Chung Mối Đồng Cảm
ĐI TÌM TÁC GIẢ “CẢM TẠ NIỆM TỪ”
tức kinh giỗ Phục Dĩ Chí Tôn
Lê Đình Bảng
Từ ký ức về một giai thoại văn học…
Từ một năm nay, chúng tôi đã lưu giữ, đọc đi đọc lại, suy nghĩ và cân nhắc toàn bộ những thư bài gửi về, với hàm ý “muốn làm sáng tỏ” xem ai đích thị là người soạn ra kinh nguyện giỗ này, một bản kinh văn có giá trị về mặt nghệ thuật và ngôn ngữ của nhà đạo. May thay, những thư bài ấy đều căn cứ trên một nguồn gốc, cơ sở chung: đó là bài viết mang tên “Hồn Thơ Công Giáo” của linh mục G.M. Phạm Châu Diên được in trong sách “Toàn Niên Kinh Nguyện” của địa phận Bùi Chu những năm 1956-1967. Sôi nổi và tập trung hơn cả là phần tham gia quý báu của ông Đinh Xuân Bảng ở Nam Hà và đặc biệt là bài góp ý rất chí tình của nhà giáo Vũ Ngô Mưu ở Tp. Hồ Chí Minh. Qua đó, ai nấy không những biết thêm được một tác giả khác (cụ Cử Thiện), mà còn “cảm” được một khoảnh khắc lịch sử vô cùng nghiệt ngã (thời cấm cách triều vua Tự Đức (1848-1884). Chính nơi nơi máu hồng thấm đẫm ấy, vô vàn hoa thơm trái ngọt đã mọc lên, làm chứng tá sinh động cho đức tin lòng đạo của người Việt Nam Công giáo và khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả, tác phẩm văn học nghệ thuật vậy.
Số là, cuối thế kỷ 19, cụ Tổng Phán, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà) muốn chiêu dân để lập ra ấp Xuân Hòa, thuộc phủ Thái Ninh (nay thuộc huyện Thái Thụy), tỉnh Thái Bình – một bãi sú vẹt còn hoang dã ở bên tả ngạn sông Trà Lý. Không đủ nhân lực để khai thác hết, cụ nhượng một nửa phần đất cho ông nội chúng tôi là cụ Phêrô Vũ Hữu Đề, người làng Lục Thủy, phủ Xuân Trường.
Thuở ấy, chuyện một nhóm người Công giáo dám đến sống lọt vào vùng Thái Ninh hạ rộng lớn, toàn người lương và hoang vu ấy, thì kể là lớn mật! Bởi vì, đúng vào thời điểm ấy, phong trào Văn Thân, rồi Cần Vương đang ở cao điểm. Đống Cao, một bãi thiêu “Gia Tô tả đạo”, thuộc làng Thần Đầu, cách ấp Xuân Hòa trên dưới một cây số; và “Gia Tô trì”, cái ao để trầm “người Gia Tô”, ở làng Thần Huống, cũng chẳng xa Xuân Hòa bao nhiêu.
Đến đầu thế kỷ 20, ấp Xuân Hòa đã thành làng, có đình thần mới dựng. Hương chức đòi nhóm “dân bên đạo” phải tới cúng đình, nhân dịp đầu xuân. Cúng đình ắt phải có “văn tế”. Đàn anh trong nhóm quyết định lấy “Kinh Phục Dĩ” làm “văn tế”
Thế là, bài kinh văn tuyệt hay này, bằng chữ Hán, do ông Cử Thiện, người làng Cốc Thành, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định soạn, có dịp được “chiềng làng”. Cụ Phêrô xếp đặt để người em họ là Vũ Hữu Tiêu làm chủ tế. Ông Tiêu hay chữ, tốt giọng, lúc ấy đang là học trò yêu của cụ Hàm Yên, một vị Tiến sĩ ở làng Hành Thiện.
Tới ngày cúng đình. Giữa tiếng nhạc lễ rộn ràng, bài văn tế “Phục Dĩ Chí Tôn” vang lên. Các hương chức Xuân Hòa phải thán phục “chữ nghĩa” và cung giọng của nhóm dân đạo! Từ đó, họ đối xử khác hẳn, không còn hống hách với nhóm người vốn bị coi là “lưu dân ngụ cư” ấy nữa. Không bao lâu, làng Xuân Hòa chia hai: Xuân Hòa lương và Xuân Hòa giáo. Rồi xứ đạo Xuân Hòa được thành lập (1909), hiện nay là một xứ lớn, có tới 26 họ lẻ ở xung quanh.[Trích đại ý qua thư của ông Vũ Ngô Mưu, 5.11.94]
Quả tình là, khi đặt bút viết để trình làng một “phát hiện” không mấy thuận chiều đối với suy nghĩ đã thành nề nếp xưa rày trong các cộng đoàn, chúng tôi trộm nghĩ mình sẽ sớm bị coi là liều lĩnh và xúc phạm chăng ? Tuy nhiên, ở góc độ văn hóa – nghệ thuật, việc xác minh lai lịch của một tác phẩm – dù ở dạng sách truyện thành văn hay kinh vãn truyền khẩu – vẫn phải được quan niệm như là điều không-thể-thiếu-được, nếu muốn cảm nhận và nghiên cứu tìm tòi một cách trọn vẹn. Văn chương thi phú khác với vè vãn dân gian là thế. Cho nên, trước khi đưa ra luận điểm “thày Phanchicô là tác giả của kinh nguyện giỗ Cảm Tạ Niệm Từ”, bản thân chúng tôi đã nhiều lần đến tận nơi, để được trao đổi, bàn bạc rốt ráo với chính những người trong cuộc, có đóng góp “sở hữu trí tuệ” vào Tạp chí Thời Mới. (Tạp chí thông tin nghị luận văn hóa, tôn giáo của giáo phận Bùi Chu, 1950-1954), và quyển Toàn Niên Kinh Nguyện. Đây là hai văn hóa phẩm lần đầu tiên đã lần lượt đăng tải và ấn hành bài “Hồn thơ Công giáo” của linh mục G.M. Phạm Châu Diên, nhằm giới thiệu cụ Cử Phạm Tư Thiện (sic) là tác giả, không những đối với bản kinh này, mà còn đối với mảng kinh vãn về Đức Mẹ, như Dâng Hoa, Phép ngắm Rosa nữa. Thế rồi, qua mối duyên đồng cảm, tại hoa viên Đền Công Chính – nhà hưu dưỡng của các linh mục gốc Bùi Chu, cha Diên còn thuật lại rành mạch nguồn ngọn nhiều mẩu chuyện nhà đạo khá lý thú đã dẫn tới việc quyết đoán trên
“Vào khoảng những năm 1951, 1952 gì đó, thầy giảng Dom. Nguyễn Trọng Thư (1865-1955) phụ trách dạy chữ Nho trong trường Latinh Ninh Cường, lúc về nghỉ hưu tại nhà “Dưỡng đạo mục” Bùi Chu có đoan chắc thêm rằng khi vua Tự Đức phát hiện cụ Cử Thiện là người theo đạo Gia Tô, liền ra lệnh thu hồi mũ áo cân đai, phẩm hàm. Bản kinh hay đến nỗi – cũng theo lời kể của thầy Nguyễn Trọng Thư – được các bậc nho gia thời ấy rất hâm mộ và tán tụng. Riêng cụ Phạm Văn Thụ, Tổng đốc Thái Bình, xuất thân khoa bảng, tuy không có đạo mà khi được nghe ngâm ngợi, đã phải tấm tắc khen là tuyệt tác, không có bài biểu, chiếu nào ví cho bằng! Bèn xin ngay một bản. . . ”. Trong bối cảnh và điều kiện văn học lúc ấy, chúng tôi nghĩ, việc cha Diên ghi nhận về cụ Cử Thiện, nên chăng, chỉ được hiểu như là một hé mở, một giới thiệu, mời gọi bốn phương gia công tìm kiếm thêm để làm giàu kho tàng văn học nhà đạo, chứ chưa hẳn là một kết luận chung cuộc.
.. . Đến một chứng từ lịch sử
Là những kẻ hậu sinh, chúng tôi vô cùng phấn khởi và trân trọng những thông tin, trao đổi, góp ý trên đây của những tấm lòng thiết tha với văn hóa, với Giáo hội mà chúng tôi được tiếp xúc trực tiếp hoặc qua thư từ. Linh mục Phạm Châu Diên, cố linh mục Dom. Lương Trí Thức (1894-1992) những “cha giáo” từng trải như là những “thư viện sống” về một giai đoạn lịch sử và văn học trước thời kỳ đất nước qua phân (1954). Ông Đinh Xuân Bảng ở Nam Hà, ông Vũ Ngô Mưu ở Tp. Hồ Chí Minh, ông Phạm Long Thăng và Nguyễn Văn Viện (tp.HCM), ông Nguyễn Thiết Kỷ ở Đồng Nai, ông Tạ Hữu Đàm ở Long Xuyên, ông Đinh Minh Thiều ở Thái Bình v.v... Những nhà giáo, những “kẻ sĩ”, những “chức việc” đã gắn chặt đời mình vào nhịp thăng trầm của từng Giáo hội địa phương, là nơi luôn tiềm tàng sức sống đức tin – văn hóa rất đa dạng. Nhưng, rất tiếc, nhận định trên có chăng chỉ là “giả thuyết” dựa vào “ký ức về một lời tự thuật” của thầy giảng Dom. Nguyễn Mạnh Thư đã kể cho cha Diên nghe. Trong khi đó, linh mục Philipphê Bỉnh đã cung cấp cho chúng ta một chứng từ cụ thể, chính xác bằng một văn bản rõ rệt: “... Mà Kinh Nguyện giỗ (Cảm Tạ Niệm Từ) thì Thầy ấy (thầy Phanchicô) nguyên là Hòa thượng tu ở chùa thành Phao làm, thì đặt ra cung sớ, vì rằng Phục, Dĩ, Chí, Tôn, Chân, Chủ, Cửu, Trùng. ..” (Trích từ “Truyện nước An Nam Đàng Ngoài chí Đàng Trong”, quyển thứ nhất – nói sự Đàng Ngoài, Philipphê Bỉnh viết tay tại kẻ chợ nước Portugal, năm 1822, trang 30). Cũng xin dẫn ra đây một vài trích đoạn để tiện tham khảo, hầu củng cố niềm tin vào một chứng từ thật hiếm quý, lâu đời, xung quanh sự nghiệp và tài năng đặc biệt là cái vốn uyên bác và sở trường về Hán học của thầy Phanchicô:“Đến khi Người (thầy cả Jeronimo Majorica) ra kẻ chợ (kinh đô Thăng Long) thì cãi lẽ (tranh luận) với mười sư Hòa thượng ở trước mặt nhà Vương (Chúa Trịnh) cùng các quan triều thần văn vũ, mà mười thầy Hòa thượng ấy đều thua lẽ Người. Cho nên, sư Hòa thượng thứ nhất (thầy Phanchicô) cũng là quan văn mà đi tu ở Thành Phao mới xin chịu đạo, thì Người rửa tội cho, cùng đăt tên thánh cho là Phanchicô. Từ khi thầy tu ấy chịu phép rửa tội thì chẳng bao giờ về chùa Thành Phao nữa, liền xin ở cùng thầy cả Jeronimo mà giúp việc Người (soạn kinh sách)” (Sđđ, trang 28-29). Không lạ gì, khi qua đời, thầy Phanchicô đã được cả hội dòng Tên cùng các giáo đoàn ở Đàng Ngoài. Đàng Trong ghi nhớ công ơn một cách trọng vọng, chỉ đứng sau các thầy cả Alexandre de Rhodes và Jeronimo Majorica: “Thầy ấy là một thầy già có công trong dòng Đức Chúa Giêsu trước hết (ở Việt Nam). Cho nên, khi Người qua đời thì biên tên Người vào trong vãn ngày lễ linh hồn cùng các thầy mà đọc rằng: Phanchicô thành Phao, để cho bổn đạo được nhớ đến rằng Người là Sư Hòa thượng ở chùa thành Phao, mà đầu sổ các thầy cả thì có tên thầy cả Alexadre, vì đến giảng đạo trước hết, đoạn tới tên thầy cả Jeronimo vì có nhiều công nghiệp trong nước ta” (Sđđ, trang 30).
Đến đây, tưởng như vấn đề đã thông thoáng rõ ràng. Một kết luận có khả năng được mở ra, dung hợp cả hai chứng cứ để đi tới đồng tình chấp nhận: Bản Kinh Vãn Nguyện Giỗ “Cảm Tạ Niệm Từ” Nguyên Văn Bằng Chữ Hán Do Thầy Phanchicô Biên Soạn Khi Hợp Tác Với Thầy Cả Majorica Ơ Đàng Ngoài (1631-1656). Công trình đồ sộ về thần học và văn hóa của tập thể này, khi có điều kiện thuận lợi, chúng tôi xin được phép trình bày sau. Còn riêng cụ cử Phạm Tư Thiện chính là người đã có công sưu tập, công bố, cổ xúy, vận dụng một cách rộng rãi bài kinh văn này trong các cộng đoàn. Nhờ vậy mà đến nay, nhiều người trong chúng ta, hễ cứ vào dịp ma chay giỗ chạp hoặc ròng rã suốt tháng cầu cho các đẳng linh hồn này, lại được nghe văng vẳng bên tai “chữ nghĩa và cung giọng” tuyệt vời của “Phục dĩ chí tôn”. Trong khi chuông nhà thờ chậm rãi nhỏ giọt thì bản Requiem lâm khốc, biệt hành của lời kinh cũng ngân nga như gọi hồn ai về.
TRÍCH TUYỂN THƠ
CẢM TẠ NIỆM TỪ
BẢN PHIÊN ÂM
Phục dĩ
Chí tôn Chân Chủ, Cửu trùng cao ngự chi thiên,
Khả tiểu phàm khu, vạn vật hữu sinh chi địa.
Chiếu lâm bất sảng, phú tái vô tư.
Thần đẳng thiết duy, linh giác tiên nguyên, hồng mông
thủy phán,
Tổng huyền khu nhi tạo hóa, trì diệu pháp dĩ thi hành.
Sinh thiên sinh địa sinh nhân cập vật giả, Thánh Phụ chi năng toàn;
Thụ khổ thụ nạn thụ tử giáng thế giả, Thánh Tử
chi duy nhất;
Chí nhược linh hồn sung mãn, sử tri đức nghĩa phú siêu,
Hiển hách Thánh thần, uy linh hiện hóa.
Phán nhiên vị tam tuy dị, hợp chi thể nhất tương đồng.
Nhất trí nhất hảo nhất năng đồng công vô gián;
Chí thiện chí nhân chí mỹ, thậm thị linh thông.
Thiết niệm linh hồn (mỗ) tự tòng sinh tiền, chí kim tử hậu, thụ Thiên Chủ cực đại chi ân.
Lự thử hồn vô tình chi vật, bình sinh cư thế, bất tín bất chí bất vụ lực khuy.
Vãng nhật đa khiên, hoặc tư hoặc ngôn hoặc hành hữu mậu.
Hoặc bị linh hồn ký hàm minh ngộ, ái dục tam năng, đa vị biệt dụng.
Bất chuyên ức, chuyên tu, chuyên mộ.
Hoặc bị nhục thân nhĩ mục khẩu tị, thủ túc tứ thể, vọng các tha kỳ,
Mạc toàn kính toàn tuân toàn phụng.
Ngẫu tao, thử ách, thống hối vị chân.
Ô hô! Sinh nhật dĩ hoàn, mệnh chung thích chí.
Khí linh đãi tận, bồi hồi thuấn tức chi gian; Thiên Chủ thị bằng cứu trợ úy an chi tế.
Huống nẵng thì tập tục sở doanh, vật dụng giai tư ích kỷ;
Nhi kim nhật khiên vưu vô kế, thùy năng cứu thoát hồng lô.
A! Thần Chủ Da tô, thục tội thi ân chi đại.
Nhân từ Thánh Mẫu, vị kì xá quá chi đa.
Dĩ chí Thiên Thần, phù trì bản tính, kỷ niên tằng giáo huấn, tằng đa bảo hộ chi lao.
Kim nhật khất đề huề khắc thắng cửu cừu chi biến.
Tinh bản danh Thánh nhân, bình sinh thân thiết, mỗi nhật phụng thị,
Cập Thánh Nam Thánh Nữ đẳng tại Chủ diện tiền, vị nhân tình thuyết,
Hữu kì tất ứng, vô đảo bất thông.
Phục vọng.
Hoàng hoàng vị tam, nguy nguy thể nhất.
Thiên cao địa hậu, sanh trì chưởng ác vô di;
Ngôn viễn thính ti, thưởng phạt khuyến trừng bất lậu.
Thần kim khể thủ, khẩn thiết nghệ cầu.
Nguyện thử linh hồn khiết thăng thiên quốc.
Xuân đài tự tại, chân hưởng phúc chi vô cùng;
Thọ vực tiêu dao, tín thường sinh chi hữu vĩnh.
Kinh văn sở đảo, thỉnh chúng đồng âm.
A mạnh.
BẢN DIỄN NGHĨA
Tấu lạy!
Chúa thật chí tôn, ngự trên chín tầng trời cao thẳm
Người phàm hèn mọn sinh ra từ mặt đất thấp
Soi xét chẳng sai, chở che không sót
Nay tôi trộm nghĩ
Cội rễ khôn thiêng, hỗn mang hé mở
Từ cõi hoang sơ mà tạo dựng
Dùng diệu pháp để thi hành
Chúa cha toàn năng hóa sinh trời đất vạn vật, nhân loại
Chúa Con duy nhất giáng trần chịu khổ chịu nạn, chịu chết
Cho linh hồn được sung mãn. Cho đức nghĩa được siêu nhiên
Tôn vinh Thánh Thần, hiện thân sáng rỡ
Phân định Ba Ngôi tuy khác
Hợp lại nhất thể như nhau
Một trí một thảo một tài cùng nhau không khác
Rất lành, rất nhân, rất đẹp thật rất linh thông
Trộm nghĩ linh hồn.. .
Từ thuở sinh ra, sống cho tới thác, lãnh biết bao ơn Chúa mà những vô tình
Sống trên đời chẳng biết chẳng siêng chẳng phụng thờ
hết sức
Ngày trước nhiều tội, hoặc nghĩ hoặc nói hoặc làm sai
Hoặc linh hồn đa mang ba điều nghĩ quấy yêu lầm muốn bậy
Làm điều mờ ám, chẳng nhớ chẳng một chẳng suy
Hoặc xác thịt vướng mắc tứ chi tai mắt mũi miệng lầm lỗi
Làm quấy sai ngoa, không kính không tuân không thờ
Nay thình lình gặp nạn,
Thống hối chưa nên
Than ôi!
Đời sống đã tàn,
Lâm chung đã tới
Khí thiêng đã hết, đang cơn hoi hóp bồi hồi
Chúa ơi đoái thương, kịp lúc cứu giúp ủi an
Huống hồ khi trước thói mê ràng buộc
Dùng mọi của cải đều là ích kỷ
Nên chi ngày nay tội khiên vô kể
Ai cứu ra khỏi ngọn lửa hỏa hào
Ôi! Đức Chúa Kitô! Ban ơn chuộc tội lớn lao
Lạy Đức Mẹ nhân từ, khấng xin tha thứ
Xin thánh Thiên Thần bản mệnh
Bao năm từng dạy dỗ, công lao gìn giữ xiết bao
Nay xin cầu bầu cứu giúp thắng vượt muôn thù
Lạy thánh Quan thầy
Khi sống đã nâng niu, nay còn bênh đỡ
Lạy các thánh Nam thánh Nữ
Trước nhan Chúa Trời, cầu cho người thân
Có cầu mới được, có khấn mới thiêng
Ngửa trông lên:
Tòa Ba Ngôi cực sáng, một Chúa uy nghi
Trời cao đất rộng giữ gìn, cầm cân nảy mực chẳng sai
Lời xa nghe tỏ thưởng phạt, khuyến dụ răn đe không sót
Nay con sấp mình
Nguyện cầu tha thiết
Xin cho hồn ấy. . .
Lên chốn Thiên đàng
Đài Xuân an nghỉ, phúc thật vui hưởng chẳng cùng chẳng hết
Cõi thọ tiêu dao, thường sinh an lạc vĩnh hằng
Kinh răn lựa bài cầu khẩn
Xin cùng cất tiếng hòa vang.
Amen.
BẢN DIỄN CA (của cụ Phạm Trạch Thiện)
Kinh cao sang
Lạy ơn Thiên Chúa cao sang
Chín tầng ngự trị thiên đàng liên liên
Loài người mọn mạy phàm hèn
Cùng chung muôn vật ở trên địa cầu.
Tính thiêng soi tới khắp thâu,
Suốt thông mọi sự làu làu không sai.
Rất công chẳng chút riêng ai,
Khắp hòa che chở chẳng ngoài kiền khôn.
Chúng tôi chút phận dân con,
Trộm đem tấc dạ ngụ hôn nghĩ rằng:
Chúa Cha phép tắc khôn chừng,
Linh thông rất mực toàn năng vô cùng.
Bởi không rẽ đám hồng mông,
Máy huyền tạo hóa phép thông diệu thần.
Sinh nên trời đất thần nhân,
Cùng chung muôn vật mọi phần tốt xinh,
Chúa Con lòng rất nhân lành,
Vì thương thiên hạ giáng sinh chữa đời.
Để tòa cao trọng trên trời,
Liều mình chịu chết thay loài người ta.
Thánh Thần Thiên Chúa Ba Ngôi
Uy linh hiện hóa thiết tha ôn tồn.
Cho ta mạnh sức linh hồn,
Đầy lòng đức nghĩa cao tôn khác vời.
Ba Ngôi cũng một Chúa Trời,
Một tính một phép Ba Ngôi một giềng.
Trí năng một thể cao sang,
Tốt lành nhân đức vẻ vang rất là.
Bây giờ trộm dám suy ra,
Hồn nay đã phải nghiêm tra trước tòa.
Xét từ hồn mới sinh ra,
Chưng nay hồn đã phải qua đời rồi.
Chịu ơn Thiên Chúa vô hồi.
Lo hồn hoặc lại luống côi vô tình.
Ở đời những thuở bình sinh,
Chẳng suy chẳng nghĩ việc lành phải chăm.
Lòng lo miệng nói mình làm.
Chan chan lỗi phạm sai lầm lắm thôi,
Linh hồn ba phép chẳng noi,
Dùng về nẻo khác lôi thôi nhiều chiều,
Từ bề xác thịt ngã xiêu,
Đi càn lối vạy chẳng theo đàng lành,
Kính dâng chẳng vẹn tâm thành.
Phượng thờ chẳng trọn bậc mình sớm trưa.
Gặp cơn nguy ách chẳng ngờ,
Ăn năn chưa trọn ngày giờ đã qua.
Than ôi! Giờ chết chẳng xa,
Khí thiêng mong thở hắt ra còn gì.
Bồi hồi hoi hóp đang khi,
Cậy trông Chúa cả phù trì ủi an.
Phương chi ngày trước lo toan,
Ích riêng theo thói thế gian chiều lòng.
Lỗi nay khổn kể cho cùng,
Ai hay cứu thoát khỏi vòng hồng lô.
Hỡi ơi! Lạy Chúa Giêsu,
Chuộc đền ơn cả thương cho lúc này.
Cậy trông Đức Mẹ nhân thay,
Cầu cùng Chúa cả lỗi rày thứ cho.
Lại xin Đức Thánh Angiô,
Bấy lâu gìn giữ hộ phù tính linh,
Hằng ngày dạy dỗ đinh ninh,
Đã trông coi sóc thần hình bấy thu.
Rày xin giúp đỡ cần cù,
Để cho thắng được kẻ thù thiêng nay.
Cùng xin đấng thánh quan thầy
Vốn từng thân thiết thuở ngày bình sinh.
Hằng hằng đỡ vực che bênh,
Xin Người thương đoái đinh ninh thay lời.
Lại xin các Thánh trên trời,
Đang chầu chực Chúa ở nơi vui vầy,
Vì tình thương đến hồn nay,
Cầu cho chóng được thấy ngày hiển vinh.
Như Lời Chúa phán rành rành.
Xin thì sẽ được ơn lành đoái thương.
Sấp mình trông Chúa cao sang,
Ba Ngôi một tính rõ ràng uy nghi.
Trời cao đất rộng cực kỳ,
Trong tay quyền phép tóm về kỷ cương.
Cao xa Chúa ngự thiên đàng,
Thấu nghe suốt hết trần gian mọi vùng.
Khuyên răn thưởng phạt rất công,
Lưới trời lồng lộng ai hòng trốn thâu
Chúng tôi cả dám khấu đầu,
Hết lòng van thiết âu sầu kêu xin.
Rộng tha phần phạt luyện đền,
Cho linh hồn ấy được lên thiên đàng.
Sống lâu hưởng phúc vinh quang,
Đền xuân cõi thọ vẻ vang đời đời.
Kinh văn cầu khẩn một bài,
Mọi người xin hết hợp lời. Amen.
www.dunglac.net - Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tư liệu xây nhà Văn Hóa Công Giáo
ĐI TÌM TÁC GIẢ “CẢM TẠ NIỆM TỪ”
tức kinh giỗ Phục Dĩ Chí Tôn
Lê Đình Bảng
Từ ký ức về một giai thoại văn học…
Từ một năm nay, chúng tôi đã lưu giữ, đọc đi đọc lại, suy nghĩ và cân nhắc toàn bộ những thư bài gửi về, với hàm ý “muốn làm sáng tỏ” xem ai đích thị là người soạn ra kinh nguyện giỗ này, một bản kinh văn có giá trị về mặt nghệ thuật và ngôn ngữ của nhà đạo. May thay, những thư bài ấy đều căn cứ trên một nguồn gốc, cơ sở chung: đó là bài viết mang tên “Hồn Thơ Công Giáo” của linh mục G.M. Phạm Châu Diên được in trong sách “Toàn Niên Kinh Nguyện” của địa phận Bùi Chu những năm 1956-1967. Sôi nổi và tập trung hơn cả là phần tham gia quý báu của ông Đinh Xuân Bảng ở Nam Hà và đặc biệt là bài góp ý rất chí tình của nhà giáo Vũ Ngô Mưu ở Tp. Hồ Chí Minh. Qua đó, ai nấy không những biết thêm được một tác giả khác (cụ Cử Thiện), mà còn “cảm” được một khoảnh khắc lịch sử vô cùng nghiệt ngã (thời cấm cách triều vua Tự Đức (1848-1884). Chính nơi nơi máu hồng thấm đẫm ấy, vô vàn hoa thơm trái ngọt đã mọc lên, làm chứng tá sinh động cho đức tin lòng đạo của người Việt Nam Công giáo và khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả, tác phẩm văn học nghệ thuật vậy.
Số là, cuối thế kỷ 19, cụ Tổng Phán, người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà) muốn chiêu dân để lập ra ấp Xuân Hòa, thuộc phủ Thái Ninh (nay thuộc huyện Thái Thụy), tỉnh Thái Bình – một bãi sú vẹt còn hoang dã ở bên tả ngạn sông Trà Lý. Không đủ nhân lực để khai thác hết, cụ nhượng một nửa phần đất cho ông nội chúng tôi là cụ Phêrô Vũ Hữu Đề, người làng Lục Thủy, phủ Xuân Trường.
Thuở ấy, chuyện một nhóm người Công giáo dám đến sống lọt vào vùng Thái Ninh hạ rộng lớn, toàn người lương và hoang vu ấy, thì kể là lớn mật! Bởi vì, đúng vào thời điểm ấy, phong trào Văn Thân, rồi Cần Vương đang ở cao điểm. Đống Cao, một bãi thiêu “Gia Tô tả đạo”, thuộc làng Thần Đầu, cách ấp Xuân Hòa trên dưới một cây số; và “Gia Tô trì”, cái ao để trầm “người Gia Tô”, ở làng Thần Huống, cũng chẳng xa Xuân Hòa bao nhiêu.
Đến đầu thế kỷ 20, ấp Xuân Hòa đã thành làng, có đình thần mới dựng. Hương chức đòi nhóm “dân bên đạo” phải tới cúng đình, nhân dịp đầu xuân. Cúng đình ắt phải có “văn tế”. Đàn anh trong nhóm quyết định lấy “Kinh Phục Dĩ” làm “văn tế”
Thế là, bài kinh văn tuyệt hay này, bằng chữ Hán, do ông Cử Thiện, người làng Cốc Thành, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định soạn, có dịp được “chiềng làng”. Cụ Phêrô xếp đặt để người em họ là Vũ Hữu Tiêu làm chủ tế. Ông Tiêu hay chữ, tốt giọng, lúc ấy đang là học trò yêu của cụ Hàm Yên, một vị Tiến sĩ ở làng Hành Thiện.
Tới ngày cúng đình. Giữa tiếng nhạc lễ rộn ràng, bài văn tế “Phục Dĩ Chí Tôn” vang lên. Các hương chức Xuân Hòa phải thán phục “chữ nghĩa” và cung giọng của nhóm dân đạo! Từ đó, họ đối xử khác hẳn, không còn hống hách với nhóm người vốn bị coi là “lưu dân ngụ cư” ấy nữa. Không bao lâu, làng Xuân Hòa chia hai: Xuân Hòa lương và Xuân Hòa giáo. Rồi xứ đạo Xuân Hòa được thành lập (1909), hiện nay là một xứ lớn, có tới 26 họ lẻ ở xung quanh.[Trích đại ý qua thư của ông Vũ Ngô Mưu, 5.11.94]
Quả tình là, khi đặt bút viết để trình làng một “phát hiện” không mấy thuận chiều đối với suy nghĩ đã thành nề nếp xưa rày trong các cộng đoàn, chúng tôi trộm nghĩ mình sẽ sớm bị coi là liều lĩnh và xúc phạm chăng ? Tuy nhiên, ở góc độ văn hóa – nghệ thuật, việc xác minh lai lịch của một tác phẩm – dù ở dạng sách truyện thành văn hay kinh vãn truyền khẩu – vẫn phải được quan niệm như là điều không-thể-thiếu-được, nếu muốn cảm nhận và nghiên cứu tìm tòi một cách trọn vẹn. Văn chương thi phú khác với vè vãn dân gian là thế. Cho nên, trước khi đưa ra luận điểm “thày Phanchicô là tác giả của kinh nguyện giỗ Cảm Tạ Niệm Từ”, bản thân chúng tôi đã nhiều lần đến tận nơi, để được trao đổi, bàn bạc rốt ráo với chính những người trong cuộc, có đóng góp “sở hữu trí tuệ” vào Tạp chí Thời Mới. (Tạp chí thông tin nghị luận văn hóa, tôn giáo của giáo phận Bùi Chu, 1950-1954), và quyển Toàn Niên Kinh Nguyện. Đây là hai văn hóa phẩm lần đầu tiên đã lần lượt đăng tải và ấn hành bài “Hồn thơ Công giáo” của linh mục G.M. Phạm Châu Diên, nhằm giới thiệu cụ Cử Phạm Tư Thiện (sic) là tác giả, không những đối với bản kinh này, mà còn đối với mảng kinh vãn về Đức Mẹ, như Dâng Hoa, Phép ngắm Rosa nữa. Thế rồi, qua mối duyên đồng cảm, tại hoa viên Đền Công Chính – nhà hưu dưỡng của các linh mục gốc Bùi Chu, cha Diên còn thuật lại rành mạch nguồn ngọn nhiều mẩu chuyện nhà đạo khá lý thú đã dẫn tới việc quyết đoán trên
“Vào khoảng những năm 1951, 1952 gì đó, thầy giảng Dom. Nguyễn Trọng Thư (1865-1955) phụ trách dạy chữ Nho trong trường Latinh Ninh Cường, lúc về nghỉ hưu tại nhà “Dưỡng đạo mục” Bùi Chu có đoan chắc thêm rằng khi vua Tự Đức phát hiện cụ Cử Thiện là người theo đạo Gia Tô, liền ra lệnh thu hồi mũ áo cân đai, phẩm hàm. Bản kinh hay đến nỗi – cũng theo lời kể của thầy Nguyễn Trọng Thư – được các bậc nho gia thời ấy rất hâm mộ và tán tụng. Riêng cụ Phạm Văn Thụ, Tổng đốc Thái Bình, xuất thân khoa bảng, tuy không có đạo mà khi được nghe ngâm ngợi, đã phải tấm tắc khen là tuyệt tác, không có bài biểu, chiếu nào ví cho bằng! Bèn xin ngay một bản. . . ”. Trong bối cảnh và điều kiện văn học lúc ấy, chúng tôi nghĩ, việc cha Diên ghi nhận về cụ Cử Thiện, nên chăng, chỉ được hiểu như là một hé mở, một giới thiệu, mời gọi bốn phương gia công tìm kiếm thêm để làm giàu kho tàng văn học nhà đạo, chứ chưa hẳn là một kết luận chung cuộc.
.. . Đến một chứng từ lịch sử
Là những kẻ hậu sinh, chúng tôi vô cùng phấn khởi và trân trọng những thông tin, trao đổi, góp ý trên đây của những tấm lòng thiết tha với văn hóa, với Giáo hội mà chúng tôi được tiếp xúc trực tiếp hoặc qua thư từ. Linh mục Phạm Châu Diên, cố linh mục Dom. Lương Trí Thức (1894-1992) những “cha giáo” từng trải như là những “thư viện sống” về một giai đoạn lịch sử và văn học trước thời kỳ đất nước qua phân (1954). Ông Đinh Xuân Bảng ở Nam Hà, ông Vũ Ngô Mưu ở Tp. Hồ Chí Minh, ông Phạm Long Thăng và Nguyễn Văn Viện (tp.HCM), ông Nguyễn Thiết Kỷ ở Đồng Nai, ông Tạ Hữu Đàm ở Long Xuyên, ông Đinh Minh Thiều ở Thái Bình v.v... Những nhà giáo, những “kẻ sĩ”, những “chức việc” đã gắn chặt đời mình vào nhịp thăng trầm của từng Giáo hội địa phương, là nơi luôn tiềm tàng sức sống đức tin – văn hóa rất đa dạng. Nhưng, rất tiếc, nhận định trên có chăng chỉ là “giả thuyết” dựa vào “ký ức về một lời tự thuật” của thầy giảng Dom. Nguyễn Mạnh Thư đã kể cho cha Diên nghe. Trong khi đó, linh mục Philipphê Bỉnh đã cung cấp cho chúng ta một chứng từ cụ thể, chính xác bằng một văn bản rõ rệt: “... Mà Kinh Nguyện giỗ (Cảm Tạ Niệm Từ) thì Thầy ấy (thầy Phanchicô) nguyên là Hòa thượng tu ở chùa thành Phao làm, thì đặt ra cung sớ, vì rằng Phục, Dĩ, Chí, Tôn, Chân, Chủ, Cửu, Trùng. ..” (Trích từ “Truyện nước An Nam Đàng Ngoài chí Đàng Trong”, quyển thứ nhất – nói sự Đàng Ngoài, Philipphê Bỉnh viết tay tại kẻ chợ nước Portugal, năm 1822, trang 30). Cũng xin dẫn ra đây một vài trích đoạn để tiện tham khảo, hầu củng cố niềm tin vào một chứng từ thật hiếm quý, lâu đời, xung quanh sự nghiệp và tài năng đặc biệt là cái vốn uyên bác và sở trường về Hán học của thầy Phanchicô:“Đến khi Người (thầy cả Jeronimo Majorica) ra kẻ chợ (kinh đô Thăng Long) thì cãi lẽ (tranh luận) với mười sư Hòa thượng ở trước mặt nhà Vương (Chúa Trịnh) cùng các quan triều thần văn vũ, mà mười thầy Hòa thượng ấy đều thua lẽ Người. Cho nên, sư Hòa thượng thứ nhất (thầy Phanchicô) cũng là quan văn mà đi tu ở Thành Phao mới xin chịu đạo, thì Người rửa tội cho, cùng đăt tên thánh cho là Phanchicô. Từ khi thầy tu ấy chịu phép rửa tội thì chẳng bao giờ về chùa Thành Phao nữa, liền xin ở cùng thầy cả Jeronimo mà giúp việc Người (soạn kinh sách)” (Sđđ, trang 28-29). Không lạ gì, khi qua đời, thầy Phanchicô đã được cả hội dòng Tên cùng các giáo đoàn ở Đàng Ngoài. Đàng Trong ghi nhớ công ơn một cách trọng vọng, chỉ đứng sau các thầy cả Alexandre de Rhodes và Jeronimo Majorica: “Thầy ấy là một thầy già có công trong dòng Đức Chúa Giêsu trước hết (ở Việt Nam). Cho nên, khi Người qua đời thì biên tên Người vào trong vãn ngày lễ linh hồn cùng các thầy mà đọc rằng: Phanchicô thành Phao, để cho bổn đạo được nhớ đến rằng Người là Sư Hòa thượng ở chùa thành Phao, mà đầu sổ các thầy cả thì có tên thầy cả Alexadre, vì đến giảng đạo trước hết, đoạn tới tên thầy cả Jeronimo vì có nhiều công nghiệp trong nước ta” (Sđđ, trang 30).
Đến đây, tưởng như vấn đề đã thông thoáng rõ ràng. Một kết luận có khả năng được mở ra, dung hợp cả hai chứng cứ để đi tới đồng tình chấp nhận: Bản Kinh Vãn Nguyện Giỗ “Cảm Tạ Niệm Từ” Nguyên Văn Bằng Chữ Hán Do Thầy Phanchicô Biên Soạn Khi Hợp Tác Với Thầy Cả Majorica Ơ Đàng Ngoài (1631-1656). Công trình đồ sộ về thần học và văn hóa của tập thể này, khi có điều kiện thuận lợi, chúng tôi xin được phép trình bày sau. Còn riêng cụ cử Phạm Tư Thiện chính là người đã có công sưu tập, công bố, cổ xúy, vận dụng một cách rộng rãi bài kinh văn này trong các cộng đoàn. Nhờ vậy mà đến nay, nhiều người trong chúng ta, hễ cứ vào dịp ma chay giỗ chạp hoặc ròng rã suốt tháng cầu cho các đẳng linh hồn này, lại được nghe văng vẳng bên tai “chữ nghĩa và cung giọng” tuyệt vời của “Phục dĩ chí tôn”. Trong khi chuông nhà thờ chậm rãi nhỏ giọt thì bản Requiem lâm khốc, biệt hành của lời kinh cũng ngân nga như gọi hồn ai về.
TRÍCH TUYỂN THƠ
CẢM TẠ NIỆM TỪ
BẢN PHIÊN ÂM
Phục dĩ
Chí tôn Chân Chủ, Cửu trùng cao ngự chi thiên,
Khả tiểu phàm khu, vạn vật hữu sinh chi địa.
Chiếu lâm bất sảng, phú tái vô tư.
Thần đẳng thiết duy, linh giác tiên nguyên, hồng mông
thủy phán,
Tổng huyền khu nhi tạo hóa, trì diệu pháp dĩ thi hành.
Sinh thiên sinh địa sinh nhân cập vật giả, Thánh Phụ chi năng toàn;
Thụ khổ thụ nạn thụ tử giáng thế giả, Thánh Tử
chi duy nhất;
Chí nhược linh hồn sung mãn, sử tri đức nghĩa phú siêu,
Hiển hách Thánh thần, uy linh hiện hóa.
Phán nhiên vị tam tuy dị, hợp chi thể nhất tương đồng.
Nhất trí nhất hảo nhất năng đồng công vô gián;
Chí thiện chí nhân chí mỹ, thậm thị linh thông.
Thiết niệm linh hồn (mỗ) tự tòng sinh tiền, chí kim tử hậu, thụ Thiên Chủ cực đại chi ân.
Lự thử hồn vô tình chi vật, bình sinh cư thế, bất tín bất chí bất vụ lực khuy.
Vãng nhật đa khiên, hoặc tư hoặc ngôn hoặc hành hữu mậu.
Hoặc bị linh hồn ký hàm minh ngộ, ái dục tam năng, đa vị biệt dụng.
Bất chuyên ức, chuyên tu, chuyên mộ.
Hoặc bị nhục thân nhĩ mục khẩu tị, thủ túc tứ thể, vọng các tha kỳ,
Mạc toàn kính toàn tuân toàn phụng.
Ngẫu tao, thử ách, thống hối vị chân.
Ô hô! Sinh nhật dĩ hoàn, mệnh chung thích chí.
Khí linh đãi tận, bồi hồi thuấn tức chi gian; Thiên Chủ thị bằng cứu trợ úy an chi tế.
Huống nẵng thì tập tục sở doanh, vật dụng giai tư ích kỷ;
Nhi kim nhật khiên vưu vô kế, thùy năng cứu thoát hồng lô.
A! Thần Chủ Da tô, thục tội thi ân chi đại.
Nhân từ Thánh Mẫu, vị kì xá quá chi đa.
Dĩ chí Thiên Thần, phù trì bản tính, kỷ niên tằng giáo huấn, tằng đa bảo hộ chi lao.
Kim nhật khất đề huề khắc thắng cửu cừu chi biến.
Tinh bản danh Thánh nhân, bình sinh thân thiết, mỗi nhật phụng thị,
Cập Thánh Nam Thánh Nữ đẳng tại Chủ diện tiền, vị nhân tình thuyết,
Hữu kì tất ứng, vô đảo bất thông.
Phục vọng.
Hoàng hoàng vị tam, nguy nguy thể nhất.
Thiên cao địa hậu, sanh trì chưởng ác vô di;
Ngôn viễn thính ti, thưởng phạt khuyến trừng bất lậu.
Thần kim khể thủ, khẩn thiết nghệ cầu.
Nguyện thử linh hồn khiết thăng thiên quốc.
Xuân đài tự tại, chân hưởng phúc chi vô cùng;
Thọ vực tiêu dao, tín thường sinh chi hữu vĩnh.
Kinh văn sở đảo, thỉnh chúng đồng âm.
A mạnh.
BẢN DIỄN NGHĨA
Tấu lạy!
Chúa thật chí tôn, ngự trên chín tầng trời cao thẳm
Người phàm hèn mọn sinh ra từ mặt đất thấp
Soi xét chẳng sai, chở che không sót
Nay tôi trộm nghĩ
Cội rễ khôn thiêng, hỗn mang hé mở
Từ cõi hoang sơ mà tạo dựng
Dùng diệu pháp để thi hành
Chúa cha toàn năng hóa sinh trời đất vạn vật, nhân loại
Chúa Con duy nhất giáng trần chịu khổ chịu nạn, chịu chết
Cho linh hồn được sung mãn. Cho đức nghĩa được siêu nhiên
Tôn vinh Thánh Thần, hiện thân sáng rỡ
Phân định Ba Ngôi tuy khác
Hợp lại nhất thể như nhau
Một trí một thảo một tài cùng nhau không khác
Rất lành, rất nhân, rất đẹp thật rất linh thông
Trộm nghĩ linh hồn.. .
Từ thuở sinh ra, sống cho tới thác, lãnh biết bao ơn Chúa mà những vô tình
Sống trên đời chẳng biết chẳng siêng chẳng phụng thờ
hết sức
Ngày trước nhiều tội, hoặc nghĩ hoặc nói hoặc làm sai
Hoặc linh hồn đa mang ba điều nghĩ quấy yêu lầm muốn bậy
Làm điều mờ ám, chẳng nhớ chẳng một chẳng suy
Hoặc xác thịt vướng mắc tứ chi tai mắt mũi miệng lầm lỗi
Làm quấy sai ngoa, không kính không tuân không thờ
Nay thình lình gặp nạn,
Thống hối chưa nên
Than ôi!
Đời sống đã tàn,
Lâm chung đã tới
Khí thiêng đã hết, đang cơn hoi hóp bồi hồi
Chúa ơi đoái thương, kịp lúc cứu giúp ủi an
Huống hồ khi trước thói mê ràng buộc
Dùng mọi của cải đều là ích kỷ
Nên chi ngày nay tội khiên vô kể
Ai cứu ra khỏi ngọn lửa hỏa hào
Ôi! Đức Chúa Kitô! Ban ơn chuộc tội lớn lao
Lạy Đức Mẹ nhân từ, khấng xin tha thứ
Xin thánh Thiên Thần bản mệnh
Bao năm từng dạy dỗ, công lao gìn giữ xiết bao
Nay xin cầu bầu cứu giúp thắng vượt muôn thù
Lạy thánh Quan thầy
Khi sống đã nâng niu, nay còn bênh đỡ
Lạy các thánh Nam thánh Nữ
Trước nhan Chúa Trời, cầu cho người thân
Có cầu mới được, có khấn mới thiêng
Ngửa trông lên:
Tòa Ba Ngôi cực sáng, một Chúa uy nghi
Trời cao đất rộng giữ gìn, cầm cân nảy mực chẳng sai
Lời xa nghe tỏ thưởng phạt, khuyến dụ răn đe không sót
Nay con sấp mình
Nguyện cầu tha thiết
Xin cho hồn ấy. . .
Lên chốn Thiên đàng
Đài Xuân an nghỉ, phúc thật vui hưởng chẳng cùng chẳng hết
Cõi thọ tiêu dao, thường sinh an lạc vĩnh hằng
Kinh răn lựa bài cầu khẩn
Xin cùng cất tiếng hòa vang.
Amen.
BẢN DIỄN CA (của cụ Phạm Trạch Thiện)
Kinh cao sang
Lạy ơn Thiên Chúa cao sang
Chín tầng ngự trị thiên đàng liên liên
Loài người mọn mạy phàm hèn
Cùng chung muôn vật ở trên địa cầu.
Tính thiêng soi tới khắp thâu,
Suốt thông mọi sự làu làu không sai.
Rất công chẳng chút riêng ai,
Khắp hòa che chở chẳng ngoài kiền khôn.
Chúng tôi chút phận dân con,
Trộm đem tấc dạ ngụ hôn nghĩ rằng:
Chúa Cha phép tắc khôn chừng,
Linh thông rất mực toàn năng vô cùng.
Bởi không rẽ đám hồng mông,
Máy huyền tạo hóa phép thông diệu thần.
Sinh nên trời đất thần nhân,
Cùng chung muôn vật mọi phần tốt xinh,
Chúa Con lòng rất nhân lành,
Vì thương thiên hạ giáng sinh chữa đời.
Để tòa cao trọng trên trời,
Liều mình chịu chết thay loài người ta.
Thánh Thần Thiên Chúa Ba Ngôi
Uy linh hiện hóa thiết tha ôn tồn.
Cho ta mạnh sức linh hồn,
Đầy lòng đức nghĩa cao tôn khác vời.
Ba Ngôi cũng một Chúa Trời,
Một tính một phép Ba Ngôi một giềng.
Trí năng một thể cao sang,
Tốt lành nhân đức vẻ vang rất là.
Bây giờ trộm dám suy ra,
Hồn nay đã phải nghiêm tra trước tòa.
Xét từ hồn mới sinh ra,
Chưng nay hồn đã phải qua đời rồi.
Chịu ơn Thiên Chúa vô hồi.
Lo hồn hoặc lại luống côi vô tình.
Ở đời những thuở bình sinh,
Chẳng suy chẳng nghĩ việc lành phải chăm.
Lòng lo miệng nói mình làm.
Chan chan lỗi phạm sai lầm lắm thôi,
Linh hồn ba phép chẳng noi,
Dùng về nẻo khác lôi thôi nhiều chiều,
Từ bề xác thịt ngã xiêu,
Đi càn lối vạy chẳng theo đàng lành,
Kính dâng chẳng vẹn tâm thành.
Phượng thờ chẳng trọn bậc mình sớm trưa.
Gặp cơn nguy ách chẳng ngờ,
Ăn năn chưa trọn ngày giờ đã qua.
Than ôi! Giờ chết chẳng xa,
Khí thiêng mong thở hắt ra còn gì.
Bồi hồi hoi hóp đang khi,
Cậy trông Chúa cả phù trì ủi an.
Phương chi ngày trước lo toan,
Ích riêng theo thói thế gian chiều lòng.
Lỗi nay khổn kể cho cùng,
Ai hay cứu thoát khỏi vòng hồng lô.
Hỡi ơi! Lạy Chúa Giêsu,
Chuộc đền ơn cả thương cho lúc này.
Cậy trông Đức Mẹ nhân thay,
Cầu cùng Chúa cả lỗi rày thứ cho.
Lại xin Đức Thánh Angiô,
Bấy lâu gìn giữ hộ phù tính linh,
Hằng ngày dạy dỗ đinh ninh,
Đã trông coi sóc thần hình bấy thu.
Rày xin giúp đỡ cần cù,
Để cho thắng được kẻ thù thiêng nay.
Cùng xin đấng thánh quan thầy
Vốn từng thân thiết thuở ngày bình sinh.
Hằng hằng đỡ vực che bênh,
Xin Người thương đoái đinh ninh thay lời.
Lại xin các Thánh trên trời,
Đang chầu chực Chúa ở nơi vui vầy,
Vì tình thương đến hồn nay,
Cầu cho chóng được thấy ngày hiển vinh.
Như Lời Chúa phán rành rành.
Xin thì sẽ được ơn lành đoái thương.
Sấp mình trông Chúa cao sang,
Ba Ngôi một tính rõ ràng uy nghi.
Trời cao đất rộng cực kỳ,
Trong tay quyền phép tóm về kỷ cương.
Cao xa Chúa ngự thiên đàng,
Thấu nghe suốt hết trần gian mọi vùng.
Khuyên răn thưởng phạt rất công,
Lưới trời lồng lộng ai hòng trốn thâu
Chúng tôi cả dám khấu đầu,
Hết lòng van thiết âu sầu kêu xin.
Rộng tha phần phạt luyện đền,
Cho linh hồn ấy được lên thiên đàng.
Sống lâu hưởng phúc vinh quang,
Đền xuân cõi thọ vẻ vang đời đời.
Kinh văn cầu khẩn một bài,
Mọi người xin hết hợp lời. Amen.
www.dunglac.net - Mạng Lưới Dũng Lạc, góp tư liệu xây nhà Văn Hóa Công Giáo