Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết bốn: Văn chương khải huyền và cánh chung luận

(20) Chương hai: SÁCH Ê-DÊ-KI-EN



Lawrence Boadt, C. S. P.

The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition các tr.305-308


Tài Liệu Tham Khảo

Bình luận:

Carley, K., The Book of the Prophet Ezekiel [Sách Tiên tri Ê-dê-ki-en] (CBC; Cambridge, 1974).

Cody, A., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (OTM; Wilmington, 1984).

Cooke, G., The Book of Ezekiel [Sách Ê-dê-ki-en] (ICC; NY, 1937).

Craigie, P., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (DSB; Phi, 1983).

Eichrodt, W., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (Phi, 1970).

Fohrer, G., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (HAT; Tubingen, 1955).

Greenberg, M. Ezekiel [Ê-dê-ki-en]1-20 (AB 22; GC, 1983).

Stalker, D. M. G., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (fBC; London, 1968).

Tkacik, A., " Ezekiel [Ê-dê-ki-en],"JBC.

Wevers, J., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] (NCB; London, 1969).

Zimmerli, W., Ezekiel [Ê-dê-ki-en] 1, 2 (Herm; Phi, 1979, 1983).

Zurro, E. và Alonso Schakel, L., Ezequiel (Libros Sagrados; Madrid, 1971).

Các công trình khác:

Carley, K., Ezekiel among the Prophets [Ê-dê-ki-en trong số các nhà tiên tri] (SBT; Naperville, 1974).

Fohrer, G., Hauptprobleme des Buches Ezechiel [Những vấn đề chính của Sách Ê-dê-ki-en(Berlin, 1952).

Holscher, G., Hesekiel, der Dichter und das Buch [Ezekiel, nhà thơ và cuốn sách] (BZA W 39; Giessen, 1924).

Hossfeld, F., Untersuthungen zu Kompositlon und Theology des Ezechielbuches [Nghiên cứu về việc soạn thảo và thần học của sách Ê-dê-ki-en](FB 20; Stuttgart, 1977).

Lang, B., Ezechiel: Der Prophet und das Buch [Ê-dê-ki-en: Nhà tiên tri và Sách](Darmstadt, 1981); Kein Aujstand in Jerusalem [Không có cuộc nổi loạn nào ở Giêrusalem] (SBB; Stuttgart, 1978).

Lust, J. (ed.), Ezekiel and His Book [Ê-dê-ki-en và Sách của Ông] (BETL 74; Leuven, 1986).

Vogt, E., Untersuchungen zum Buch Ezechiel [Nghiên cứu về Sách Ê-dê-ki-en] (AnBib 95; Rome, 1981). Zimmerli, W., I Am Yahweh [Ta là Gia-vê (Atlanta, 1982).

Dẫn nhập

Không có cuốn sách tiên tri nào đặt ra nhiều câu hỏi hơn Ê-dê-ki-en. Nó kết hợp các sấm ngôn tiên tri với những suy tư pháp lý, văn xuôi và thi ca, những mô tả lịch sử cực kỳ chi tiết với những ẩn dụ thần thoại giàu trí tưởng tượng, phán đoán tỉnh táo và tầm nhìn hoang dã, thuyết giáo bằng lời lẽ với cách trình bày kịch tính sống động. Điều này dẫn đến sự phong phú về tài liệu và tầm nhìn rộng hơn nhiều so với các sách tiên tri khác. Nó cũng dẫn đến một loạt các ý kiến học thuật khó hiểu về hầu hết mọi khía cạnh của việc soạn thảo và thông điệp của sách. Thật kỳ lạ, điều này không phải do bất cứ sự không chắc chắn nào về cấu trúc hoặc thứ tự - cuốn sách này cho đến nay là cuốn sách được tổ chức rõ ràng nhất trong số các nhà tiên tri. Một điều chắc chắn là, bất kể chúng ta đã học được gì cho đến nay về con người này và cuốn sách của ông, chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu được sự phức tạp và chiều sâu của nhà tiên tri này, người đã rao giảng vào thời điểm tồi tệ nhất và quyết định nhất trong lịch sử lâu dài của Israel.

(I).Vị trí của Ê-dê-ki-en trong Qui điển. Ê-dê-ki-en đứng thứ ba trong số các tiên tri vĩ đại trong sự sắp xếp hiện tại của Cựu Ước, ngay sau Isaia và trước sách Mười hai tiên tri nhỏ. Thứ tự này được quyết định khá muộn để ba tiên tri vĩ đại được xếp theo thứ tự thời gian. Nhưng Talmud (b. B. Bat. 14b) nói về một thứ tự trước đó trong đó Isaia đứng cuối cùng: 'Giê-rê-mi-a là tất cả sự diệt vong; Ê-dê-ki-en bắt đầu bằng sự diệt vong nhưng kết thúc bằng sự an ủi; trong khi I-sai-a là tất cả sự an ủi." Sự sắp xếp ban đầu này được xây dựng dựa trên việc chuyển từ diệt vong sang hy vọng với Ê-dê-ki-en ở giữa như một ranh giới phân chia giữa hai điều này. Thật vậy, cuốn sách như hiện tại được chia thành hai nửa chính xác: các chương 1-24 chứa đựng những sấm ngôn về sự phán xét đối với Israel, và các chương 25-48 đề xuất nhiều từ ngữ nâng đỡ và hy vọng.

Sự nhìn nhận hiện đại đối với cuốn sách cũng phần lớn dựa trên sự phân biệt này giữa sự phán xét và hy vọng. Ê-dê-ki-en được coi là một nhà tiên tri chuyển tiếp, người đã phá vỡ các hình thức và cách nói cũ hơn để đưa các yếu tố mới và không phải tiên tri từ phạm vi tư tế vào bài giảng và bài viết của mình. Với một chân đứng trong thời kỳ sụp đổ của nền độc lập đối với Israel và Giu-đa, và chân còn lại đứng trong thời kỳ lưu vong ảm đạm mà không có bất cứ định chế truyền thống nào của đức tin hỗ trợ người dân, ông công khai tìm kiếm một chương trình cải cách và xây dựng lại sẽ tồn tại sau thảm họa như vậy. Do đó, cuốn sách đã phá vỡ nhiều hình thức sấm ngôn phổ biến trong các nhà tiên tri trước đó để định hình một ngôn ngữ tiên tri mới có thể kêu gọi sự tín thác lớn lao trở lại vào Thiên Chúa, hồi sinh các truyền thống cũ về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và củng cố việc thực hành đức tin thông qua việc thờ phượng và tuân thủ lề luật. Theo quan điểm về sự phát triển tiếp theo của đức tin của người Israel hướng đến việc nghiên cứu Sách Luật, tức là sự phát triển của một quy điển Kinh thánh nhấn mạnh Tô-ra như trung tâm, không có gì ngạc nhiên khi Ê-dê-ki-en thường được coi là "cha đẻ của Do Thái giáo hiện đại".

(II). Lịch sử phê bình. Cho đến năm 1900, hầu hết các nhà phê bình đều tin rằng Ê-dê-ki-en là cuốn sách thống nhất nhất trong Cựu Ước. Nó có những dấu hiệu rõ ràng về một kế hoạch và việc thực hiện tổng thể như một loạt các ngày tháng và thị kiến chuyên biệt tìm thấy từ đầu đến cuối. Nhưng thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 đã chứng kiến một số lượng lớn các câu hỏi được nêu ra bởi các học giả người Đức như A. Bertholet, R. Kraetzschmar, và Herrmann liên quan đến sự hiện diện của các câu đôi, phần bổ sung biên tập và phần chèn vào sau (để có bài đánh giá đầy đủ, hãy xem Zimmerli, Ê-dê-ki-en 1 3-9). Năm 1924, G. Holscher (Ezechiel, der Dichter und das Buch [Ezekiel, nhà thơ và cuốn sách]) đã đi xa hơn và chỉ gán cho một Ê-dê-ki-en gốc khoảng 177 câu trong tổng số 1,235 câu trong 48 chương của cuốn sách. Ông coi Ê-dê-ki-en là một nhà tiên tri xuất thần, người đã truyền đạt những sấm ngôn của mình bằng những dòng thơ, và bất cứ dòng nào có vẻ là văn xuôi đều được gán cho một biên tập viên hoặc nhà bình luận sau này. Năm 1930, C. C. Torrey (Pseudo- Ezekiel and the Original Prophecy [Ngụy thư Ê-dê-ki-en và Lời Tiên Tri Nguyên Khởi] [New Haven, 1930]) đề xuất rằng toàn bộ sách được viết vào thế kỷ thứ 3 dưới dạng hư cấu. Một năm sau, James Smith (The Book of the Prophet Ezekiel: A New Interpretation [Sách Tiên tri Ê-dê-ki-en: một giải thích mới][London, 1931]) cho rằng sách được biên soạn một thế kỷ trước thời kỳ lưu đày bởi một người Israel ở miền bắc và sau đó được biên tập tại Giu-đa bởi Ê-dê-ki-en hoặc trường phái của ông. Từ việc được coi là cuốn sách thống nhất nhất trong qui điển tiên tri, Ê-dê-ki-en đột nhiên trở thành cuốn sách ít được các học giả nhất trí nhất. Các công trình nghiên cứu học thuật từ năm 1950 dần dần quay trở lại quan điểm cho rằng sách này phần lớn được biên soạn từ lời rao giảng của Ê-dê-ki-en. Tuy nhiên, các học giả gần đây thừa nhận rằng các môn đệ làm việc trong thời kỳ lưu đày và ngay sau đó đã biên tập rộng rãi Ê-dê-ki-en. Tác phẩm có ảnh hưởng nhất trong giai đoạn này là bình luận đồ sộ gồm hai tập của W. Zimmerli hoàn thành năm 1969 (Eng., Herm; Phl, 1979, 1983). Ông lập luận cho một quá trình "phát triển" truyền thống, hoặc "cập nhật văn bản" hoặc "làm lại" trong quá trình biên tập văn học. Ông cho rằng điều này là do "trường phái tiên tri" đã áp dụng lời dạy của tiên tri vào hoàn cảnh thay đổi của cuộc lưu đày và hy vọng vào một cuộc cải cách giáo sĩ. Để xem xét kỹ lưỡng phương pháp của ông, hãy xem L. Boadt, CBQ 43 (1981) 632-35. Các công trình tiếp theo về cấu trúc văn học và phong cách của cuốn sách đã khiến M. Greenberg và các nhà bình luận khác tái khẳng định những đóng góp của chính tiên tri nhiều hơn Zimmerli sẵn sàng thừa nhận.

(III). Bối cảnh lịch sử của thừa tác vụ Ê-dê-ki-en. Thừa tác vụ tiên tri của Ê-dê-ki-en phải được hiểu trong bối cảnh hỗn loạn của những ngày cuối cùng của Giu-đa như một quốc gia độc lập. Khi Vua Giô-si-gia (Josiah) đến tuổi cai trị vào năm 628, đế chế Assyria đã suy yếu và lung lay sau cái chết của người cai trị hùng mạnh cuối cùng, Ashurbanipal. Giô-si-gia bắt đầu một cuộc cải cách lớn tôn giáo của Israel theo đường lối giao ước của Đệ Nhị Luật (2 Các Vua 22-24). Nhưng cái chết không đúng lúc của ông khi chiến đấu chống lại Ai Cập vào năm 609 đã chấm dứt mọi cải cách tiếp theo. Con trai ông là Giơ-hô-gia-kim [Jehoiakim] thường xuyên bị Giê-rê-mi-a cáo buộc là đã bác bỏ giao ước (Xem Gr 7: 26, 36).

Vào năm 605, các sự kiện chính trị đã đưa người Babylon lên nắm quyền đối với Giu-đa, và Giơ-hô-gia-kim cuối cùng đã bị cuốn vào một âm mưu đấu tranh giành độc lập sau khi Babylon dường như bị suy yếu do gần như bị Ai Cập đánh bại vào năm 601. Tuy nhiên, ông đã phán đoán sai, và vào năm 598, quân đội Babylon đã cướp phá Giêrusalem và lưu đày hàng ngàn công dân lãnh đạo của thành phố. Giơ-hô-gia-kim đã chết một cách thuận lợi, nhưng họ đã đưa vị vua mới, Giơ-hô-gia-khin [Jehoiachin], đến Babylon như một tù nhân. Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Babylon, đã bổ nhiệm Xít-ki-gia-hu [Zedekiah], anh trai của Giơ-hô-gia-kim và chú của vị vua trẻ Giơ-hô-gia-khin, làm vua nhiếp chính. Ông cũng giữ im lặng trong nhiều năm, và sau đó lên kế hoạch nổi loạn. Lần này, cuộc bao vây của Babylon kéo dài từ 589 đến 586 và xóa sổ tất cả các thành phố của Giu-đa trước khi chiếm lấy chính Giêrusalem (xem 2 Các Vua 25; Grm 37-45, 52).

(IV). Thừa tác vụ của Ê-dê-ki-en. Ê-dê-ki-en tuyên bố đã bắt đầu thừa tác vụ của mình vào năm 593 giữa những người Giu-đê-a lưu vong ở vùng đất Babylon (1:2). Lời tiên tri có ngày tháng cuối cùng của ông rơi vào năm 571 (29:17). Chúng ta không biết ông bao nhiêu tuổi khi bắt đầu rao giảng, hoặc liệu ông có sống và viết sau năm 571 hay không. Có lẽ ông nằm trong số 8,000 người bị bắt đến Babylon sau khi Giêrusalem rơi vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo vào năm 598 (2 Các Vua 24:16). Từ cả nội dung bài giảng của ông và chuỗi ngày tháng đứng đầu nhiều sấm ngôn của ông, chúng ta có thể suy đoán rằng phần lớn thừa tác vụ của ông diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 593 đến năm 586, dưới thời trị vì của Vua Xít-ki-gia-hu và thời kỳ tàn phá sau lần sụp đổ thứ hai và cũng là lần cuối cùng của thành phố vào năm 586. Giống như Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en dường như đã phản đối hầu hết suy nghĩ của Xít-ki-gia-hu và các cố vấn của ông và đã chống lại mọi nỗ lực lật đổ sự kiểm soát của Babylon. Ông đã tham gia vào một cuộc đấu tranh sâu sắc hơn chống lại tham vọng chính trị của giai cấp thống trị ở Giêrusalem, thay vào đó, ông đề xuất một khái niệm thần học mạnh mẽ về Israel như một cộng đồng trung thành với việc tuân thủ tôn giáo và sự vâng phục của mình đối với Gia-vê, bất kể có độc lập về mặt chính trị hay không.

(IV). Các vấn đề quan trọng trong văn bản. Một số câu hỏi chính nảy sinh do sự mâu thuẫn rõ ràng giữa các tuyên bố lịch sử về thừa tác vụ của nhà tiên tri và bản chất của các sấm ngôn thực tế dưới dạng đã biên tập của chúng. Làm sao ông có thể biết rõ ràng và sâu sắc tình hình ở Giêrusalem nếu thực tế ông là người lưu vong ở Babylon? Làm sao các ngày tháng trong sách chính xác được? Liệu một thị nhân di chuyển từ nơi này đến nơi khác và các hành động tượng trưng kỳ lạ được báo cáo trong các chương 4, 12 và 24 có gợi ý về một người mất cân bằng về mặt tinh thần hay một người cực kỳ xuất thần? Phong cách văn bản có vẻ dài dòng và lặp đi lặp lại có đóng vai trò làm tiêu chuẩn để nhận diện bàn tay của những người chú giải và biên tập đã thêm vào các sấm ngôn độc đáo không? Sự khác biệt giữa văn xuôi và thơ có giúp xác định cốt lõi ban đầu của chính những lời của Ê-dê-ki-en không? Sắc màu tư tế mạnh mẽ trong thông điệp tiên tri của ông có loại trừ Ê-dê-ki-en khỏi lời tiên tri truyền thống không? Các câu đôi trong lời kêu gọi của Ê-dê-ki-en trong các chương 3 và 33 hoặc trong lời nói của ông về trách nhiệm cá nhân trong các chương 14, 18 và 33 có phản ảnh hai bình diện, một từ nhà tiên tri và một từ người biên tập không? Tại sao không nhắc đến Giê-rê-mi-a? Những câu hỏi này đã được các học giả tranh luận rộng rãi trong thế kỷ 20, và vẫn còn nhiều bất đồng về nhiều vấn đề. Một số hướng đi đương thời có thể được thảo luận như những diễn biến tích cực trong các phần sau.

(VI). Thời gian và bối cảnh. 15 ngày được phân bổ trong toàn bộ cuốn sách theo thứ tự thời gian tổng quát:

Ezek Năm tháng ngày niên đại
1:1 30 4 5 Tháng bẩy 593 (hay 568)
1:2 5 5 Tháng sáu-bẩy 593
3:16 5 12 Tháng sáu-bẩy 593
8:1 6 6 5 Tháng tám-chín 592
20:1 7 5 10 Tháng bẩy-tám 591
24:1 9 10 10 Tháng giêng 588
26:1 11 1 Tháng ba 587-ba 586
29:1 10 10 12 Tháng giêng 587
29:17 27 1 1 Tháng Ba-tư 571
30:20 11 1 7 Tháng Ba-tư 587
31:1 11 3 1 Tháng năm-sáu 587
32:1 12 12 1 Tháng hai-ba 585
32:17 12 12 15 Tháng hai-ba 585
33:21 12 10 5 Tháng mười hai-586-giêng 585
40:1 25 1 10 Tháng ba-tư 573
 


Chỉ có những ngày tháng được in nghiêng là không theo thứ tự, tất cả đều do phù hợp với tài liệu đặc biệt gần nhất với vị trí chủ đề thích hợp của nó. Nhưng các sấm ngôn có niên đại và nội dung cụ thể của chúng cũng có thể gắn chặt với các sự kiện lịch sử đã biết của thời kỳ đó, nhờ vào nhiều phát hiện các ghi chép từ các địa điểm Babylon và Ai Cập, bao gồm cả biên niên sử về triều đại của Na-bu-cô-đô-nô-xo! Do đó, không còn nghi ngờ gì nữa rằng nội dung của những sấm ngôn cụ thể này xuất phát từ chính nhà tiên tri.

Hơn nữa, hiện nay ít nhà bình luận lo lắng về việc làm thế nào Ê-dê-ki-en có thể biết được những gì đang xảy ra ở Giêrusalem khi ông ở Babylon. Gr 29 cho thấy rõ ràng rằng sự giao tiếp đã diễn ra giữa quê hương và những người lưu vong ở Babylon, và những mô tả thị kiến của nhà tiên tri có thể dễ dàng được giải thích bằng kiến thức trực tiếp trước đó của ông về địa lý của Giêrusalem và Đền thờ kết hợp với các báo cáo của các sứ giả đến giữa những người lưu vong. (Freedy, K. và D. B. Redford, " The Dates in Ezekiel in Relation to Biblical, Babylonian and Egyptian Sources [Các ngày tháng trong Ê-dê-ki-en liên quan đến các nguồn Kinh thánh, Babylon và Ai Cập]", JAOS 90 (1970) 462-85. Malamat, A., "The Twilight of Judah: In the Egyptian-Babylonian Maelstrom [Hoàng hôn của Giu-đa: Trong cơn hỗn loạn Ai Cập-Babylon]", Tập san Quốc hội: Edinburgh, 1974 (VTSup 28; Leiden: Brill, 1975) 123-45. Wiseman, D.J., Chronicles of Chaldean Kings [Biên niên sử các vị vua Can-đê] (626-556 TCN) tại Bảo tàng Anh [London, 1956].)

(VII).Tính cách và phong cách của Nhà tiên tri. Sự quan tâm trước đó về một nhân cách bất thường được cho là ẩn sau những thị kiến và hành động tượng trưng đã phần lớn chết yểu do kết quả của cái nhìn thông sáng tiên phong của W. Zimmerli khi ông cho rằng hầu như tất cả những sự bất thường được gợi ý, ngược lại, là sự bắt chước hoặc hồi sinh có chủ ý các hình thức nguyên thủy được các nhà tiên tri tiền cổ điển sử dụng. Do đó, việc sử dụng "bàn tay của Chúa" hoặc "Thánh Thần của Chúa" đã chiếm lấy nhà tiên tri là đặc trưng của các chu kỳ Ê-li-a/Ê-li-sa. Điều tương tự cũng đúng với sự tự kịch tính hóa tiên tri [prophetic autodramatization], trong đó chính nhà tiên tri diễn xuất lời tiên tri. Tương tự như vậy, nhiều cụm từ và hành động của Ê-dê-ki-en không phải độc đáo, mà bắt chước phong cách và cách diễn đạt của lĩnh vực tư tế. Khía cạnh nổi bật nhất của cuốn sách là việc sử dụng nhất quán "Tôi"; chính Gia-vê nói thông suốt. Khi chọn biện pháp này, nhà tiên tri nhấn mạnh sức mạnh của lời Thiên Chúa áp đảo ông (xem W. Zimmerli, VT 15 [1965] 515-27).

Tuy nhiên, cuốn sách này được đánh dấu bằng một số công thức và cách diễn đạt độc đáo trong số các văn bản tiên tri: "con người", "để ngươi biết rằng Ta là Gia-vê", "hãy hướng mặt về phía trước", "Ta là Chúa đã phán". Những cách diễn đạt này và những cách diễn đạt khác kết hợp với các ngôi thứ nhất [Ist-pers], hình thức tường thuật để tạo nên phong cách thống nhất cho toàn bộ. Như đã lưu ý, các sấm ngôn có vẻ dài dòng và lặp lại hơn nhiều so với các sách tiên tri trước đó. Chúng cũng sử dụng nhiều ẩn dụ và hình ảnh để giới thiệu sấm ngôn, một cách sử dụng hiếm khi thấy ở nơi khác (xem L. Boadt, Ezekiel's Oracles against Egypt [Các Sấm ngôn của Ê-dê-ki-en chống Ai Cập] [Rome, 1980) 169-80). M. Greenberg (Ezekiel 1-20) đã chỉ ra một số kỹ thuật khác của cuốn sách này: sử dụng các nhóm thảo luận [panels], trong đó các phần được xây dựng song song với nhau; kỹ thuật xoắn ốc [spiraling], trong đó sấm ngôn chuyển sang bình diện cao hơn hoặc mạnh hơn; và "chia đôi" [halving], trong đó sấm ngôn vang vọng theo sau sấm ngôn chính như một làn sóng đàng sau. Tất cả những quan sát này đã củng cố lập luận cho rằng cuốn sách duy trì một phong cách có thể xác định được nhiều khả năng là do nhân cách và ý định của chính nhà tiên tri hơn là do một nhóm biên tập viên. Những đóng góp của họ, mặc dù hiện diện và quan trọng, nhưng không chi phối bản văn.

Lời tiên tri của Ê-dê-ki-en cho thấy những dấu hiệu rõ ràng về hình thức truyền miệng ban đầu của nó, không chỉ trong việc sử dụng các cử chỉ kịch tính và nhấn mạnh vào cả việc nói lẫn lời nói, mà còn trong các tài liệu tham khảo cụ thể trong các sấm ngôn về những khoảnh khắc khủng hoảng riêng lẻ phát sinh trong cuộc bao vây Giêrusalem kéo dài từ năm 589-586. Đến lượt mình, điều này đã được tái biến theo nghĩa đen thành các sấm ngôn lớn hơn và phức tạp hơn, khác với các sấm ngôn của các nhà tiên tri viết trước đó ở "sự quá phạm lối baroque" và dẫn nhập các mối quan tâm về pháp lý và tư tế (C. Westermann, Basic Forms of Prophetic Speech [các hình thức căn bản của diễn ngôn tiên tri] [Phi, 196 7) 205-8). Phần lớn điều này phải là tác phẩm của chính Ê-dê-ki-en vì rất khó để phân biệt mục đích hoặc thần học của những người biên tập khác với mục đích hoặc thần học của các sấm ngôn cốt lõi hoặc của các phần văn xuôi so với các phần là thơ rõ ràng.

(VIII).Ê-dê-ki-en và các truyền thống khác. Ê-dê-ki-en cho thấy mối quan hệ mật thiết với Giê-rê-mi-a, đặc biệt là trong các đoạn văn xuôi tiểu sử và tự truyện xuất hiện trong Giê-rê-mi-a 21-45, trong đó nhiều cụm từ và cách diễn đạt được lặp lại trong Ê-dê-ki-en. Nhưng ngay cả trong Giê-rê-mi-a 1-20, các chủ đề như Giu-đa và Israel là chị em (3:6-11), nhà tiên tri được kêu gọi đứng cùng dân sự như một bức tường thành kiên cố (1:18), mối quan tâm đến một tinh thần tiên tri giả dối và dối trá (14:14), và lệnh truyền không được than khóc trước mặt dân sự (16:5), được phát triển chi tiết hơn trong Ê-dê-ki-en 3:8; 12:24; 16:1-43; và 24:16. Trên hết, hai nhà tiên tri chia sẻ một thái độ chung về trách nhiệm đối với tội lỗi của cá nhân (Giê-rê-mi-a 31:29-30 và Ê-dê-ki-en 18:2 trích dẫn cùng một câu tục ngữ) và về ý muốn nhân từ của Chúa để khôi phục giao ước theo một cách mới (Giê-rê-mi-a 31:31-34; Ê-dê-ki-en 36:26).

Ê-dê-ki-en có lẽ đã quen thuộc với những lời tiên tri của Giê-rê-mi-a, thậm chí có thể ở dạng văn bản (W. Miller, Das Verhdltnis Jeremias und Hesekiel [Mối quan hệ giữa Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en] [Assen, 1955]).

Tuy nhiên, đáng chú ý hơn là nhiều điểm tương đồng của Ê-dê-ki-en với Bộ luật Thánh thiện trong Lê-vi 17-26. Các học giả thường xác định niên đại của nó vào giai đoạn cuối tiền lưu đày (4:35-54), vì ngôn ngữ của nó rất giống với ngôn ngữ của Ê-dê-ki-en. Nhiều luật lệ được Ê-dê-ki-en trích dẫn xuất hiện trong bộ luật, và các tài liệu tham khảo về các mối đe dọa và phước lành được nêu trong Lv 26 xuất hiện rất nhiều trong Ê-dê-ki-en. Có thể tìm thấy những so sánh sâu rộng giữa Ê-dê-ki-en và bộ luật trong H. Reventlow, Wachter uber Israel [Hãy canh chừng Israel] (BZA W 82; Berlin, 1962) và trong Zimmerli, Ezekiel 1 46-52. Điều đáng lưu ý là các luật lệ và đòi hỏi tôn giáo của Ê-dê-ki-en, mặc dù gần với Lv, nhưng không liên quan chặt chẽ đến phần còn lại của nguồn tư tế (P) trong Ngũ kinh. Ví dụ, Ê-dê-ki-en không bao giờ liên kết chức tư tế với nhà Aaron như nguồn P đã làm. Chắc chắn Ê-dê-ki-en và Lêvi phản ảnh mối quan tâm chung đối với các yêu cầu giao ước, và cả hai đều sử dụng ngôn ngữ thờ phượng mạnh mẽ để diễn đạt những yêu cầu đó. Một số nhà phê bình thậm chí còn cho rằng Lv 17-26 gắn liền với lễ hội đổi mới giao ước vào mùa thu. Cả hai đều đại diện cho một giai đoạn sớm hơn so với thần học sáng tạo toàn diện của nguồn P, phát triển do sự sụp đổ của các định chế tôn giáo của Israel trong thời kỳ lưu đày.

Ít cần phải nói hơn về điều gọi là ngôn ngữ khải huyền trong Ê-dê-ki-en 38-39. Nó thường được coi là một phần bổ sung sau này, nhưng bức tranh về một trận chiến vũ trụ vĩ đại của nó dựa nhiều hơn vào những huyền thoại cũ hơn về một cuộc chiến giành trật tự trong quá trình sáng tạo do chiến binh thần thánh chiến đấu (16:16) hơn là hy vọng sau này về một thời đại cứu thế.

(IX).Truyền thống sau này về Ê-dê-ki-en. Với rất ít bằng chứng lịch sử hỗ trợ, truyền thuyết đã đặt ngôi mộ của nhà tiên tri Ê-dê-ki-en gần thị trấn Hilla ở miền trung Iraq. Đáng lưu ý hơn nhiều là cách mà sự suy nghĩ sau này bắt đầu lo lắng về thông điệp của Ê-dê-ki-en. Lo lắng đầu tiên là về mô tả huyền nhiệm sự xuất hiện của thần linh trong chương 1. Một số lượng lớn các suy đoán rất đáng ngờ đã phát triển, ngay cả trong số các giáo sĩ Do Thái đầu tiên, vì vậy toàn bộ trường phái "Merkabah" ("Xe ngựa") đã tồn tại trong Do Thái giáo qua nhiều thời đại. Chương 1 đã bị cấm cả việc đọc sách tiên tri trong giáo đường Do Thái (s. Meg. 4:10) và việc nghiên cứu sách của các trường học (s. Hag. 2: 1). Chỉ sau này, nó mới được phép, trái với ý kiến của các giáo sĩ Do Thái Talmud, như là bài đọc tiên tri cho ngày đầu tiên của Lễ Ngũ tuần.

Cùng một đoạn trong Meg. 4:10 ghi lại một sự dè dặt thứ hai về cuốn sách - nó quá chỉ trích Israel. Rabbi Eliezer đã cấm đọc chương 16 và những điều ghê tởm của nó vì nó có thể cung cấp đạn dược cho các tuyên bố của các Ki-tô hữu (so sánh 92b). Các giáo sĩ Do Thái thời kỳ đầu cũng gặp khó khăn nghiêm trọng trong sự kiện này là nhiều quy định của Đền thờ trong Ê-dê-ki-en 40-48 mâu thuẫn với những quy định của Ngũ Kinh. Những nỗ lực để hòa giải hai điều này đã dẫn đến quyết định để lại cho Ê-li-a trong tương lai (Menah. 45a) hoặc thậm chí thừa nhận những mâu thuẫn (Mak. 24a).

(X).Thần học của Sách. Ê-dê-ki-en chia sẻ với các tác phẩm tiên tri trước đó niềm tin rằng Thiên Chúa trừng phạt sự bất tuân và sự bất trung với Giao Ước bằng thảm họa chính trị (Is 10; Gr 4-6; Ed17); tương tự như vậy, ông xử lý các hành vi vi phạm giao ước bằng ngôn ngữ ngoại tình và mại dâm (Hs 2; Gr 2; Ed16; 23). Ông chắc chắn đồng ý với Gr rằng Thiên Chúa muốn có lòng trung thành nội tâm với giao ước dưới sự cai trị của Babylon thay vì một cuộc chiến giành độc lập chỉ dựa trên lòng kiêu hãnh của con người và động cơ chính trị; Babylon là công cụ sửa trị của Thiên Chúa (Gr 29; Ed 4; 21). Điều khiến Ê-dê-ki-en khác biệt so với các sách tiên tri khác là cách độc đáo nhà tiên tri phát triển một số chủ đề truyền thống về (a) quyền tối cao của Gia-vê đối với mọi quốc gia và biến cố, (b) sự thánh thiện (siêu việt) của Người, (c) sự nhấn mạnh về cả tính toàn vẹn về mặt đạo đức và tôn giáo, (d) trách nhiệm của mỗi thế hệ đối với hành động của chính mình, và cuối cùng (e) niềm tin rằng Thiên Chúa có ý định khôi phục Israel do việc ban ân sủng hoàn toàn nhưng không.

(a) Quyền Chúa Thượng Của Thiên Chúa. Học thuyết của Ê-dê-ki-en về Thiên Chúa được thấy rõ nhất trong công thức kết thúc hầu hết mọi sấm ngôn: "để họ (hoặc, 'các ngươi') biết rằng Ta là Gia-vê." Thiên Chúa hành động trong các biến cố để biểu lộ rằng chỉ mình Người có quyền trừng phạt và phục hồi. Hoạt động thần linh cho thấy rằng Gia-vê thực sự nghiêm túc trừng phạt tội lỗi trong khi đồng thời không bao giờ quên lời hứa lâu dài của Người về sự chăm sóc và tình yêu giao ước đối với Israel. Ê-dê-ki-en hiếm khi nhấn mạnh khía cạnh dịu dàng của Thiên Chúa (mặc dù nó hiện diện trong 16:1-14; 34:1-31) khi một sấm ngôn có thể nhấn mạnh quyền năng của Thiên Chúa để đạt được mục đích của Người. Trên hết, mối tương quan thần linh được thấy trong khả năng ban sự sống của Gia-vê khi dường như chỉ còn cái chết (37:1-14; 47:1-12).

(b) Sự Thánh Thiện của Thiên Chúa. Ê-dê-ki-en nhấn mạnh khoảng cách giữa hy vọng và hành động của con người chúng ta và ý muốn thần linh. Ví dụ, nhà tiên tri thường được gọi là "con người", để nhấn mạnh đến sự hữu hạn của ông ngay cả khi là người phát ngôn của Thiên Chúa. Tương tự như vậy, trong thị kiến lớn về cỗ xe trên trời, ông chỉ thấy "họa ảnh" của "sự xuất hiện" của Thiên Chúa (1:26). Cuối cùng, ông không sử dụng "Đấng Thánh" của Isaia nhưng thay vào đó ông nói về sự thánh thiện của "Danh" Thiên Chúa (20:39; 36:20; 43:7; v.v.). Bởi vì Israel mang danh Thiên Chúa, nên họ không được làm ô danh đó bằng sự bất tuân của họ, biến Thiên Chúa thành nạn nhân của ý thích nhất thời của con người (20:30).

(c) Những Đòi Hỏi Đạo Đức Và Tôn Giáo. Ê-dê-ki-en tiếp tục truyền thống phản đối kịch liệt chống lại sự tha hóa của Israel trong cả sự bất công và trong sự thờ phượng sai lầm (các chương 5-6; 17-18; 20; 22). Nhưng phần lớn các tội lỗi cụ thể được nêu ra đều mang tính phụng tự, bao gồm việc làm ô uế ngày sa-bát (20:12,24), thờ phượng trên các nơi cao (6:13; 20:28) và làm ô uế nơi thánh (23:37-38). Ê-dê-ki-en hiểu rõ rằng gốc rễ của việc Israel quay lưng lại với Gia-vê là mất đi "sự hiểu biết" về Thiên Chúa và các luật lệ giao ước của Người. Chương 20, với lịch sử đáng chú ý về sự ngoan cố của Israel ngay từ thời kỳ xuất hành, đã nêu rõ một điểm sắc bén - không có lúc nào Israel hết lòng vâng theo Giavê - họ luôn luôn phản nghịch! Thiên Chúa đã ban các luật lệ và quy định của Người để giúp họ có thể phục vụ Người một cách trung thành, nhưng như vậy vẫn chưa đủ (20:40).

(d) Trách Nhiệm Của Cá Nhân. Gr 31:29 và Ed 18:2 đều trích dẫn cùng một câu tục ngữ về những người cha ăn nho chua và những đứa con phải chịu hậu quả. Chương 18 sau đó phát triển bài học bằng cách theo dõi các trường hợp của một người cha, một người con trai và một người cháu trai. Nó duy trì quan điểm chuyên biệt này là: mỗi thế hệ sẽ phải chịu trách nhiệm cho các quyết định của riêng mình. Bây giờ là lúc hành động để vượt qua cái ác của cả quá khứ và hiện tại và để đứng trước Thiên Chúa trong sự phán xét và hy vọng cho một tương lai mới. Các đoạn văn theo chủ đề về tiên tri như lính canh trong các chương 3 và 33 xây dựng trên sự hiểu biết sâu sắc này. Tại sao Ê-dê-ki-en phải rao giảng nếu không ai chịu lắng nghe? Câu trả lời nằm ở trách nhiệm kép liên quan đến cảnh báo. Nhà tiên tri phải trung thành với nhiệm vụ của mình là thể hiện công lý và lòng thương xót của Thiên Chúa trong hành động cho dù có ai nghe hay không. Mọi người có thể chấp nhận hoặc từ chối lời cảnh báo và lời giải thích của nhà tiên tri, nhưng họ phải chịu gánh nặng. Chúa sẽ mang đến sự trừng phạt và cứu rỗi bất kể phản ứng của mọi người là gì, nhưng lời của nhà tiên tri đóng vai trò là dấu hiệu hiện tại cho tất cả những gì thực sự đang xảy ra và là bài học cho tất cả các thế hệ tương lai.

(e) Tội Lỗi Và Ân Sủng. Ê-dê-ki-en rõ ràng coi tội lỗi là nghiêm trọng. Ông không chỉ tìm thấy tinh thần phản nghịch ăn sâu vào trong lòng con người, mà ông còn có kỳ vọng cao về hành vi của con người trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ông cũng công bố khả thể ăn năn (xem 16:54-63; 33:10-16). Tuy nhiên, Thiên Chúa không hành động như là kết quả của sự ăn năn của con người, mà xuất phát từ sự thánh thiện trước đó và tình yêu giao ước của chính Người (16:53,60-61; 20:40-44; 34: 11; 37:1-14). Chương 36 đặc biệt nhấn mạnh lời hứa thần linh này: Thiên Chúa sẽ phục hồi Israel vì cơn thịnh nộ ghen tuông của Người chống lại sự chế giễu của các quốc gia khác chế giễu số phận thấp hèn của dân Người (36:6); và Người sẽ hành động vì danh Người để biện minh cho sự thánh thiện của Người (36:22-23). Sau đó, Người sẽ ban cho Israel một tấm lòng mới và một tinh thần mới để họ có thể vâng lời và trung thành (36:26-28; xem 11: 17-20). Sự ăn năn theo sau sáng kiến cứu rỗi của Thiên Chúa bởi vì Israel sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang hành động vì họ, và kết quả là họ sẽ xấu hổ về hành vi của mình (16:54; 36:32).

(XI).Văn bản của Sách. Nói chung, MT không có số lượng lớn các bài đọc khó nếu chúng ta loại trừ điều gọi là sự thừa thãi vốn là một vấn đề về phong cách hơn là vấn đề về từ ngữ hoặc ngữ pháp khó hiểu. Các học giả thường nhờ đến Bản Bẩy Mươi để được giúp đỡ. Tuy nhiên, Bản Bẩy Mươi khá không nhất quán, với những cách xử lý các cụm từ và cách diễn đạt phổ biến khác nhau trong các phần khác nhau; đôi khi gần với MT và đôi khi khá tự do. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng văn bản Hy Lạp không đồng nhất chút nào (L. McGregor, The Greek Text of Ezekiel [Bản Hy Lạp sách Ezekiel] Atlanta, 1985]). Bản Bẩy Mươi gần như chắc chắn đã bỏ qua những dòng mà nó cho là thừa hoặc không hiểu vì mục đích cô đọng và rõ ràng. Văn bản dài dòng hơn của MT cũng nhất quán hơn về mặt phong cách trong toàn bộ cuốn sách và do đó có nhiều khả năng gần với bản gốc hơn.