Hình ảnh bài giảng từ nấm mồ
Xưa nay trong dòng lịch sử thời gian khắp nơi trên hoàn vũ luôn có những kiểu cách xây dựng nhà cửa dinh thự to nhỏ khác nhau tùy theo văn hóa phong tục mỗi dân tộc, mỗi thời đại, để đáp ứng cho nhu cầu sinh sống của con người. Và nhu cầu này là một trong những nhu cầu căn bản cho đời sống con người.
Đời sống con người xưa nay có ngày khởi đầu sinh ra sống trên trần gian với nhu cầu nhà ở. Và con đường đời sống trên trần gian của mỗi người cũng có ngày chấm dứt. Đó là định luật thiên nhiên không có luật trừ cho một người nào. Không phải lúc còn sống cần nhà ở, nhưng người đã chết cũng cần một ngôi nhà, một nơi xứng đáng cho thân xác. Người đã qua đời không thể tự xây dựng cho mình ngôi nhà ở được. Nhưng thân nhân ngườì qúa cố làm công việc đạo đức hiếu thảo này cho họ, để tỏ lòng yêu mến kính trọng.
Trong dòng lịch sử thời đại nhân loại có nhiều kiểu cách phát triển khác nhau trong việc xây dựng ngôi nhà, theo dân gian là ngôi hay phần mộ cho người đã qúa cố ra đi về đời sau, về thế giới bên kia. Họ không còn hiện diện với thân xác hình hài, mầu da tiếng nói, tình cảm nữa trong cuộc sống trên trần gian.
Cho dù căn nhà, ngôi mộ cao to, nhỏ bé thấp được xây dựng cho người đã qúa cố bằng xi măng, cát đá, phủ vùi lấp sâu trong lòng đất mẹ, nhưng không vì thế mà không truyền vọng tín hiệu sứ điệp nào cho người thân của họ còn đang sinh sống trên trần gian.
Vậy đâu là hình ảnh một bài giảng, hay một tín hiệu sứ điệp từ ngôi mộ của người đã qua đời?
Khoa khảo cổ đã đang đào xới tìm ra những cánh đồng có những lăng tẩm kiên cố to lớn, sang trọng danh tiếng chôn cất những vị Vua Pharao giầu sang quyền bính thời cổ đại xa xưa bên xứ Ai Cập. Người chết được chôn cất ngay tại khu đất nhà riêng của họ, hay được an táng trong lăng tẩm kim tự tháp nơi sa mạc. Nghĩa địa phần mộ theo ý nghĩa cung cách như ngày nay không có.
Người Hylạp và người Roma có lối sống văn hóa khác. Những người qua đời thuộc lớp thứ dân thường được an táng bên bìa ngoài thành phố. Phần mộ của họ thô sơ chỉ bằng đá vôi hay đất nung. Chỉ những bậc vua chúa vị vọng quyền thế được mai táng trong những lăng tẩm làm bằng đá hiếm qúy cẩm thạch sang trọng bên trong thành phố. Ở thành phố Roma dọc con đường Via Appia còn những ngôi mộ cổ lịch sử như thế bằng đá cẩm thạch vinh danh những bậc vị vọng quan quyền ngày xưa. Những người nghèo, người nô lệ không có tiền mua đất mai táng, thân xác họ được thiêu đốt thành tro bụi.
Từ khi Kitô giáo lan truyền rộng rãi, cung cách lối sống an táng người qua đời cũng được thay đổi. Người Kitô giáo tin rằng không chỉ lúc còn sống mà cả khi đã qua đời họ cùng hợp nhất lại thành cộng đoàn trong ngày phán xét chung để trông chờ cùng được sống lại: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Từ lối sống niềm tin đó thành hình khu nghĩa trang, đất thánh, để mọi người tín hữu Chúa Kitô qua đời được cùng an táng chung với nhau nơi đó.
Trong thời đạo Công Giáo bị cấm cách bắt bớ cho tới thế kỷ thứ 4.sau Chúa giáng sinh, ở thành phố Roma, những tín hữu Công Giáo được an táng trong những hang toại đạo ( Catacombe)ở sâu trong lòng đất. Ngày nay khi sang thăm viếng những nơi di tích lịch sử này, còn thấy những dấu vết ngôi mộ của người qúa cố được mai táng nơi đây.
Từ khi Kitô giáo được hoàng đế Constantino của đế quốc Roma vào thế kỷ thứ 4. công nhận cho tự do sống đạo là một tôn giáo, nhiều nơi dành khu sân gần hay bên cạnh thánh đường làm thành nghĩa trang, đất thánh để chôn cất người tín hữu đã qua đời, như ngày nay còn thấy ở nhiều thánh đường bên Âu Châu. Điều này muốn nói lên niềm tin người đã qua đời không còn sinh sống trên mặt đất, nhưng họ vẫn gần bên cạnh Thiên Chúa nguồn sự sống.
Ngày nay các nghĩa trang an táng người qua đời được xây dựng quy hoạch riêng biệt ở những thành phố lớn bên Âu Châu trở thành khu vườn rộng lớn với những con đường tráng nhựa có hàng cây cổ thụ rợp bóng lan tỏa không khí bình an nơi yên tĩnh thích hợp cho thân nhân người qúa cố đến thăm viếng đi dạo trong đó.
Và khi đi dạo qua những hàng ngôi phần mộ, những hàng cây xanh tốt gợi nhớ đến lịch sử đời sống xưa kia của người qúa cố. Nhớ đến họ với lòng ngậm ngùi biết ơn. Vì những gì họ đã làm ơn cho ta khi xưa. Và cũng với tâm tình ăn năn hối hận, xin sự tha thứ. Vì xưa kia đã có thời gian cùng sống với nhau không được hòa thuận êm ấm, đã có lúc thiếu xót bổn phận cho nhau, cư xử thiếu tình tự lòng hiếu thảo hay tình thân thiện, và cũng có khi thiếu bác ái cùng lòng nhường nhịn nhau...
Người đã qua đời nằm sâu trong lòng đất hay được thiêu ra thành tro bụi. Họ không còn có thể nói lên được bằng âm thanh tiếng nói như khi xưa lúc còn sinh tiền. Nhưng từ phần mộ nấm mồ, từ ngăn có tro bụi của thân xác họ như vọng lên sứ điệp tín hiệu nhắn gửi:
“ Tôi đã là con người được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tạo dựng ban cho thân xác, sự sống, tình cảm, ý chí khi xưa.
Tôi cũng được Ngài ban cho cơ hội cùng chung sống với mọi người trên trần gian. Ngài ban cho tôi sức lực, khả năng cùng tình yêu để xây dựng đời sống của tôi và cùng cho người khác nữa.
Ngài cho tôi sinh ra làm người ở đời khởi đầu với hai bàn tay không từ cung lòng mẹ mở mắt đi vào đời. Và quãng đường đời sống trên trần gian của tôi đến ngày chấm dứt theo ý định chương trình của Ngài, tôi trở về với Ngài cũng vẫn với hai bàn tay không.
Tôi xác tín rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên thân xác tôi từ bụi đất cho sinh sống trên trần gian. Và sau quãng đường đời hành trình trên trần gian thân xác tôi cũng tiêu tan hay thiêu thành bụi đất. Nhưng sự sống thần linh của tôi do Thiên Chúa phú ban cho không tiêu tan biến mất bị hủy đi. Tôi trở về bên Ngài với lịch sử đời sống khi xưa trên trần gian.
Tôi tin rằng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, mở rộng vòng tay đón nhận tôi, yêu thương tha thứ cho tôi. Vì tôi là người con của Ngài, là tác phẩm do Ngài tạo dựng nuôi sống khi xưa trên trần gian.
Ngày xưa trên trần gian tôi hằng ghi nhớ câu tâm niệm :
“Nhục thể ly trần lưu cát bụi.
Hồn thiêng thoát tục nhập thiên cung.”
Lễ tưởng nhớ các Linh Hồn.