CHÚA NHẬT LỄ CHÚA KITÔ VUA. C

THIÊN CHÚA ĐƯỢC TÔN VINH TRÊN THẬP GIÁ

(Lc 23, 35-43)

Thưa quý vị.

Thời đại văn minh, thể chế dân chủ được nhiều quốc gia lựa chọn làm hệ thống chính trị điều hành đất nước. Trong xã hội này người ta chỉ nói đến tổng thống, quốc hội, bộ ngành, cho nên ý niệm về vua chúa và quyền bính tuyệt đối của ông không còn phổ thông nữa, mà đang bị lu mờ, mai một dần, ngoại trừ ở vài quốc gia kì cựu như Anh quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Thụy Điển... Tuy nhiên ở những nước này quyền nhà vua đã bị Quốc hội hạn chế tối đa, chỉ còn tính cách tượng trưng cho nền quân chủ và ý chí thống nhất của nước đó. Thỉnh thoảng xem ti vi chúng ta thấy các buổi đăng quang, đám rước, đám cưới hoàng gia với những lễ nghi, xe thổ mộ do ngựa kéo, màu sắc rực rỡ, chúng ta không khiếp sợ như thời phong kiến nữa mà chỉ còn hiếu kỳ, lạ lẫm. Thời phong kiến dân chúng sợ hãi quyền bính nhà vua. Vì nó là thứ quyền lực tuyệt đối của kẻ thống trị, ai chống đối phải lãnh hậu quả thảm khốc, thường là tử hình và chu di tam tộc (giết tới ba đời con cháu). Đất nước Hoa Kỳ được khai sinh từ một cuộc nổi loạn chống lại quyền bính vua nước Anh trên 13 thuộc địa ở Châu Mỹ. Ngày nay tuy còn ngưỡng mộ vẻ đẹp của triều đình ngoại quốc, nhưng chúng ta rất sợ quyền bính phong kiến, cha truyền con nối, kìm kẹp và thống trị nhân dân. Chúng ta ưa thích nền chính trị dân chủ hơn. Tuy nhiên những cuộc tranh cử, bầu cử, thăm dò ý kiến, gian lận kết quả của mấy tháng vừa qua cho hay dân chủ cũng chưa phải là hoàn toàn lý tưởng.

Hôm nay là chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ C. Ba tuần qua Giáo hội đã cho chúng ta suy gẫm về thời kỳ cuối cùng của mỗi người, của thế giới, với động đất, đói kém, ôn dịch, bách hại và mọi loại khốn khổ. Tin Mừng tuần này về cái chết thê thảm của Chúa Giêsu trên thập tự sau khi bị xỉ nhục, chế giễu. Đây là một biến cố trớ trêu, soi sáng cho các linh hồn tôn phong Chúa là “vua” và chấp nhận quyền tối thượng của Ngài trên cuộc sống mình. Nếu so sánh với vua chúa thế gian thì quyền bính của Đức Giêsu khác hẳn. Nó là một trò cười để thiên hạ tiêu khiển, nếu nhìn theo quan điểm thường tình thế gian và chúng ta chẳng thể gán tội “phạm thượng” cho những kẻ không tin chế giễu tước hiệu “Vua Thượng Vị” của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính. Nếu hiểu hết ý nghĩa của ba bài đọc thì họ hẳn phải ôm bụng cười. Bởi vì họ không thể liên kết được những sang trọng thế gian với vị vua của người có đạo! Một vị vua người ta đem bêu diếu, trói chân tay, đánh nhừ đòn, rồi giết chết trên thập giá. Từ đó, ông làm vua những kẻ bé mọn của xã hội, những kẻ bị loại trừ, khinh bỉ, những tội nhân khốn kiếp, những đĩ điếm, xì ke, những phường lường gạt, buôn gian bán lận biết ăn năn sám hối... Đúng vậy, cả bốn phúc âm đều mô tả cái chết của Chúa Giêsu trong chiều hướng đó và mạc khải căn cước thật của Ngài là Vua Công Chính, là con Đức Chúa Trời, được tôn vinh trên vạn vật ở đúng thời điểm Ngài gục đầu trút hơi thở cuối cùng trên thập tự! Nói cho ngay, dù mỗi Phúc âm trình bày cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu một cách khác, với những chi tiết gần như cách biệt nhau khá xa, mang màu sắc của cộng đoàn địa phương, mang cả tính tình của người viết, nhưng khi đến mạc khải Ngài là vua, thì họ đều hợp nhất về quyền bính và chức vị của Ngài trên những kẻ tin kính.

Chúng ta có thể giải thích quan điểm đó như sau: Đối với người Do thái, chỉ Thiên Chúa là “vua” duy nhất của dân tộc và tôn giáo. Ngoài ra không có vua nào khác. Khi ra khỏi Ai Cập, dân Israel chỉ có quan án ngồi xét xử cho dân. Đến thời tiên tri Samuel dân muốn bắt chước các nước xung quanh, xin một vị vua, thì tiên tri bực mình đi cầu nguyện cùng Đức Chúa. Đức Chúa phán bảo ông: “Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng” (1Samuel 8,5). Người đầu tiên được xức dầu làm vua Israel là Sa-un. Ông được chọn không phải vì tài cao, sức mạnh, nhưng vì ông phản ảnh hình ảnh Thiên Chúa là vua. Ông đại diện Đức Chúa cai trị dân chúng. Ông lãnh trách nhiệm trước mặt Đức Chúa, cầm cân nẩy mực công lý trong dân. Vua Sa-un đã thất bại trong nhiệm vụ của mình, bị Đức Chúa loại bỏ, chọn Đa-vid lên thay thế. Đavid được sức dầu cũng không phải vì địa vị của mình trong nhà cha mình, mà vì ông có phẩm chất của người thay thế Đức Chúa lãnh đạo dân Do thái. Ông là một vị vua mục tử thay thế Thiên Chúa chăn dắt Israel: “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt dân Ta là Israel. Ngươi sẽ chăn dắt chúng như người mục tử chăn dắt chiên cừu”. Như vậy bài đọc 1 cho ta hiểu ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Đavid, người mục tử dẫn dắt tuyển dân Thiên Chúa, hợp nhất các bộ lạc còn đang tản mác, chọn Giêrusalem làm thủ đô và trị vì trong suốt 40 năm. Tuy có nhiều nhược điểm, nhưng đức tính nổi bật nhất của ông là tài dẫn dắt dân tộc Israel đạt tới nền thịnh vượng chưa từng có. Phụng vụ nhớ đến ông vì ông là hình ảnh của Đức Kitô dẫn dắt Hội thánh. Có điều khác biệt: Ông cai trị trên ngai vàng cung điện nguy nga ở giữa Giêrusalem. Còn Chúa Giêsu trên cây thập giá bên ngoài thành thánh. Ngài chịu đóng đinh ở đấy, cai trị và được tôn vinh ở đấy, bởi vì đó là nơi người mục tử chăn dắt đoàn chiên, những kẻ tội lỗi, sa đoạ bị loại trừ...

Người trộm thứ hai theo tiêu chuẩn của xã hội và tôn giáo lúc ấy đúng là một kẻ bị loại trừ. Nhưng ông đã nhìn thấy triều đại Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô tan nát và giẫy chết. Chẳng có chi sang trọng và vương giả nơi con người khốn khổ ấy. Bề ngoài chỉ là một tội nhân khác bị nhà nước thần quyền kết án. Tuy nhiên người trộm lành đã được ơn soi sáng công nhận Đức Giêsu đích thật là vua, oai phong và vinh hiển hơn các vua trần thế, nên đã khiêm tốn tùng phục Ngài, xin Ngài một đặc ân mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền ban: “Lạy ông Giêsu, khi nào về nước Ngài xin nhớ đến tôi cùng”. Bằng lời cầu xin ngắn gọn, người trộm lành đã tuyên xưng đức tin, ăn năn hối cải vì các lỗi lầm đã phạm, và công nhận uy quyền của Chúa Giêsu kéo dài ngay cả sau cái chết. Nói cách khác mọi sự không chấm dứt sau khi tắt thở. Trái lại, tồn tại vĩnh viễn: “Khi nào về nước Ngài xin nhớ đến tôi”. Ông đã nhận ra căn tính Thiên sai nơi Đức Kitô bên cạnh. Vì thế, vị vua mục tử mà Phúc âm luôn mô tả như tìm kiếm và cứu chữa những con chiên thất lạc, đã vội vã thâu nhận anh vào nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng”. Nghĩa là anh được sống ngay lập tức trong nước Đức Chúa Trời, không phải chờ đợi đến ngày tận thế, khi mọi người sống lại. “Anh được ở với Tôi” là lời hứa anh hoàn toàn được hạnh phúc trong tình thân thiết với Chúa Giêsu. Điều mà mỗi người chúng ta đều khát khao. Mặc dầu lúc ấy anh đang bị đóng đanh bên Chúa Giêsu, đau đớn và tủi nhục.

Vậy thì vương quyền của Chúa Giêsu là thế nào? Ngài làm vua ra sao? Lời đối đáp trên kia cho ta câu trả lời. Ngài hoàn toàn phản ánh hình ảnh Thiên Chúa- mục tử, mà dân Israel luôn tôn thờ. Ngài phân phát lòng thương xót và ơn tha thứ cho những ai kêu xin và người đầu tiên được hưởng ơn ấy là một kẻ trộm, cùng chịu án tử hình với Ngài. Cho nên bất cứ ai tìm kiếm ơn cứu độ đều được thỏa mãn nếu tin vào Ngài, không có chỗ cho thất vọng, đắng cay. Suy niệm đến đây hẳn chúng ta phải ngỡ ngàng về thượng trí khôn ngoan của Đức Chúa Trời, lo liệu cho loài người phương thế vô song để thoát khỏi bàn tay tội lỗi, được cứu độ tức thời và được sống thân thiết với Chúa Giêsu. Đồng thời phải trào dâng lòng cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa toàn năng, và vua Giêsu hiển trị muôn đời, không ngu xuẩn như những thủ lãnh Do thái chế nhạo Chúa. Họ hô lớn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Thực tế, chẳng những Chúa đủ quyền năng cứu lấy mình mà còn cứu lấy người trộm lành và muôn vàn linh hồn khác nữa. Ngài không những là vua dân Israel mà còn là vua của toàn thể vũ trụ.

Cái chết trên thập tự của Chúa đã rõ ràng xác định ý nghĩa chức vụ làm vua của Ngài và vương quyền Ngài thực hiện trên thân phận nhân loại. Đó là sự thật hiển nhiên đối với ai có lòng tin. Quyền bính của Ngài không phải để ngự trị hống hách như kiểu thế gian, bóc lột và kìm kẹp. Nhưng là cứu giúp và giải thoát. Nó hiện diện trong những kẻ yếu đuối, tội lỗi, những kẻ thua thiệt trong xã hội, biết ngước trông lên Ngài. Suốt trong các sách Phúc âm người ta tìm ra Chúa Giêsu giữa những người tội lỗi, thu thuế, gái điếm, cùi hủi, mù loà, què quặt. Những người mà xã hội loại bỏ. Một số chấp nhận Ngài đồng thuyền đồng hội với họ, số khác từ chối. Những ai chấp nhận Ngài ban phát ơn tha thứ và hoà giải, họ được chữa lành phần xác và phần hồn. Dưới chân cây thập giá cũng vậy, không có người trung lập, hoặc là họ chế nhạo Chúa hoặc là họ tin kính Ngài. Thánh Luca kể: “Khi Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, dân chúng thì đứng nhìn còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo”. Những ai cười nhạo đều dùng từ “cứu”. Dĩ nhiên họ muốn thấy hiệu quả tức thời, xuống khỏi thập giá và đi lại mạnh khoẻ như một phép lạ. Các binh lính, các thủ lãnh và một người trộm cùng chịu đóng đanh đều thách thức Chúa Giêsu tự cứu mình, tự giải thoát mình khỏi cây thập giá. Nhưng họ đã lầm, từ “cứu” trong Phúc âm có nghĩa rộng hơn nhiều. Nó bao gồm mọi khía cạnh của cuộc sống con người, ngay cả của toàn thể vũ trụ. Hẳn chúng ta còn nhớ câu văn nổi tiếng của thánh Phaolô: “Vạn vật quằn quại chờ ngày được cứu”. Đối với các tín hữu, từ “cứu” còn có nghĩa thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Cho nên họ nhìn thấy cái chết của Chúa Giêsu một ý nghĩa to lớn hơn, to lớn vô cùng. Nếu như Ngài muốn cứu chúng ta và thế giới, Ngài phải đi qua cái chết trên thánh giá, số phận đã được Thiên Chúa Cha quyết định từ khi sinh ra ở Bêlem. Vậy thì quyền cai trị của Chúa Giêsu không phải trong đường lối sang trọng thế gian. Trái lại, được biểu lộ qua cái chết khiêm nhường, hoàn toàn không vương giả. Điều trớ trêu là lời nhạo báng của các binh lính La-mã: “Nếu ông là vua Do thái thì ông hãy tự cứu mình đi”. Lại là sự thật rõ ràng đối với thế giới Công giáo.

Người trộm lành đã nhìn thấy ý nghĩa đó. Đức Kitô là vua, dáng vẻ bề ngoài là một tử tội đáng ghê tởm, hoàn toàn thất bại, hoàn toàn bị hạ nhục, không một chút uy thế nào. Nhưng lại là Cứu Chúa có quyền năng chiến thắng sự chết, ban cho ông ta sự sống và hạnh phúc đời đời: “Lạy ông Giêsu, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. người trộm lành không nghi ngờ chút nào về sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu, mặc dầu trước mặt chỉ là một tử tội đang chịu đóng đinh. Một đức tin, đúng hơn một sự soi sáng, dũng mạnh biết bao! Nếu chúng ta cũng được ơn như vậy trong cuộc sống hằng ngày, hẳn chúng ta đã không ăn ở lạnh nhạt như hiện trạng. Tuy nhiên, bài học quan trọng cho chúng ta là: Khi phải gánh chịu thiệt thòi trong cuộc sống. Khi các thế lực sự dữ bao vây chung quanh. Khi không còn một khả năng nào trong tay. Khi thất vọng về những cố gắng thay đổi nếp sống. Khi phải đối đầu với khó khăn kinh tế, luân lý, chính trị. Khi phải đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ, áp bức, bất công. Khi phải lo lắng về các cơ cấu thối nát trong Giáo hội, xã hội. Lúc than khóc thân nhân qua đời. Khi tuyệt vọng về tình hình thế giới: Luân lý đồi bại, phá thai, xì ke, ma tuý, tội ác có tổ chức... Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và nhận ra có lẽ đấy là những dạng khác nhau của biến cố trên đồi Can-vê mà Phúc âm hôm nay ký thuật. Chúng cũng đang chế nhạo Chúa Giêsu. Nhưng kỳ thực Ngài vẫn là vua. Người trộm lành đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những chê cười đó và trong đau đớn ông kêu xin Chúa cứu chữa mình. Ông đã đặt niềm tin vào nơi xem ra chẳng có chút hy vọng gì. Chúng ta hãy noi gương ông. Điều mà ông đã được nghe thì chúng ta cũng sẽ được nghe. Điều mà lòng tin của ông đã đạt được chúng ta cũng sẽ đạt được: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Thiên Chúa hiện diện ở những nơi xem ra không thể được: ngục tù, tối tăm, hèn hạ... Trên thập tự ai có thể tưởng tượng Thiên Chúa có mặt? Đôi mắt người trộm lành ngắm nhìn Chúa Giêsu ai có thể nói rằng ông ta đang ngắm nhìn ơn cứu độ? Vua của những kẻ ngoài lề lại chết trên thập giá. Việc đó am hợp với Phúc âm. Bởi lẽ Ngài luôn tuyên bố: Thiên Chúa là mục tử tối cao của nhân loại và Đức Kitô có nhiệm vụ dẫn dắt đoàn chiên trở về ràn. Vậy trong thánh lễ hôm nay, chúng ta phải cúi đầu bái lạy Ngài, vì chỉ có Ngài mới là vua đích thực của mọi tâm hồn. Amen.