoặc sau khi nó đã không còn là mối quan tâm cấp bách như trong quá khứ nữa, những lời lẽ này rất hiếm khi được nhắc đến và đánh giá cao. Nhưng khả thể hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa, trong bối cảnh này, là một vấn đề khá ngoại vi. Lời lẽ của Thánh Tông đồ có nhiều điều hơn thế để nói với chúng ta; chúng chứa đựng một trong những “sấm sét của Thiên Chúa” có khả năng chẻ đôi cả những cây tuyết tùng Libăng.
Thánh Tông đồ có ý định chứng minh thân phận của loài người là gì trước Chúa Kitô và bên ngoài Người, nói cách khác, thời điểm trong đó diễn trình cứu chuộc bắt đầu. Nó không bắt đầu từ điểm Zero của thiên nhiên, nhưng từ điểm dưới Zero do tội lỗi. Mọi người đều đã phạm tội; không trừ một ai. Thánh Tông đồ chia thế giới thành hai loại Hy Lạp và Do Thái, nghĩa là ngoại giáo và tín hữu, và ngài bắt đầu bản cáo trạng của ngài chính xác nhằm chống lại tội lỗi của người ngoại giáo. Ngài xác nhận tội lỗi căn bản của thế giới ngoại giáo là sự vô thần và bất chính. Ngài nói rằng đó là một cuộc tấn công vào sự thật, không phải vì sự thật này hay sự thật nọ mà là sự thật nguyên ủy của mọi hiện hữu.
Tội lỗi căn bản, đối tượng hàng đầu của cơn thịnh nộ thần thánh, được xác nhận là asebeia, vô thần. Chính xác điều này muốn nói gì đã được Thánh Tông đồ giải thích ngay sau đó; ngài nói rằng nó hệ ở việc từ chối “tôn vinh” và “cảm tạ” Thiên Chúa. Nói cách khác, đó là việc từ chối công nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, không dành cho Người sự kính trọng mà Người đáng được. Chúng ta có thể nói: Nó hệ ở việc “làm ngơ Thiên Chúa”, trong đó, “làm ngơ” ở đây không có nghĩa là không biết “Người hiện hữu”, mà là “hành động như thể Người không hiện hữu”.
Trong Cựu Ước, chúng ta nghe Môsê la to với mọi người, “Do đó, các ngươi hãy biết rằng Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là Thiên Chúa” (Đnl 7: 9), và thánh vịnh gia tiếp nối tiếng la đó, đã nói rằng, “Hãy nhìn nhận CHÚA là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người” (Tv 100: 3). Rút gọn vào cốt lõi chính của nó, tội lỗi là từ chối việc “công nhận” đó; nó là mưu toan của một tạo vật nhằm hủy bỏ khoảng cách phẩm tính vô hạn vốn hiện hữu giữa họ và Đấng tạo dựng và từ khước phụ thuộc vào Người. Sự từ khước này trở thành hiện thân một cách cụ thể trong việc thờ ngẫu thần, trong đó người ta thờ phượng tạo vật thay cho Đấng Tạo Dựng (xem Rm 1:25). Người ngoại giáo, Thánh tông đồ nói tiếp, trở nên vô dụng trong suy nghĩ của họ, và tâm trí vô cảm của họ trở nên tối tăm. Tự nhận là khôn ngoan, họ trở thành kẻ ngu ngốc; và họ đổi vinh quang của Thiên Chúa bất tử lấy các hình ảnh giống như một con người tử sinh hoặc những con chim hoặc động vật bốn chân hoặc loài bò sát (Rm 1: 21-23).
Thánh Tông đồ không có ý nói: mọi người ngoại giáo, không trừ ai, đã đích thân sống trong loại tội lỗi này. (Ngài nói thêm, trong Rm 2: 14ff., Về những người ngoại giáo có thể được Thiên Chúa chấp nhận vì họ tuân theo luật của Thiên Chúa viết trên trái tim họ). Ngài có ý nói: tình huống khách quan nói chung của nhân loại trước Thiên Chúa sau khi phạm tội. Con người, được tạo ra “công chính” (cả ý nghĩa vật lý của việc đứng thẳng lẫn ý nghĩa đạo đức của công chính), đã trở thành một người “bị bẻ cong” vì tội lỗi, nghĩa là cong mình về phía mình, và trở thành “ngạo ngược” (perverse), nghĩa là hướng về chính họ thay vì hướng về Thiên Chúa.
Trong việc thờ ngẫu thần, một hữu thể phàm nhân không “chấp nhận” Thiên Chúa mà tự biến mình thành một Thiên Chúa. Các vai trò được đảo ngược: con người trở thành thợ gốm và Thiên Chúa trở thành chiếc nồi được lên khuôn tùy theo ý thích của họ (xem Rm 9: 20tt). Trong tất cả điều này có một sự ám chỉ, ít nhất là mặc nhiên, đối với trình thuật sáng thế (xem St 1: 26-27). Ở đó, có lời chép rằng Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh và họa ảnh của Người; ở đây, người ta nói rằng con người đã lấy hình ảnh và họa ảnh của con người mau hư thay thế cho Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của Người, còn bây giờ con người tạo ra Thiên Chúa theo hình ảnh của mình. Vì con người là bạo lực, họ biến bạo lực thành một vị thần, Sao Hỏa (Mars); vì đầy dục vọng, họ biến dục vọng thành một vị thần, Sao Kim (Venus), vân vân. Bây giờ, họ đang biến Thiên Chúa thành một phóng chiếu của chính họ.
"Ngài là người đó!"
Thật dễ dàng để chứng minh rằng, xét một cách nào đó, đây vẫn là tình huống trong đó chúng ta ở phương Tây hiện hữu về phương diện tôn giáo; đây vẫn là tình huống từ đó chủ nghĩa vô thần hiện đại khởi đầu với câu nói nổi tiếng của Ludwig Feuerbach, “Thiên Chúa không tạo ra con người theo hình ảnh của Người; trái lại, con người tạo ra Thiên Chúa theo hình ảnh của mình” (1). Theo một nghĩa nào đó, chúng ta phải nhìn nhận rằng câu khẳng định này đúng! Vâng, Thiên Chúa đang thực sự là một sản phẩm của tâm trí con người. Tuy nhiên, vấn đề là biết vị Thiên Chúa nào đang được nhắc đến. Đó chắc chắn không phải là vị Thiên Chúa sống động của Kinh thánh mà chỉ là người thay thế.
Chúng ta hãy tưởng tượng một người loạn trí hôm nay đập búa vào bức tượng David của Michelangelo đặt bên ngoài Palazzo della Signoria ở Florence, rồi bắt đầu la ó một cách thắng thế, “tôi đã phá hủy tượng David của Michelangelo! David của ông ta không còn hiện hữu nữa! David của ông ta không còn hiện hữu nữa!” Anh chàng điên dại khốn khổ này đâu có nhận ra rằng đó chỉ là một tượng đắp, một bản sao vội vàng cho các khách du lịch, vì bức tượng David thực sự của Michelangelo, vì một mưu toan như thế trong quá khứ, đã không còn được lưu chuyển và đã được lưu trữ an toàn trong Galleria dell'Accademia. Điều này song hành với những gì đã xảy ra với Friedrich Nietzsche khi, qua lời lẽ của một trong những nhân vật của ông ta, đã tuyên bố rằng, “chúng ta đã giết chết Thiên Chúa!” (2) Ông ta đâu có hiểu ra rằng ông ta không giết được Thiên Chúa đích thực mà chỉ giết được bản sao “thạch cao” của Người mà thôi.
Chúng ta chỉ cần một quan sát đơn giản để xác tín rằng thuyết vô thần hiện đại không liên quan gì đến Thiên Chúa của đức tin Kitô giáo, mà chỉ liên quan tới một ý tưởng dị dạng về Người. Nếu ý tưởng về vị Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi đã được duy trì sống động trong thần học (thay vì nói về một “đấng tối cao” mơ hồ), thì lý thuyết của Feuerbach sẽ không dễ dàng thắng thế, một lý thuyết cho rằng Thiên Chúa chỉ là một phóng chiếu của chính con người và yếu tính của họ. Con người phàm nhân cần gì khi phải phân chia các Ngài thành ba Cha, Con và Thánh Thần? Đó là thứ duy thần chủ nghĩa mơ hồ bị phá hủy bởi chủ nghĩa vô thần hiện đại, không phải là đức tin vào Thiên Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi.
Nhưng chúng ta hãy chuyển sang một điều khác. Chúng ta không ở đây để bác bỏ chủ nghĩa vô thần hiện đại hoặc dự một lớp học về thần học mục vụ; chúng ta ở đây để thực hiện một hành trình hoán cải bản thân. Chúng ta đóng vai trò nào, chữ “chúng ta” ở đây tôi muốn nói các tín hữu, trong bản cáo trạng đáng sợ của Kinh thánh chống lại việc thờ ngẫu thần?
Theo những gì đã được nói cho đến bây giờ, có vẻ như trên thực tế, hơn bất cứ điều gì khác, chúng ta đã đảm nhận vai trò những người tố cáo. Chúng ta hãy nghe những gì tiếp theo trong Thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma. Sau khi lột mặt nạ khỏi khuôn mặt thế giới, Thánh tông đồ, sau đó, cũng đã lột mặt nạ khỏi chúng ta và chúng ta sẽ thấy bằng cách nào.
Dù là ai, bạn vẫn không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để phán xét người khác; vì khi phán xét người khác, bạn lên án chính mình, bởi vì bạn, vị thẩm phán, cũng làm y những việc như thế. Bạn nói rằng, “chúng tôi biết sự phán xét của Thiên Chúa đối với những người làm những việc đó là đúng với sự thật”. Bạn có tưởng tượng, dù bạn là ai, khi bạn phán xét những người làm những việc đó và chính mình bạn cũng làm các điều đó, bạn sẽ thoát khỏi sự phán xét của Thiên Chúa hay sao? (Rm 2: 1-3)
Kinh thánh cho chúng ta biết câu chuyện sau đây. Vua David đã phạm tội ngoại tình; để che đậy tội đó, ngài đã khiến chồng người đàn bà đó chết ngoài mặt trận, để vào thời điểm đó, việc ngài tự lấy người vợ của ông ta có thể được coi giống như một hành động hào phóng của nhà vua đối với người lính đã chết trong lúc chiến đấu thay cho mình. Đây là quả là một chuỗi tội lỗi thực sự. Rồi, tiên tri Nathan, được Thiên Chúa sai đến, đã tới gặp ngài và nói với ngài một dụ ngôn (nhưng nhà vua không biết đó là dụ ngôn). Nathan nói: Có một người rất giàu có trong thành phố, sở hữu nhiều đoàn cừu, và có một người nghèo chỉ có một con cừu rất thân thiết với ông ta, nhờ đó ông ta kiếm kế sinh nhai và ngủ trong nhà ông ta. Một vị khách tới nhà người giàu có, nên, tha chết cho con cừu của mình, người này đã lấy con cừu của người nghèo và cho giết nó để làm bữa tiệc đãi khách. Khi David nghe câu chuyện này, cơn thịnh nộ của ngài bừng lên đối với người đó và ngài nói, “Người làm điều đó đáng chết!” Lúc đó, Nathan, ngưng ngay dụ ngôn, chỉ ngón tay vào David, nói với ngài, “Ngài là người đó!” (xem 2 Sm 12: 1tt).
Đó là điều Thánh Tông đồ Phaolô muốn nói với chúng ta. Sau khi kéo chúng ta theo sau ngài trong sự phẫn nộ và kinh hoàng chính đáng trước sự vô thần của thế giới, khi chúng ta mở từ chương một đến chương hai trong lá thư của ngài, như thể bỗng nhiên, ngài quay về phía chúng ta và lặp lại câu, “anh em chính là người đó!” Vào thời điểm này, sự xuất hiện trở lại của cụm từ “không có lý do bào chữa” (anapologetos), được sử dụng trước đó đối với những người ngoại giáo, khiến chúng ta không còn nghi ngờ gì về ý định của Thánh Phaolô nữa. Ngài kết luận: khi phán xét người khác, bạn lên án chính mình. Nỗi kinh hoàng bạn quan niệm cho việc thờ ngẫu thần giờ đang quay lưng chống lại bạn.
Vị “phán xử” trong suốt chương thứ hai hóa ra là người Do Thái, người được hiểu ở đây là một hình tượng (type) nhiều hơn. “Người Do Thái” là người không phải Hy Lạp, không phải ngoại giáo (xem Rm 2: 9-10). Người này ngoan đạo, là một tín hữu, người có những nguyên tắc mạnh mẽ và sở đắc nền luân lý mặc khải, người phán xét phần còn lại của thế giới và, khi phán xét, cảm thấy an lòng. Theo nghĩa này, Người Do Thái là mỗi người chúng ta. Origen thực sự đã nói rằng trong Giáo hội, những người bị các lời lẽ này của Thánh tông đồ nhắm là các linh mục, tư tế và phó tế, nghĩa là, các người hướng dẫn, các nhà lãnh đạo (3).
Chính Thánh Phaolô đã trải nghiệm cú sốc này khi từ một người Biệt Phái trở thành một Kitô hữu, nhờ thế, giờ đây, ngài có thể nói một cách xác tín và chỉ cho các tín hữu con đường thoát khỏi chủ nghĩa Biệt Phái. Ngài phơi bày ảo tưởng kỳ dị vốn lặp đi lại rằng những người ngoan đạo và có lòng đạo được che chở khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chỉ vì họ có một ý tưởng rõ ràng về thiện và ác, họ biết lề luật và đôi khi biết cách áp dụng nó cho người khác. Tuy nhiên, khi đụng đến chính mình, họ nghĩ rằng đặc quyền được ở bên cạnh Thiên Chúa, hay dù gì, trong “lòng tốt” và “kiên nhẫn” của Thiên Chúa mà họ biết rõ, sẽ tạo ra ngoại lệ cho họ.
Chúng ta hãy tưởng nghĩ tới cảnh tượng này. Một người cha đang khiển trách một trong những đứa con trai của mình vì một sự vi phạm nào đó; Một người con trai khác, người đã phạm cùng một thứ tội, tin rằng sẽ giành được thiện cảm của cha mình và thoát khỏi sự khiển trách, cũng bắt đầu quở trách anh trai mình, trong khi người cha mong đợi một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn.
Người cha hy vọng rằng nghe thấy ông la mắng anh trai mình và thấy lòng tốt và sự kiên nhẫn của ông đối với anh ta, đứa con trai thứ hai sẽ chạy đến xấp mình dưới chân cha, thú nhận rằng anh ta cũng phạm tội y hệt và hứa sẽ sửa mình.
Bạn có coi thường sự phong phú trong lòng tốt, chịu đựng và kiên nhẫn của ông không? Bạn không nhận ra rằng lòng tốt của Thiên Chúa có nghĩa sẽ dẫn bạn đến sự ăn năn đó sao? Nhưng với trái tim cứng cỏi và không ăn năn của mình, bạn đang tích góp cơn thịnh nộ cho chính mình vào ngày thịnh nộ, khi việc phán xét công bình của Thiên Chúa sẽ được mặc khải. (Rm 2: 4-5).
Thật là sốc biết bao, ngày bạn hiểu ra rằng lời của Thiên Chúa đang nói cách này chính xác là đang nói với bạn, “ngươi” ở đây là chính bạn! Đây là điều xảy ra khi một nhà luật học hoàn toàn tập chú vào việc phân tích một bản án nổi tiếng được ban hành trong quá khứ vốn có thẩm quyền, khi, quan sát kỹ hơn, bỗng nhiên ông ta nhận ra bản án cũng áp dụng cho ông ta và vẫn còn hiệu lực. Đột nhiên, nó thay đổi tình huống của người này, và ông ta không còn chắc chắn về bản thân mình nữa. Lời của Thiên Chúa được áp dụng ở đây một cách hữu hiệu thực sự; nó đảo lộn tình hình của người đang xử lý với nó. Ở đây, không có lối thoát: hoặc là chúng ta phải “bật khóc” mà nói như David, “tôi đã phạm tội chống lại CHÚA! '(2 Sm 12:13), hoặc cứng lòng thêm và việc không ăn năn được củng cố thêm. Khi nghe lời lẽ này từ Thánh Phaolô, người ta kết cục một là tự hoán cải hai là cứng lòng thêm.
Nhưng đâu là lời buộc tội chuyên biệt của Thánh Tông đồ đối với người “đạo hạnh”? Ngài nói: Chính là việc thực hiện “những điều y hệt” mà họ vốn phán xét nơi người khác. Cả theo nghĩa y hệt về thể lý? Ngài cũng muốn nói cả theo nghĩa ấy (xem Rm 2: 21-24), nhưng trên hết, ngài muốn nói “những điều y hệt” theo nghĩa bản chất, nghĩa là sự vô thần và thờ ngẫu thần. Thánh Tông đồ nêu bật điều này hay hơn trong phần còn lại của bức thư khi ngài tố cáo chủ trương tự cứu mình nhờ các việc làm và do đó biến mình thành chủ nợ và Thiên Chúa là con nợ. Ngài nói, nếu bạn tuân thủ lề luật và làm đủ thứ việc tốt, nhưng chỉ để khẳng định sự công chính của bạn, bạn đang đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa. Thánh Phaolô chỉ lặp lại bằng những lời lẽ khác điều Chúa Giêsu đã cố gắng nói trong Tin Mừng qua dụ ngôn Người Biệt phái và người thu thuế ở đền thờ và qua nhiều cách khác nữa.
Chúng ta hãy áp dụng tất cả những điều này vào chúng ta, các Kitô hữu, xét vì, như chúng ta đã nói, mục tiêu của Thánh Phaolô không hẳn là người Do Thái nói chung vì họ là người có lòng đạo mà là, trong trường hợp chuyên biệt này, những người được gọi là “Kitô hữu gốc Do Thái”. Có một thứ thờ ngẫu thần giấu ẩn đặt bẫy cho người có lòng đạo. Nếu thờ ngẫu thần là “thờ phượng các công trình của chính bàn tay mình” (xem Is 2: 8; Hs 14: 4), nếu thờ ngẫu thần là “đặt tạo vật vào vị trí của Thiên Chúa”, thì tôi là người thờ ngẫu thần khi đặt tạo vật, tạo vật của tôi, công trình bàn tay tôi, vào chỗ của Đấng Tạo Hóa. “Tạo vật” của tôi có thể là căn nhà hoặc nhà thờ mà tôi đang xây dựng, là gia đình mà tôi đang thiết lập, là con trai tôi đã mang vào thế giới (có biết bao bà mẹ, thậm chí bà mẹ Kitô giáo, vô tình biến con trai họ, đặc biệt nếu nó là con trai duy nhất, thành Thiên Chúa của họ!). Nó cũng có thể là định chế tôn giáo mà tôi đã thành lập, chức vụ mà tôi nắm giữ, tác phẩm tôi trình diễn, trường tôi chỉ đạo. Trong trường hợp của tôi, chính bài giảng tôi đang giảng cho qúy vị này!
Ở cốt lõi của mọi việc thờ ngẫu thần là tôn thờ bản thân, sùng bái bản thân, tự yêu mình, đặt mình vào vị trí trung tâm và ở vị trí đầu tiên trong vũ trụ, hy sinh mọi thứ khác cho điều đó. Chúng ta chỉ cần học cách lắng nghe chính mình khi chúng ta nói là đủ khám phá ra tên của ngẫu thần chúng ta, vì, như Thiên Chúa Giêsu đã nói, “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12:34). Chúng ta sẽ khám phá có biết bao câu trong số các câu chúng ta nói bắt đầu bằng chữ “Tôi”.
Kết quả luôn là sự vô thần, không tôn vinh Thiên Chúa, nhưng luôn luôn và chỉ tôn vinh chính mình, làm cho cả những điều tốt đẹp, bao gồm việc phục vụ chúng ta dành cho Thiên Chúa và chính Thiên Chúa phải phục vụ sự thành công và khẳng định chính chúng ta! Nhiều cây có thân cao chỉ có một rễ cái, rễ mẹ đâm thẳng xuống dưới thân cây và làm cho cây cứng cáp và không thể di chuyển. Miễn là chúng ta không đặt rìu vào gốc đó, chúng ta có thể chặt hết rễ bên nhưng cây sẽ không ngã. Nhưng không gian đó rất hẹp và không có chỗ cho hai người: hoặc là bản ngã tôi hoặc là Chúa Kitô.
Có lẽ trở về trong chính mình, vào thời điểm này, tôi sẵn sàng nhận ra sự thật này: cho đến nay tôi đã sống phần nào “cho chính tôi”, tôi cũng can dự vào mầu nhiệm vô thần. Chúa Thánh Thần “đã kết án tôi phạm tội”. Nay, phép lạ hoán cải luôn luôn mới mẻ có thể bắt đầu đối với tôi. Như Thánh Augustinô đã giải thích cho chúng ta, nếu tội lỗi hệ việc cong mình về phía chính mình, thì việc hoán cả triệt để nhất hệ ở việc “làm thẳng chính mình lên” và trở lại với Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm điều này trong diễn trình một bài giảng hoặc trong một Mùa Chay; tuy nhiên, ít nhất, chúng ta có thể cương quyết nhất định sẽ làm điều đó, và điều này, xét theo một cách nào đó đối với Thiên Chúa, đã như thể chúng ta làm điều đó rồi.
Nếu tôi xếp hàng hoàn toàn về phía Thiên Chúa chống lại “cái tôi” của tôi, thì tôi sẽ trở thành đồng minh của Người; giờ đây có hai chúng tôi cùng nhau chiến đấu chống lại cùng một kẻ thù, thì chiến thắng là điều được bảo đảm. Giống con cá ra khỏi nước, bản ngã tôi vẫn có thể dẫy đành đạch và ngo ngoe chút ít, nhưng nhất định nó sẽ chết. Tuy nhiên, đó không phải là một cái chết mà là một sự ra đời: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16:25). Bao lâu “con người cũ” chết đi, điều được tái sinh trong ta là con người mới, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa trong sự công chính và thánh thiện thực sự (Eph 4:24) – là người đàn ông hay đàn bà mà mọi hữu thể nhân bản đều thầm mơ ước trở thành.
Xin Thiên Chúa giúp chúng ta luôn nhận ra môt lần nữa nhiệm vụ đích thực của cuộc sống, đó là sự hoán cải của chúng ta.
Theo bản tiếng Anh của Marsha Daigle Williamson
1.Ludwig Feuerbach, “Bài thuyết giảng XX”, Các Bài thuyết giảng về yếu tính tôn giáo, Bản dịch tiếng Anh của Ralph Manheim (New York: Harper & Row, 1967), tr. 187.
2.Xem Friedrich Nietzsche, Khoa học đồng tính # 125, bản dịch tiếng Anh của Walter Kaufmann (New York: Vantage books, 1974), tr. 181.
3. Origen, Bình luận về Thư gửi tín hữu Rôma 1-5, 2, 2, bản dịch tiếng Anh của Thomas P. Scheck, tập. 103, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America Press, 2001), tr. 104; PG 14, tr. 873.