Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết Hai: Dẫn nhập vào các sách lịch sử
(9) Chương bốn: Các Sách 1-2 Sa-mu-en
Anthony F. Campbell, S.J. và James W. Flanagan,
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.145-146
Tài liệu Tham khảo
Alter, R., The Art of Biblical Narrative [Nghệ thuật tường thuật Kinh thánh] (NY, 1981).
Campbell, A. F., Of Prophets and Kings [Về các Tiên tri và các vị Vua] (CBQMS 17; Washington, 1986).
Conroy, C., Absalom Absalom! (AnBib 81; Rome, 1978).
Fokkelman, J. P., Narrative Art and Poetry in the Books of Samuel [Nghệ thuật tường thuật và thi ca trong Sách Samuen] (2 tập cho đến nay; SSN; Assen, 1981-).
Gunn, D. M., The Fate of King Saul [Số phận của Vua Sa-un] (JSOTSup 14; Sheffield, 1980).
Hertzberg, H. W., I&II Samuel (OTL; Phi, 1964).
Klein, R. W., 1 Samuel (WBC 10; Waco, 1983).
McCarter, P. K., Jr., I-II Samuel (AB 8, 9; GC, 1980, 1984).
Mauchline, J., 1 & 2 Samuel (NCB; London, 1971).
Noth, M., The Deuteronomistic History [Lịch sử dòng Đệ nhị luật] QSOTSup 15; Sheffield, 1981; Ger 1943).
Peckham, J. B., The Composition of the Deuteronomistic History [Thành phần của Lịch sử dòng Đệ nhị luật] (HSM 35; Atlanta, 1985).
Rost, L., The Succession to the Throne of David [Sự kế vị ngai vàng của Đa-vít] (HTIBS 1; Sheffield, 1982; Ger 1926).
Sternberg, M., The Poetics of Biblical Narrative [Thi pháp của tường thuật Kinh thánh] (Bloomington, 1985).
Stoebe, H. J., Das erste Buch Samuelis [Sách Samuel thứ nhất] (KAT 8/1; Giitersloh, 1973).
Veijola, T., Die ewige Dynastie [Triều đại vĩnh cửu](AASF, B 193; Flelsinki, 1975); Das Konigtum in der Beurteilung der deuteronomistischen Historiographicographic [Vương quyền trong việc đánh giá đồ họa sử học Đệ nhị luật](AASF, B 198; Helsinki, 1977).
Wurthwein, E., Die Erzdhlung von der Thronfolge Davids— theologische oder politische Geschichtsschreibung [Câu chuyện về sự kế vị của David—sử học thần học hoặc chính trị]? (ThStud 115; Zurich, 1974).
Dẫn Nhập
(I) Chủ đề
Các sách Sa-mu-en đề cập tới thời kỳ trong đó hai biến cố đã trở thành chủ yếu tại Israel: một là khuôn mặt tiên tri; hai là định chế quân chủ. 1 Sa-mu-en khởi đầu với việc xuất hiện của Sa-mu-en như một tiên tri đối với toàn hể Israel; 2 Sa-mu-en kết thúc ngay trước khi có việc thay đổi triều đại vương quyền từ Đa-vít qua Sa-lô-môn. Các truyền thống tạo nên hai sách Sa-mu-en vốn vật lộn với hành động qua lại của hai thế lực này và các hệ luận của chúng đối với sự sống còn của Israel trong tư cách một quốc gia và cái hiểu của Israel về chính mình như dân riêng của Thiên Chúa.
(II) Bản Văn
Các vấn đề thuộc văn bản từng gợi hứng cho nhiều nghiên cứu và tranh luận lớn lao. Các công trình có tính cổ điển là các công trình của J. Wellhausen (Der Text der Bücher Samuelis [Văn bản của sách Samuel], Göttingen, 1871) và của S. R. Driver (Notes on the Hebrew Text and the Topography of the Books of Samuel [ghi chú về bản văn Hípri và Địa hình của Các Sách Sa-mu-en], 2nd ed.; Oxford, 1913). Gần đây hơn, có những phần phê bình bản văn rất đầy đủ trong chú giải của McCarter và trong công trình của D. Barthélemy (Critique textuelle de l’Ancient Testament [Phê bình bản văn Cựu Ước],Vol.1, Orbis Biblicus et Orientalis 50/1 Fribourg, 1982); còn có cả hai chuyên đề: một của E.C Ulrich, The Qumran Text of Samuel and Josephus [Bản văn Samuen của Qumram và Josephus], Harvard Semitic Monograh 19, Cambrifge MA 1978 và môt của S. Pisano, Additions or Omissions in the Books of Samuel [các thêm thắt hay bỏ sót in các sách Samuen], Orbis Biblicus et Orientalis 57, Fribourg, 1984.
(III) Soạn thảo
Thời gian soạn thảo bao trùm nhiều thế kỷ từ lúc bắt đầu nền quân chủ tại Israel cho đến thời lưu đày và cả sau thời lưu đày nữa. Sự hiểu biết có tính bác học về các diễn trình phát triển tạo ra các sách này đã diễn biến qua nhiều giai đoạn. Trong bản văn, nhiều dấu chỉ rõ ràng cho thấy có sự trùng lắp và gián đoạn. Chịu ảnh hưởng do các thành công của khoa phê bình thuộc nguồn ngũ kinh, các hiện tượng này chỉ có thể giải thích bằng việc tiếp nối hai truyền thống J và E, hay các truyền thống tương tự, xuyên suốt Giô-suê, Thủ Lãnh, Sa-mu-en và xuống tận các Vua. Năm 1926, L. Rost đưa ra một mô thức khác, theo đó, thay vì nhấn mạnh tới các nguồn liên tục, ông cho rằng các khối căn bản tạo ra 1-2 Sa-mu-en nguyên thủy vốn là các trình thuật độc lập (Succession). Rost chú trọng tới trình thuật kế thừa (2Sm 9-20; 1V 1-2) cùng với trình thuật hòm bia (1Sm 4-6; 2Sm 6), điều cốt chính trong lời sấm của Na-than (2Sm 7) và bản tường trình về cuộc chiến với người Am-mon (2Sm 10:6-11:1; 12:26-31). Muốn xét tới câu truyện Đa-vít lên cầm quyền (từ 1Sm 9 hay 16 tới 2Sm 5), thì trọn bộ 1-2 Sm phải được kể vào. Trước nghiên cứu của Rost, những việc ấy được coi là những khối truyền thống đã được nhập vào các nguồn liên tục. Nhưng sau nghiên cứu của ông, người ta không xét tới các nguồn ấy nữa mà chú ý tới chính các trình thuật độc lập.
Năm 1943, M. Noth đưa ra giả thuyết mới về một lịch sử có tính đệ nhị luật kéo dài từ Đệ Nhị Luật tới 2Vua 25. Giả thuyết này lại một lần nữa tổng hợp các yếu tố trên thành một bản văn liên tục duy nhất mà ông định niên biểu vào hời lưu đày (Deuteronomistic Hisory, JSOTsup 15, Sheffield, 1981). Theo Noth, truyền thống đệ nhị luật quan tâm rất nhiều tới việc xuất hiện của nền quân chủ tại Israel (1Sm 8-12) nhưng lại ít chú ý tới các truyền thống đã được tiếp nhận. Các năm 1975 và 1977, sau nhiều nghiên cứu về các bình diện soạn tác trong truyền thống đệ nhị luật, T. Veijola đã biện luận cho một đóng góp còn có chất lượng hơn nữa của truyền thống này vào bản văn của Sa-mu-en (Die ewige Dynastie, AASF, B 193, Helsinki 1975; Das Konigtum in der Beurteilung der deuteronomistischen Histogiographie, AASF, B 198, Helsinki 1977). Muốn đánh giá được cuộc tranh luận về các lớp lang soạn tác trong truyền thống đệ nhị luật, nên xem A.D.H. Mayes, The History of Israel between Settlement and Exile, GR 1983. Ngược lại, muốn đánh giá được dòng văn chính của 1-2 Sa-mu-en, thì nên xem R.P. Gordon, 1 & 2 Samuel, Shefield 1984.
Antony F. Campbell, S.J, thì biện luận cho căn tính một tài liệu tiên tri thuộc thế kỷ thứ 9, trải dài từ 1Sm 1 tới 2V 10 (Of Prophets and Kings, CBQMS 17, Washington, 1986). Mệnh danh là Hồ Sơ Tiên Tri (Prophetic Record), tài liệu này được coi là nằm phía sau cả hai bản văn 1-2 Sm hiện nay lẫn các bản văn của truyền thống đệ nhị luật. Nó được gán cho các giới tiên tri phía bắc, rất có thể là những người có liên hệ với Ê-li-sa và được coi như soạn thảo ra để bênh vực cho việc hợp thức hóa cú đảo chính của Giê-hu và cố gắng sau đó nhằm loại bỏ việc thờ thần Ba-an ra khỏi Israel. Như thế, hiện nay, cả quan niệm các khối trình thuật độc lập lẫn quan niệm tài liệu trình thuật liên tục đều góp phần vào việc giải thích các hiện tượng trong 1-2 Sa-mu-en.
(10) Chương năm: Sách 1-2 các Vua
Jerome T. Walsh và Christopher T. Begg,
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.160-162.
Tài liệu Tham khảo
Bright, J., BHl
Cross, F. M., CMHE 217-89.
De Vries, S.J., 1 Kings (WBC 12; Waco, 1985).
Gray J., I & II Kings (ấn bản lần thứ 2; OTL; Phi, 1970).
Hoffmann, H.-D., Reform und Reformen [cải cách và được cải cách][ (ATANT 66; Zurich, 1980).
Ishida, T. (biên tập). Studies in the Period of David and Solomon [Nghiên cứu Thời Đa-vít và Sa-lô-môn] (Winona Lake, 1982).
Jones, G. H., 1 and 2 Kings (NCB; GR, 1984).
Long, B. O., 1 Kings (FOTL 9; GR, 1984).
Montgomery,J. A., MGK
Nelson, R. D., The Double Redaction of the Deuteronomic History [Soạn tác kép của Lịch sử Duy đệ nhị luật] (JSOTSup 18; Sheffield, 1981).
Noth, M., Konige [các vua] (BKAT 9/1; Neukirchen, 1968); The Deuteronomistic History [Lịch sử dòng Đệ nhị luật] (JSOTSup 15; Sheffield, 1981).
Rehm, M., Das erste Buch der Konige [Sách Các Vua đầu tiên](Wurzburg, 1979).
Wurthwein, E., Die Bucher der Konige [Sách Các Vua] (ATD 11; Gottingen, 1977-84).
Dẫn Nhập
(I) Việc soạn thảo
Các Sách Vua là phần thứ tư của bộ Các Tiên Tri Tiền (Former Prophets) như truyền thống vốn gọi, tức gồm các sách Giô-suê, Thủ Lãnh, 1-2 Sa-mu-en và 1-2 Vua. Sự phân chia thành Sa-mu-en và Vua là một phân chia võ đoán và có nhiều biến thái trong các bản chép tay xưa. Sự phân chia giữa 1 và 2 Vua còn có tính võ đoán hơn nữa, vì đã gián đoạn cả trình thuật về triều đại A-khát-gia-hu tại Israel. Thực ra, 1-2Vua tạo thành một công trình liên tục.
Các học giả hiện đại đều xác nhận đặc tính thống nhất của Các Tiên Tri Tiền. Kể từ công trình nghiên cứu của M. Noth (Überlieferungsgeschichtliche Studien [Nghiên cứu về lịch sử truyền thống], 1943) cho đến nay, người ta thường nói tới bộ này như là “lịch sử có tính đệ nhị luật” (deuteronomisctic history, viết tắt là Dtr) và cho nó là sản phẩm của một trường phái hay truyền thống duy nhất, nếu không muốn nói của một tác giả duy nhất. Nhưng, nó không phải là một công trình về lịch sử chính trị và xã hội, mà là về lịch sử thần học. Bằng một cái nhìn thần học rất nhất quán, bộ này thuật lại đời sống của Israel trên chính lãnh thổ của họ từ ngày chiếm được nó tới ngày phải lưu đầy qua Ba-by-lon. Nó không quan tâm tới các biến cố theo thứ tự thời gian đúng nghĩa, dù các biến cố ấy có quan trọng bao nhiêu đi chăng nữa đối với một sử gia hiện đại, cho bằng chú ý tới việc giải thích số phận ba chìm bẩy nổi của dân Chúa. Người theo truyền thống đệ nhị luật này chọn lựa các nguồn tài liệu, sắp xếp và sửa đổi chúng, nới rộng và bổ túc chúng với một mục tiêu trong đầu, hơn là lo lắng làm sao cho chính xác, hay có thể kiểm chứng được về phương diện phúc trình. Các nguồn tài liệu được sử dụng thì rất nhiều và đa dạng, đi từ các truyện dân gian (1V 3:16-27) và truyện kỳ tình (2V 2) tới các ghi chép có tính văn khố (1V 4:7-19). Trong các Sách Vua, người thuộc truyền thống đệ nhị luật đã trưng dẫn 3 nguồn tài liệu có tên đàng hoàng và đã yêu cầu độc giả tham chiếu chúng để biết thêm chi tiết. Đó là các Công Vụ của Sa-lô-môn, Sử Biên Các Vua Giu-đa và Sử Biên Các Vua Israel. Chẳng may, cả ba nguồn này hiện nay đã thất lạc. Muốn biết thêm chi tiết về các nguồn, xin xem J. Gray, 1 & II Kings 14-35 (2nd ed.; OTL, Phl 1970).
Không biết chắc vào lúc nào người thuộc truyền thống đệ nhị luật đã tổng hợp các nguồn trên thành trình thuật có tính thần học mà ta có hiện nay. Có điều chắc là phiên bản sau cùng của các sách Vua có niên đại vào thời lưu đày: 2V 25:27 ghi lại việc phóng thích vua Giơ-hô-gia-khin (khoảng năm 560), nhưng truyền thống đệ nhị luật không biết gì tới sắc lệnh của Ky-rô và việc hồi hương (538-537). Tuy nhiên, nhiều học giả ngày nay tin rằng công việc chính lên khuôn cho dòng văn đệ nhị luật đã được thực hiện trước khi có cuộc lưu đày, có thể dưới triều đại của Giô-si-gia (khoảng các năm 640-609), rồi sau đó, việc san định vào thời lưu đày đã cập nhật hóa trình thuật này. Xin xem R.D. Nelson, Double Redaction of the Deuteronomic History, JSOTSup 18, Sheffield 1981, và A. Mayes, The Story of Israel between Settlement and Exile, London, 1983, 1-21.
Tính đa dạng trong các nguồn và mục tiêu thần học mà đến cả các tư liệu văn khố cũng phải tùy thuộc cho thấy ta cần thận trọng khi cố gắng rút tỉa các dữ kiện lịch sử từ các sách Vua. Dòng chính của chúng tất nhiên có tính lịch sử, như tên tuổi, thứ tự các vua, sự phân chia thành hai vương quốc sau khi Sa-lô-môn qua đời, việc đánh bại Israel, cảnh lưu đày của Giu-đa. Nhưng ngay trong các nét chính ấy, việc dựng lại lịch sử cũng phải được tiến hành một cách thận trọng. Thí dụ, ngay các dữ kiện khách quan thuộc niên đại cũng có vấn đề. Các sách Vua thường xuyên xác định việc lên ngôi của một vị vua theo niên hiệu (regnal year) của một nhà vua khác, đồng thời cho biết khoảng thời gian kéo dài của mỗi triều vua. Trong lý thuyết, ta có thể định niên biểu một cách chính xác cho mọi dòng vua ở cả hai vương quốc. Nhưng thực tế người ta đã chứng minh là sự việc không hẳn như thế. Rất có hể người ta đã làm cho các con số niên đại ấy phù hợp với nhau nhờ một sửa đổi hay một giả thuyết nào đó (Xem H. Jagersma, A History of Israel in the Old Testament Period, Phl 1983, 124-126).
(II) Mục đích và thần học
Mục đích của truyền thống đệ nhị luật, hay ít là của nhà san định thời lưu đày, là giải thích việc dân Chúa đã phải chịu cảnh lưu đày ra sao. Trong yếu tính, việc giải thích này như sau: cả Israel lẫn Giu-đa, qua con người của các vị vua liên hệ, đã bất trung về phương diện phụng tự một cách thường xuyên và khủng khiếp đến độ hủy diệt là hình phạt duy nhất xứng hợp. Có một số các chủ đề phụ góp phần vào việc giải thích ấy: đăc tính tiêu biểu của Đa-vít và Gia-róp-am I, việc phụng tự và Đền Thờ, cũng như vai trò của các tiên tri.
Đối với các sách Vua, Đa-vít là tuyệt mẫu của các nhà cai trị Giu-đa. Ông là người trung thành và vâng phục Gia-vê (1V 3:14);bởi thế, Gia-vê hứa ban cho ông một triều đại không bao giờ chấm dứt (1V 8:25; xem thêm 2Sm 7:4-16). Nhưng bắt đầu với Sa-lô-môn, phần lớn các vị vua phía nam đã không theo con đường của Đa-vít nữa (1V 9: 4-9; 11:4,6; 15:3; 2V 16:2); ngay các vị vua trung thành cũng chỉ được người ta ca tụng một cách dè dặt (1V 15:11-14; 2V 14:3-4); chỉ có Khít-ki-gia và Giô-si-gia là được đánh giá một cách không điều kiện (2V 18: 3-5; 22:2; 23:25). Lời Thiên Chúa hứa với Đa-vít chính là lý do khiến cánh tay Người ở lại với Israel bất chấp các sự dữ nó phạm phải (1V 11:13; 15:4; 2V 8:19).
Ngược lại, Gia-róp-am I là điển hình của Israel bất trung. Theo quan điểm của truyền thống đệ nhị luật, mặc dù do chính Gia-vê chọn lựa (1V 11:26-40), Gia-róp-am đã phạm tội bất trung trong phụng tự (12:26-31), điều mà truyền thống này gọi là “tội của Gia-róp-am” và cho là tội nền tảng của vương quốc phía bắc. Các vị vua của Israel đều bị lên án không trừ một ai vì đã phạm cái tội của Gia-róp-am này. Tuy nhiên, A-kháp là người bị lên án hơn cả vì đã du nhập việc thờ cúng Ba-an (1V 16:30-33). Việc sa đoạ trong phụng tự này đã dẫn đến việc Israel bị Át-sua tàn phá, như lời bình luận nhân vụ Samaria bị xụp đổ đã minh chứng (2V 17).
Các vị vua của cả Israel lẫn Giu-đa đều bị phán xử theo sự tinh tuyền của họ đối với việc phụng tự. Ở phía bắc, tiêu chuẩn lên án là “tội của Gia-róp-am”. Ở phía nam, “các tế đàn ở trên cao” (các địa điểm hiến tế trên đỉnh đồi dùng trong việc phụng tự của ngoại giáo bản địa và có lẽ của cả nền phụng tự bình dân của Do Thái nữa) là các hình thức thoái hóa thông thường nhất mà các vị vua của họ hay bị kết án, trong khi việc cải tiến về phụng tự bao giờ cũng được kể là nền tảng cho các lời ca tụng (1V 15:11-13; 22:46; 2V 18: 3-5, 22-23).
Việc xây dựng và cung hiến Đền Thờ là tâm điểm trong trình thuật về Sa-lô-môn và là vinh quang mãi mãi của vị vua này, mặc dù truyền thống đệ nhị luật vốn có cái nhìn khá tiêu cực về ông ta (1V 11:9-13). Đền Thờ vẫn là quan tâm có tính chủ đề trong các sách Vua; các vấn đề liên quan tới nó, ngay những vấn đề không trực tiếp quan hệ tới việc thoái hóa hay cải tiến phụng tự, cũng đều được ghi lại (1V 14:25-28; 15:15, 18-19; 2V 11:3-16; 12:4-18; 14:14; 15:35; 16:8-18; 18:15-16; 24:13; 25:9, 13-17).
Sau cùng, vai trò của các tiên tri trong lịch sử diễn tiến của Isarel là quan tâm chính của truyền thống đệ nhị luật. Cách riêng, 1-2V đã chứa rất nhiều trình thuật có tính tiên tri, trong đó, có những sưuu tập khá dài về Ê-li-a và Ê-li-sa. Qua các tiên tri, Gia-vê đã liên tục đương đầu với thứ dân lầm lạc để mời gọi họ trở lại với đường lối của Người. Lời tiên tri có thể bảo đảm một chiến thắng (1V 20:13), một hứa hẹn hòa bình (2V 7:1), một đe dọa (1V 22:17), hay một lên án (2V 1:3-4). Trong mọi trường hợp, chính Gia-vê công bố trước kế hoạch của lịch sử, một kế hoạch nhất định sẽ thành sự thật. Xuyên suốt 1-2V, ta đều thấy chứng cớ thành sự của các lời tiên tri; điểm nhấn khá rõ ràng của truyền thống đệ nhị luật là thế này: Gia-vê làm chủ lịch sử và “Người mặc khải kế sách của Người cho các tôi tớ của Người là các tiên tri” (Am 3:7).