Đọc Joseph Ratzinger, Nhà thần học của tính liên tục: Các Nền Tảng Kinh Thánh của Chức Linh Mục





Tiếp theo Công Đồng Vatican II, hình ảnh Công Giáo về chức linh mục, vốn được Công Đồng Trent xác định và được dành cho một sinh lực tươi mới do việc lưu ý canh tân tới chứng tá Kinh thánh tại Công Đồng Vatican II, đã rơi vào một tình huống khủng hoảng. Con số lớn lao những người quay lưng với chức linh mục và con số suy giảm lớn lao các ơn gọi làm linh mục trong nhiều quốc gia chắc chắn không thể được giải thích duy bằng những cơ sở thần học. Tuy nhiên, các nguyên nhân có nguồn gốc bên ngoài Giáo Hội cũng không có một tác động lớn lao như thế trừ khi các nền tảng thần học của thừa tác vụ linh mục đã đạt tới điểm nguy kịch đối với nhiều linh mục và người trẻ. Trong tình huống văn hóa mới phát triển sau Công Đồng, các lập luận cũ của Phong trào Cải Cách của thế kỷ 16, cùng với các lập luận mới của ngành chú giải Kinh thánh hiện đại, vẫn được nuôi dưỡng bởi các giả định Cải Cách, đã thu thập được một tính thuyết phục nào đó; nền thần học Công Giáo đã không có khả năng phản công các giả định bằng những đáp ứng thỏa đáng.

Các lập luận đó là những lập luận nào? Trứơc hết (khi đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này bằng cách trình bầy các lập luận – chất liệu trong ngoặc đơn được thêm vào, Chủ biên), nên chú ý tới từ vựng được sử dụng. Trong thời kỳ tiên khởi, Giáo Hội mô tả các thừa tác vụ của mình bằng một ngôn từ phàm tục chứ không thánh thiêng. Không có sự liên tục hiển thị nào của các thừa tác vụ này với chức tư tế của Luật Môsê.

Trong một thời gian dài, các thừa tác vụ này ít được định nghĩa và có đặc điểm hết sức đa dạng trong tên gọi và hình thức. Chỉ tới cuối thế kỷ thứ nhất, chúng mới tìm được các hình thức và nội dung tương đối rõ ràng, mặc dù diễn trình hình thành chúng vẫn chưa kết thúc. Tuy nhiên, điều này rất quan trọng: không ở đâu có dấu chỉ minh nhiên về việc phục vụ phụng tự của các thừa tác vụ này. Chúng không bao giờ được nối kết minh nhiên với việc cử hành Thánh Thể. Giảng giải Tin Mừng nổi bật như nhiệm vụ chính cùng với các chức vụ đa dạng khác trong tương quan với đời sống của cộng đồng Kitô giáo.

Từ đó, một lý thuyết đã phát sinh đại cương cho rằng các thừa tác vụ của Giáo Hội mới phát sinh, vào lúc đó, chỉ được xem xét theo chức năng chứ không có đặc tính thánh thiêng. Với chủ trương này, một lý thuyết cũng đã tự phát xuất hiện cho rằng đức tin Kitô giáo nhằm làm cho thế giới thành phàm tục và hoàn toàn loại bỏ tất cả những điều thánh thiêng. Không hẳn bất thường xuyên là việc, qua nền tảng Kinh Thánh, người ta còn tìm thấy đề xuất dựa vào Thư Híp-ri, trong đó Chúa Giêsu được cho là đã chịu đau khổ ở bên ngoài cổng thành và mời gọi chúng ta cũng ra khỏi cổng thành với Người (Hr 13:13tt). Ngược hẳn với ý nghĩa của những lời này, vốn nói lên nền thần học sâu sắc của Thập Giá, nay người ta bảo: vào lúc Chúa Giêsu chết, màn trong đền thờ đã bị xé toạc. Không còn sự phân cách giữa đền thờ và thế gian, giữa thánh thiêng và phàm tục. Cái chết của Chúa Kitô giữa thế gian cho chúng ta thấy rằng tình yêu thực thi giữa lòng cuộc đời là phụng vụ duy nhất hiện hữu trong kỷ nguyên Tân Ước.

Đến một mức nào đó, các ý kiến trên giả định các phán quyết giải thích được đưa ra thời Phong trào Cải Cách Thệ Phản và mang lại cho nó một sức mạnh mới. Chìa khóa nền tảng cho một cách đọc Kinh Thánh mới được coi là hết sức sinh động vào thời gian này; nó bao gồm việc đối nghịch giữa lề luật và Tin Mừng và được coi là phát sinh từ nền thần học của Thánh Phaolô. Lề luật, vốn đã bị loại bỏ, được đặt ở thế mâu thuẫn với Tin Mừng. Phạm trù lề luật bao gồm chức linh mục và việc phụng tự (hy lễ). Tin Mừng được cho là tìm được biểu thức nơi các nhân vật tiên tri và trong việc giảng giải lời.

Vì lý do đó, các phạm trù lề luật, chức linh mục, hy lễ, và phụng tự có âm sắc tiêu cực, vì chúng dẫn con người tới chữ viết vốn giết chết và tới việc làm vốn không thể công chính hóa. Yếu tính của Tin Mừng, ngược lại, hệ ở việc nghe lời và đức tin, là điều duy nhất công chính hóa con người. Do đó, chính các nhân vật tiên tri và việc giảng giải mới tương thích với Tin Mừng, trong khi chức linh mục chỉ thuộc về lề luật và cần bị loại bỏ hoàn toàn khỏi Giáo Hội của tân Ước.

Lối nhìn sự việc như thế ảnh hưởng sâu xa tới nẻo đường của ngành chú giải hiện đại và rất phổ biến. Từ đó, các xem xét về từ vựng như đã nhắc trên đây đã nhận được sức mạnh của chúng. Thần học Công Giáo, vốn chấp nhận khoa giải thích hiện đại sau Công Đồng mà không mấy tranh luận và không ý thức lối chú giải của khoa giải thích ấy, đã không có khả năng trả lời các câu hỏi do nguồn này nêu lên. Do đó, cuộc khủng hoảng đã nẩy sinh mà chúng ta đã nhắc đến ở phần đầu.

Trong khi ấy, công việc của các nhà thần học đã bắt đầu có được một tầm nhìn quân bình hơn về các câu hỏi này. Người ta không nên quên rằng ngay trong thế kỷ 16, sau chống đối ban đầu, đã có những bắt đầu quân bình mới. Đối với người Thệ Phản, việc phong chức vào các thừa tác vụ giảng giải, sau một thời gian ngắn, đã tiến đến chỗ được hiểu như có một sự tương tự như một bí tích. Tương tự như thế, việc nối kết thừa tác vụ giảng giải với thừa tác vụ cử hành Thánh Thể đã một lần nữa xuất hiện trở lại. Mặc dù hạn từ chức linh mục được tránh né trong truyền thống các tuyên tín phát xuất từ phong trào Cải Cách, theo nhiều cách dựa trên Tân Ước, thừa tác vụ lời Chúa đã được phục hồi như một bí tích.

Cuộc đối thoại đại kết cũng mở đường cho khả thể xác định tốt hơn chìa khóa giải thích cho lối hiểu sách thánh chính xác hơn. Nó cũng vạch đường để nhờ đó các nền tảng của giáo huấn Công Giáo liên quan tới chức linh mục có thể được trình bầy một cách mới mẻ. Theo chiều hướng này, tôi muốn vắn tắt chứng tỏ việc giáo huấn này được suy nghĩ ra sao bởi chứng từ của Kinh Thánh.

1.Nền tảng Tân Ước của thừa tác vụ: hoạt động tông đồ hiểu như tham dự vào sứ mệnh của Chúa Kitô

Điều cần là nhận ra sự mới mẻ của Tân Ước, là hiểu Tin Mừng như Tin Mừng và học hỏi để nhìn một cách chính xác cả tính thống nhất của lịch sử cứu rỗi, vốn diễn tiến trong giao ước cũ và mới. Sau khi trở thành trung tâm hữu hình, thống nhất hóa hành động của Thiên Chúa với chúng ta, sứ điệp và công trình của Chúa Kitô trong tính mới mẻ của chúng mang những gì đi trước chúng tới chỗ hoàn thành. Nếu chúng ta tìm kiếm sự mới mẻ đích thực của Tân Ước, thì đó chính là Chúa Kitô.

Sự mới mẻ đó không hệ nhiều ở các ý niệm hay ý tưởng; sự mới mẻ này là một ngôi vị: Thiên Chúa, Đấng trở nên hữu thể nhân bản và lôi cuốn con người tới Người. Câu hỏi chức linh mục của Tân Ước là gì phải bắt đầu với Kitô học. Thời đại tự xưng là cấp tiến quen với lối giải thích hình ảnh Chúa Kitô vượt ra ngoài các giả định riêng của nó. Theo lối giải thích của nó, Chúa Giêsu đặt triết lý hành động thuần túy chống lại loại tôn giáo bị nghi lễ làm cho méo mó; chống thứ tôn giáo cộng đoàn và tập thể, ngài chủ trương tự do và trách nhiệm của nhân vị cá thể. Được mô tả như bậc thầy đạo đức vĩ đại, Người giải thoát hữu thể nhân bản khỏi xích xiềng phụng tự và nghi lễ và đặt con người này duy nhất vào lương tâm của họ mà không có bất cứ trung gian nào khác trước mặt Thiên Chúa.

Ở hậu bán thế kỷ của chúng ta, những ý kiến như trên được nhiều người khác phát xuất từ Karl Marx tham gia. Chúa Kitô nay được mô tả như một người phản loạn tự đặt mình chống lại sức mạnh nô dịch của các định chế và chết trong cuộc đấu tranh – đặc biệt chống lại cao ngạo của các linh mục. Người phải được gặp gỡ cách này như đấng giải phóng người nghèo khỏi cảnh áp bức của kẻ giầu, một đấng nhất quyết thiết lập một “vương quốc”; nghĩa là, một xã hội mới của những hữu thể nhân bản tự do và bình đẳng.

Hình ảnh Chúa Kitô mà người ta gặp gỡ trong Kinh Thánh quả tình rất khác! Điều rõ ràng là trong bối cảnh này, chỉ những yếu tố nào trực tiếp liên hệ với vấn đề của chúng ta mới được bàn tới. Nét yếu tính trong hình ảnh Chúa Kitô được trước tác Tân Ước truyền đạt hệ ở mối liên hệ độc đáo của Người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu biết Người có một sứ mệnh do Thiên Chúa điều hướng, thẩm quyền Thiên Chúa hoạt động trong Người (xem Mt 7:29; 21:23; Mc 1:27; 11:28; Lc 20:2; 24:19; v.v...)Người mang một sứ điệp từ Chúa Cha; Người được “sai”đến với một nhiệm vụ được Chúa Cha ủy nhiệm cho Người.

Tác giả Tin Mừng Gioan minh họa rất rõ chủ đề “sứ mệnh” phát xuất từ Chúa Cha của Chúa Con này. Nhưng nó cũng hiện diện trong các Tin Mừng gọi là nhất lãm. Khía cạnh “nghịch lý” của sứ mệnh này phát xuất từ sự rõ ràng đáng ngạc nhiên trong công thức của Thánh Gioan, một công thức được thánh Augustinô giải thích cách sâu sắc: Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi (7:16). Nếu Chúa Cha bị gạt ra ngoài, Chúa Giêsu sẽ chẳng còn điều gì là của riêng Người nữa. Đạo lý của Người không phải của Người vì cả Người nữa cũng không phải của Người. Đúng hơn, trong toàn bộ hiện hữu của Người như Chúa Con, Người từ Chúa Cha và thuộc về Chúa Cha. Nhưng do cùng lý do, vì Người không có gì là của Người cả, nên mọi sự thuộc Chúa Cha đều là của Người: “Chúa Cha và Ta là một” (10:30). Trả trọn hiện hữu và hành động của Người lại cho Chúa Cha, Người không còn tìm ý chí riêng của Người (3:30). Điều này làm cho Người đáng tin do sự kiện này là lời Chúa Cha tự biểu lộ rõ ràng nơi Người. Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, vốn cũng là gương mẫu cho hiện hữu của chúng ta, sáng láng trong sự rực rỡ của nó.

Chỉ từ tâm điểm Kitô học này, thừa tác vụ của các tông đồ, mà chức linh mục của Giáo Hội Chúa Kitô bắt nguồn từ đó, mới có thể hiểu được. Ngay từ đầu đường lối của Người, Chúa Giêsu đã tạo nên khuôn dạng mới gồm 12 người đàn ông (virorum) được tuyển chọn, khuôn dạng mà sau Phục sinh, vẫn tiếp tục trong thừa tác vụ của những người nay là tông đồ; nghĩa là những người “được sai đi”. Đối với vấn đề của chúng ta, điều quan trọng cần nhắc nhớ là Chúa Giêsu ban quyền lực của Người cho các tông đồ theo cách Người thiết lập thừa tác vụ của họ như một tiếp diễn chính thừa tác vụ của Người. “Bất cứ ai tiếp nhận các con là tiếp nhận thầy”, Người phán như thế với Nhóm Mười Hai (Mt 10:40; xem Lc 10:16; Ga 13:10). Nhiều bản văn khác trong đó Chúa Giêsu ban quyền lực của Người cho các môn đệ có thể trưng dẫn ở đây: Mt 9:8; 10:1; 21:23; Mc 6:7; 13:34; Lc 4:6; 9:1; 10:19). Việc tiếp diễn thừa tác vụ của Chúa Giêsu và các môn đệ một lần nữa được làm cho rất rõ ràng trong Tin Mừng thứ tư: “Như Cha Thầy đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (20:21; xem 13:20; 17:18).

Tính nghiêm túc của quả quyết này được thấy rõ nếu chúng ta nhắc lại điều đã nói ở trên về cơ cấu sứ mệnh của Chúa Giêsu. Như đã lưu ý, chính Chúa Giêsu đã được sai đi trong tính toàn diện của ngôi vị Người; hơn nữa, Người còn là sứ mệnh lẫn mối tương quan từ và với Chúa Cha. Dưới ánh sáng này, ta thấy ý nghĩa lớn lao của song hành có trong các bản văn: “Con không thể làm được gì tự chính Người” (Ga 5:19, 30) và “không có Thầy, các con không thể làm gì được” (20:21; xem 13:20; 17:18).

Điều “không làm gì được” này mà các tông đồ có chung với Chúa Giêsu, cùng một lúc, nói lên sức mạnh và sự yếu đuối của thừa tác vụ tông đồ. Tự các ngài, tự các nguồn lực của các ngài, các ngài không thể làm được điều các tông đồ nên làm. Làm thế nào các ngài có thể tự mình nói rằng “tội lỗi của bạn đã được tha cho bạn”? Làm thế nào các ngài có thể nói “Này là Mình Ta”? Làm thế nào các ngài có thể đặt tay và nói “Hãy tiếp nhận Chúa Thánh Thần”? Không có điều nào trong số vốn làm nên hoạt động tông đồ này diễn ra do thẩm quyền riêng của các ngài. Nhưng trong sự truất hữu các nguồn lực của các ngài là việc các ngài hiệp thông với Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn phát xuất từ Chúa Cha: với Người, có mọi sự, không có Người, không có gì cả.

“Việc thiếu khả năng hoàn toàn” của các ngài kéo các ngài vào chung sứ mệnh với Chúa Giêsu. Một thừa tác vụ thuộc loại như thế, trong đó, hữu thể nhân bản dựa trên truyền đạt thần linh hành động và ban phát điều không bao giờ có thể được ban phát hay thực hiện dựa trên các nguồn lực nhân bản, chính là điều, trong truyền thống Giáo Hội, được gọi là bí tích. Nếu, trong cách sử dụng của mình, Giáo Hội gọi việc truyền chức linh mục là bí tích thì chính là theo nghĩa này: con người phàm trần này không hề thực hành các công việc do khả năng hay tài năng tự nhiên của mình mà đặc biệt thỏa đáng hay đem lại lợi ích nào.

Ngược lại, người tiếp nhận bí tích được sai đi để ban phát điều họ không thể ban phát dựa trên các nguồn lực hay quyền lực tự nhiên, để hành động nhân danh một Đấng khác và là cơ quan của Người. Hơn nữa, không hữu thể nhân bản có thể tự tuyên bố mình là linh mục; và không cộng đồng nào, bằng sắc lệnh của mình, cổ vũ một hữu thể nhân bản nào vào thừa tác vụ này. Nó chỉ có thể được tiếp nhận bằng một bí tích, vốn là của Thiên Chúa. Một sứ mệnh chỉ có thể tiếp nhận từ Đấng Sai Phái, từ Chúa Kitô trong bí tích của Người, qua đó một ai đó trở thành tiếng nói và bàn tay của Chúa Kitô trong thế giới.

Tuy nhiên, việc hiến mình này, việc từ bỏ mình và quên đi chính bản ngã mình này không hủy tiêu một hữu thể nhân bản nhưng đúng hơn, dẫn tới sự chín mùi nhân bản đích thực. Sở dĩ như thế vì chúng đồng hóa hữu thể nhân bản vào mầu nhiệm Ba Ngôi và sản sinh ra hình ảnh sống động trong đó chúng ta đã được dựng nên. Vì chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, nên ai tự đánh mất mình sẽ tìm được chính mình.

Với những lời lẽ ấy, chúng ta đã phần nào dự ứng được một điều gì đó. Chúng ta cũng đã đạt tới các kết luận rất quan trọng. Theo các Tin Mừng, chính Chúa Kitô ban cho các tông đồ cơ cấu yếu tính của chính sứ mệnh của Người: Người ban quyền cho các ngài và kết nạp các ngài vào quyền lực của Người. Sự kết hợp với Chúa này, trong đó, một hữu thể nhân bản tiếp nhận quyền làm điều họ không thể làm, được gọi là một bí tích.

Một sứ mệnh mới tạo ra trong việc tuyển chọn 12 người đàn ông (virorum) có bản chất bí tích. Thành thử, cơ cấu này phát sinh từ tâm điểm sứ điệp Kinh Thánh. Rõ ràng, thừa tác vụ này, được Chúa Kitô tạo ra, là một điều khá mới mẻ, không hề có nguồn gốc nào từ Cựu Ước, nhưng phát sinh từ quyền lực mới của Chúa Giêsu Kitô. Thừa tác vụ có tính bí tích của Giáo Hội nói lên tính mới mẻ của Giêsu Kitô cũng như sự hiện diện của Người trong trọn bộ lịch sử.

2. Kế thừa tông đồ (successio apostolorum)

Sau khi đã vắn tắt bàn tới nguồn gốc và cốt lõi của thừa tác vụ do Chúa Kitô thiết lập, chúng ta nêu câu hỏi: thừa tác vụ này được tiếp nhận ra sao trong thời đại tông đồ? Và đặc biệt, việc chuyển tiếp diễn ra như thế nào giữa thời đại ấy và thời gian sau các tông đồ? Hay nói cách khác, tấm gương Tân Ước phản chiếu ra sao việc kế thừa các tông đồ (successio apostolorum), là điều, sau nền tảng Kinh Thánh, đã tạo nên cây cột thứ hai liên quan đến học thuyết Công Giáo về chức linh mục của Tân Ước?

Chúng ta có thể bàn đến câu hỏi thứ nhất một cách vắn tắt vì chứng tá của Thánh Phaolô về vấn đề này rất thuyết phục rồi. Một cách rất rõ ràng, viễn kiến của ngài về chức vụ tông đồ đã được trình bầy thông suốt trong câu khẳng quyết nổi tiếng ở Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Chúa Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2Cr 5:20). Thiên Chúa kêu gọi qua các tông đồ vốn là các đại diện của Người. Như đã xuất hiện rõ ràng trong bản văn này, bản chất của thừa tác vụ tông đồ là điều chúng ta đã thừa nhận trên đây như tạo nên yếu tính của một “bí tích”. Cơ cấu ngôn từ và hành động này không nhân danh mình mà nhân danh thẩm quyền Thiên Chúa, xuất hiện lại khi Thánh Phaolô nói rằng “Chúng ta hãy xử sự như những thừa tác viên của Thiên Chúa” (2Cr 6:4).

Bản thể của thừa tác vụ tông đồ cũng được tóm lược ở chỗ Thánh Phaolô nói rằng “thừa tác vụ hòa giải” đã được ủy thác cho ngài (2Cr 5:18). Hòa giải với Thiên Chúa phát xuất từ Thập Giá Chúa Kitô và do đó, có bản chất “bí tích”. Thánh Phaolô giả thiết hữu thể nhân bản sống “tha hóa” khỏi chính họ (Ep 2:12). Chỉ nhờ kết hợp với tình yêu đóng đinh của Chúa Giêsu Kitô mà sự tha hóa này của hữu thể nhân bản khỏi Thiên Chúa và khỏi chính họ mới được vượt qua; chỉ có như vậy hữu thể nhân bản mới có thể tìm được “hòa giải”.

Diễn trình hoà giải này diễn ra trên Thập Giá Chúa Kitô; như một biến cố lịch sử, cái chết của Chúa Kitô thuộc về quá khứ; nó trở thành hiện tại cho chúng ta trong “bí tích”. Trong thư thứ nhất của ngài gửi tín hữu Côrintô, Thánh Tông đồ cho thấy tầm quan trọng lớn lao của các bí tích rửa tội và Thánh Thể trong diễn trình này, cùng với lời lẽ hòa giải, lời phát sinh đức tin và sinh ra chúng ta một lần nữa.

Khi xem xét tất cả những điều trên, điều rõ ràng là trong các trước tác tông đồ, thừa tác vụ tông đồ được phân biệt rõ ràng với các ơn phúc vốn thông thường được ban cho đời sống Kitô hữu. Một cách hết sức thuyết phục, sự khác nhau chuyên biệt này cũng xuất hiện khi Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất của ngài gửi tín hữu Côrintô: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những thừa tác viên của Chúa Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (4:1). Từ sự khác nhau chuyên biệt này, ta có thẩm quyền của tông đồ đối với cộng đồng, một điều đôi khi được ngài phát biểu bằng ngôn từ hết sức mạnh mẽ, chẳng hạn như khi ngài hỏi; “Anh em muốn gì? Muốn tôi mang roi vọt hay là đức bác ái và lòng nhân hậu mà đến với anh em?” (4:21). Dựa trên thẩm quyền này, ngài cũng nại tới việc tuyệt thông “để phần hồn họ được cứu thoát trong Ngày của Chúa” (5:5). Việc mô tả tông đồ theo lối này không có rễ má gì với thứ “vô chính phủ thần khí” (pneumatic anrachy) mà ở thời ta một số nhà thần học sẵn sàng rút tỉa coi như là bản chất đích thực của Giáo Hội từ thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.

Từ việc phân tích của chúng ta, điều rõ ràng là chứng tá của Thánh Phaolô liên quan tới thừa tác vụ tông đồ tương hợp với điều chúng ta đã tìm thấy trong các Tin Mừng. Trong trách nhiệm của “các thừa tác viên Tân Ước” (2Cr 3:6), mà ngài nói tới, chúng ta thấy cùng một cơ cấu bí tích từng được lời lẽ của Chúa tỏ cho chúng ta thấy: Tông đồ hành động không phải do thẩm quyền riêng mình nhưng là thẩm quyền Chúa Kitô, không như thành viên của một cộng đồng, nhưng như đứng trên cộng đồng và ngỏ với nó nhân danh Chúa Kitô.

Cơ cấu có tính đối thoại này thuộc về yếu tính của mạc khải. Đức tin không phải là điều con người nghĩ ra, họ không thể biến mình thành một Kitô hữu bằng suy gẫm hay đời sống luân lý. Việc trở lại với đức tin luôn luôn có nguồn gốc từ bên ngoài; nó là một tặng phẩm luôn phát xuất từ một người khác, từ Chúa Kitô, Đấng tới gặp chúng ta. Cấu trúc đức tin Kitô giáo sẽ lâm nguy khi “nhân tố thần linh từ bên ngoài” (extra divinum) bị phủ mờ.

Một cộng đồng muốn tự biến mình thành một Giáo Hội hay một cộng đồng Giáo Hội sẽ hủy diệt mầu nhiệm có tính đối thoại của mạc khải và tặng phẩm ân sủng, những điều luôn phát xuất từ “một người khác”, từ bên ngoài. Trong mọi bí tích, quà tặng của Thiên Chúa và hữu thể nhân bản tiếp nhận tặng phẩm này luôn đứng ở thế đối nghịch nhau. Cùng một cấu trúc cũng tìm thấy nơi lời Thiên Chúa; đức tin phát xuất không phải từ việc đọc mà từ việc lắng nghe; việc rao giảng lời Chúa bởi người được sai đi rao giảng thuộc về cấu trúc của hành vi đức tin.

Giờ đây, chúng ta chuyển qua câu hỏi thứ hai của chúng ta: thừa tác vụ của các tông đồ tiếp diễn sau khi các ngài qua đời trong chuỗi “kế thừa tông truyền” hay chức vụ của các ngài là điều độc đáo, chấm dứt với cái chết của các ngài. Tìm câu trả lời cho câu hỏi bị tranh cãi này, trước nhất chúng ta phải nói rằng trong những ngày đầu tiên của Giáo Hội mới phát sinh, ý nghĩa của chữ tông đồ phần nào có tính rộng rãi hơn. Chỉ trong thần học của Thánh Luca, về cuối thế hệ Kitô hữu đầu tiên, danh hiệu này mới được dành cho mười hai người đàn ông được Chúa tuyển chọn. Các thừa tác vụ thuộc nhiều loại khác nhau khác, tìm thấy trong thời gian này, chưa có được hình thức rõ ràng, dứt khoát. Một vài thừa tác vụ xuất hiện vượt ra ngoài ranh giới của cộng đồng địa phương; thí dụ, tiên tri và thầy dạy. Mặc khác, có những chức vụ phục vụ Giáo Hội địa phương. Nơi các Kitô hữu phát xuất từ truyền thống Do Thái Giáo, những chức vụ này được gọi là presbyters [trưởng lão], trong khi đối với Giáo Hội phát xuất từ dân ngoại, chúng ta thấy có “Overseers” [giám sát] (episcopos) và deacons [phó tế] trong thư gửi tín hữu Philiphê (1:1).

Dần dần, từ những khởi đầu này, một cấu trúc các thừa tác vụ, rõ ràng và dứt khoát, phát triển và đến cuối thời các tông đồ, đạt tới độ chín mùi đầu tiên của nó. Làm chứng đặc biệt cho sự chín mùi này là hai bản văn đáng lưu ý của Tân Ước, mà tôi xin vắn tắt nói tới. Trước nhất, tôi xin giải thích diễn từ của Thánh Phaolô ngỏ cùng các trưởng lão tại Miletus của Tiểu Á. Trong tường thuật của Thánh Luca, nó xuất hiện như “tín thư” [testament] của các tông đồ. Theo lời được truyền lại ở đây, nguyên tắc kế thừa tông truyền đã được thiết lập một cách đầy thuyết phục. Theo truyền thống của Thánh Luca, Thánh Tông đồ nói, “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người giám sát, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình” (Cv 26:28).

Một số những điều khác đáng được xem xét ở đây. Thứ nhất, hai ý niệm vốn khác biệt nhau đã đươc coi là ngang bằng nhau; tức là, presbyteroverseer (episcopos). Các truyền thống phát xuất từ dân Do Thái và từ dân ngoại đã kết hợp thành một và được giải thích như thừa tác vụ độc nhất của kế thừa tông truyền.

Chính Chúa Thánh Thần dẫn đưa người ta vào thừa tác vụ này, vốn không hề phát xuất từ việc ủy quyền của cộng đồng nhưng là ơn phúc của Chúa, Đấng “thiết lập các giám sát”. Vì nó được Chúa Thánh Thần trao ban, nên nó có phẩm giá bí tích. Chức vụ tông đồ của việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa do đó vẫn tiếp diễn.

Nhưng cấu trúc tông đồ dẫn trở lại mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng chăn chiên đích thực, Đấng “đã chiếm” được đoàn chiên “bằng máu của Người”. Trong những lời lẽ này, không những các truyền thống Kitô hữu phát xuất từ dân Do Thái và các truyền thống của các Kitô hữu khác phát xuất từ dân ngoại kết hợp thành một, nhưng điều còn hơn thế nữa và có tầm ý nghĩa lớn lao hơn, thừa tác vụ của trưởng lão và của vị giám sát về phương diện yếu tính thiêng liêng của chúng xem ra là một trong tư cách thừa tác vụ của một tông đồ.

Thánh Luca phân biệt căn tính có tính yếu tính này, mà nguyên tắc kế thừa tông truyền vốn hệ ở, với một sự khác nhau có tính hình thức: mặc dù ngài chỉ gán cho nhóm mười hai danh xưng tông đồ, bản chất duy nhất về nguồn gốc được phân biệt với bản chất vĩnh viễn của kế thừa. Theo nghĩa này, thừa tác vụ trưởng lão và giám sát khác với sứ mệnh của Mười Hai Tông Đồ. Trưởng lão-Giám sát là những người kế vị, không phải là các tông đồ. Thuộc về cấu trúc của mạc khải và của Giáo Hội có cả “một lần” và “luôn luôn”. Quyền, được Chúa Kitô ban, để hoà giải, chăn dắt, và dạy dỗ tiếp diễn không thay đổi nơi các người kế vị, nhưng các ngài chỉ là những người kế vị thực sự nếu “các ngài kiên tâm trong giáo huấn của các tông đồ” (Cv 2:42).

Cùng những nguyên tắc này tìm thấy trong diễn từ của Thánh Phaolô tại Miletus được đề xuất trong tấm gương phản chiếu các trưởng lão trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô (5:1-4): “Cùng các bậc trưởng lão trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng trưởng lão, lại là chứng nhân những đau khổ của Chúa Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát”.

Ngay trong những lời lẽ đầu tiên của lời bảo ban tông đồ này, chúng ta đã tìm thấy biểu thức nói lên căn tính của thừa tác vụ tông đồ và trưởng lão. Điều này rất quan trọng; thánh tông đồ tự gọi ngài là một đồng trưởng lão (conpresbyterum) và bằng cách này đã nối kết về phương diện thần học thừa tác vụ của các tông đồ và các trưởng lão. Thần học của chức vị tông đồ, mà chúng ta đã xem xét ở phần thứ nhất, ở đây được chuyển giao cho chức vị trưởng lão, và bằng cách này, thần học chân chính của Tân ước về chức linh mục đã phát sinh. Thánh tông đồ, khi tự chỉ định mình như một đồng trưởng lão với các trưởng lão, đã nhìn nhận các ngài như được thiết lập vào cùng một thừa tác vụ và do đó minh nhiên thiết lập ra nguyên tắc kế thừa tông đồ.

Một khía cạnh khác nữa có tầm ý nghĩa lớn lao có thể được ghi nhận trong bản văn ngắn ngủi này. Như trong diễn từ tại Miletus, mà chúng ta vừa nói trên đây, ở đây, bản chất của nhiệm vụ tông đồ cũng được tóm lược trong chữ pascite [hãy chăn dắt đoàn chiên] từ hình ảnh người chăn chiên. Sự quan trọng của cách nói này thấy rõ nhờ sự kiện này là ở cuối chương hai (2:25), Thánh Tông đồ mô tả Chúa như “Đấng Chăn Chiên và Đấng Giám Sát linh hồn anh em”.

Ở đây, tại Chương Năm, Thánh Tông đồ sử dụng cùng một cách nói trên khi ngài gọi Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Chính. Căn cứ vào ý nghĩa ngôn ngữ học của chữ episcopus, nghĩa là người giám sát, người chủ trì và ban hành hướng đi trông chừng, ngài thấy ý nghĩa này đồng nghĩa với chữ pastore (người chăn chiên]. Theo cách này, chữ episcopus có nguồn gốc ngoại giáo bắt đầu được dùng để chỉ Chúa Kitô Đấng Chăn Chiên; một đức tin Kitô giáo mới và một “đặc tính thánh thiêng” mới của đức tin Kitô giáo đã tự biểu lộ rõ ràng. Như chữ đồng trưởng lão kết hợp các tông đồ và các vị kế nhiệm các ngài thế nào, thì chữ giám sát qui chiếu các vị vào Chúa Kitô và mạc khải nền tảng Kitô học cho thừa tác vụ giám sát và trưởng lão như vậy.

Như thế, vào cuối thời các tông đồ, trong các trước tác Tân Ước, đã có nền thần học rõ ràng về chức linh mục của Tân Ước, một nền thần học được ban cho Giáo Hội trong tín thác và tạo nên hạt nhân không thể thay thế được của mọi nền thần học về chức linh mục Kitô giáo suốt những thời gian qua.

3. Chức linh mục chung và đặc thù – Cựu và Tân Ước

Vào cuối các suy tư của chúng ta, chúng ta phải bàn tới mối tương quan giữa việc phục vụ linh mục mới phát sinh từ sứ mệnh của Chúa Kitô và chức linh mục chung của mọi tín hữu. Trong các trước tác Tân Ước, ý niệm về chức linh mục chung này được đề xuất ở hai chỗ, tức là, trong giáo lý rửa tội thời xưa, mà ta tìm thấy trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô và trong lời chào thăm gửi tới bẩy Giáo Hội ở đầu Sách Khải Huyền của Thánh Gioan (1Pr 2:9; Kh 1:6). Ngôn ngữ được sử dụng trong các bản văn này liên quan đến chức linh mục chung dẫn khởi từ sách Xuất Hành (19:6). Ở đấy, nó nằm trong diễn từ trong đó Thiên Chúa, khi nói với Môsê trên Núi Sinai, đã cung ứng một giao ước với dân Israel rằng họ sẽ là gia nghiệp của Chúa và trở nên một “vương quốc tư tế” giữa các dân ngoại. Trong tư cách dân Chúa chọn, họ phải là nơi thờ phượng đích thực và đồng thời vừa là chức linh mục vừa là đền thờ cho cả thế giới.

Bài giáo lý để rửa tội được lưu truyền trong thư của Thánh Phêrô đã chuyển giao lời mời gọi dân Cựu Ước sang cho người được rửa tội. Bằng cách này, nó cho thấy: qua phép rửa tội, các Kitô hữu tham dự vào các đặn ân của dân Thiên Chúa. Điều đã xẩy ra trên Núi Sinai trở thành hiện tại một cách mới mẻ trong bí tích rửa tội. Giáo Hội của Chúa Kitô trong tính toàn thể của nó là đền thờ sống động nơi Thiên Chúa cư ngụ và được thờ lạy một cách đúng đắn. Qua thừa tác vụ của Giáo Hội thế giới được tụ tập với nhau để thờ lạy Thiên Chúa chân thực.

Thánh Phaolô cũng nói cùng một điều với lời lẽ khác trong thư gửi tín hữu Rôma, nơi ngài nói như là “thừa tác viên (leitourgon) của Chúa Giêsu Kitô cho dân ngoại trong sự thi hành việc phục vụ có tính tư tế (hierourgounta) Tin Mừng của Thiên Chúa để lễ dâng (he prosphora) của dân ngoại có thể được chấp nhận, thánh hóa trong Chúa Thánh Thần “ (Rm 15:16).

Do đó, rõ ràng là chức linh mục chung của người đã chịu phép rửa, một phép rửa phát sinh từ việc họ gia nhập lịch sử giao ước của Thiên Chúa từng bắt đầu trên núi Sinai và đổi mới trên thập giá Chúa Kitô, không hề chống đối chức linh mục thừa tác, hệt như chức linh mục chung của dân Israel không bao giờ chống đối các chức linh mục.Từ các xem xét này, điều cũng rõ ràng là thừa tác vụ của kế thừa các tông đồ này là một điều mới mẻ thực sự theo nghĩa nào, và tính mới mẻ Kitô giáo này tiếp nhận vào chính nó các nhân vật dự ứng của Cựu Ước theo nghĩa nào. Một đàng, thừa tác vụ tông đồ của Giáo Hội là mới mẻ nhờ sự mới mẻ của Chúa Kitô, Đấng mà từ các lời nói, đời sống và cái chết của Người, thừa tác vụ này đã phát sinh. Mặt khác, Chúa Kitô, Đấng đã làm mọi sự nên mới, đồng thời làm nên trọn mọi nhân vật nhờ đó lịch sử chuyển vần hướng về Người.

Vì lý do đó, chức linh mục mới của các tông đồ Chúa Giêsu Kitô và của những vị kế nhiệm các ngài mang trong mình tất cả những gì đã chứa đựng một cách tiên tri trong Cựu Ước. Điều này rõ ràng khi chúng ta xem xét công thức được John Colson, sau một cuộc phân tích các nguồn một cách cẩn thận, đã dùng để xác định bản chất của chức linh mục Cựu Ước: “chức năng yếu tính của Kohanim [con cháu Aaron=linh mục] (hiereis [linh mục]) là thế này: giữ cho dân ý thức được bản chất linh mục của họ để họ sống cách thích đáng và vinh danh Thiên Chúa suốt đời họ.” Điều rõ ràng là là công thức này gần gũi xiết bao với lời lẽ Thánh Phaolô đã trích trên đây. Nhưng động lực sai đi mới, riêng của chức linh mục Kitô giáo, phát sinh từ sự kiện này là trên Thập Giá của Người, Chúa Kitô là Đấng “đã phá sập bức tường thù nghịch phân rẽ” (Eph 2:14) và mang lại gần nhờ máu của Người những kẻ trước kia ở xa (Eph 2:13). Do đó, chức linh mục của Tân Ước làm việc đến cùng để toàn thể thế giới trở thành đền thờ và hy lễ được Thiên Chúa chấp nhận ngõ hầu Thiên Chúa trở nên tất cả trong tất cả (xem 1Cr 15:28).

4. Các kết luận liên quan đến chức linh mục ngày nay

Các nền tảng Kinh Thánh của thừa tác vụ linh mục nên được áp dụng ra sao vào việc đào tạo linh mục trong các hoàn cảnh hiện nay tùy thuộc Thượng Hội Đồng Giám Mục thảo luận. Tôi không thể và không muốn dự ứng các kết luận của nó. Tôi chỉ dám đề nghị một số chỉ dẫn tổng quát, khá vắn tắt.

Chức linh mục của Tân Ước, xuất hiện nơi các tông đồ trước nhất, vốn được nhìn như giả thiết một sự hiệp thông thực sự với sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô. Người trở thành linh mục được tháp nhập vào sứ mệnh của Người. Kết quả là một mối tương quan sâu xa, có tính bản vị với Chúa Kitô là điều nền tảng cho đời sống và thừa tác vụ linh mục. Mọi việc đào tạo lãnh chức linh mục nên tập trung vào việc cổ vũ mối tương quan này.

Một linh mục nên trở thành một hữu thể nhân bản biết Chúa Giêsu một cách thân mật, nếu họ đã gặp được Người và học biết yêu thương Người. Bởi thế, một linh mục phải là một hữu thể nhân bản của cầu nguyện, một người “thiêng liêng” sâu xa. Không có bản thể thiêng liêng vững vàng, họ không thể bền tâm trong thừa tác vụ của mình. Họ cũng nên học hỏi từ mầu nhiệm Chúa Kitô, chứ đừng nên tìm kiếm chính mình trong cuộc sống của mình hay sự thăng tiến của riêng mình. Họ nên học hỏi hy sinh mạng sống mình vì Chúa Kitô và đoàn chiên của Người.

Lối sống như thế chống lại xu hướng tự nhiên của chúng ta, nhưng từ từ, ta thấy rõ: người thực sự tự do là người có khả năng quên chính mình. Sống cho Chúa Kitô dẫn tới việc khám phá ra rằng người gieo và người gặt không phải là một (xem Ga 4:36). Không cần tìm kiếm thành công để có thể tin tưởng nơi chính mình. Người làm việc cho Chúa phó thác thành quả cho Chúa và với một tâm hồn vui tươi, đặt hết lo âu của mình trong bàn tay Chúa. Khi chúng ta tìm kiếm thành công của riêng mình, chức linh mục bắt đầu trông như một cố gắng vượt quá sức mình và gánh nặng của nó trở nên quá nặng đối với đôi vai của chúng ta. Nhưng trong đức tin, Chúa Kitô nâng đỡ chúng ta và nhờ kết hợp với Người, là niềm vui không thể lay chuyển phát sinh từ chiến thắng của Đấng đã vinh thắng thế gian (Ga 16:33) và ở với chúng ta cho đến ngày tận thế (Mt 28:20).

Từ sự hiệp thông mật thiết với Chúa Kitô, cũng tự phát nẩy sinh việc chia sẻ tình yêu của Người đối với các hữu thể nhân bản, chia sẻ ý chí của Người muốn cứu vớt họ và đem trợ giúp đến cho họ. Người mà bản ngã bên trong biết Chúa Kitô cũng muốn thông truyền cho nhiều người khác niềm vui đích danh mình cảm nghiệm về ơn cứu chuộc trong Chúa. Công việc mục vụ phát sinh từ việc hiệp thông tình yêu này; cả trong các hoàn cảnh thử thách, nó vẫn được nuôi dưỡng bởi động cơ này và làm cuộc sống ta nên trọn.

Người yêu thương luôn muốn nhận biết. Tình yêu Chúa Kitô đích thực do đó mà có sẽ tự phát biểu trong ước muốn được nhận biết Người và mọi sự có liên quan đến Người. Vì tình yêu Chúa Kitô tất yếu là tình yêu các hữu thể nhân bản, nên việc giáo dục để lãnh nhận thừa tác vụ của Chúa Kitô cũng bao gồm việc giáo dục về các nhân đức nhân bản tự nhiên. Vì yêu Người nghĩa là biết Người, nên ý chí sẵn sàng lãnh nhận việc học hành cẩn trọng và chính xác là dấu chỉ cho thấy sự vững bền của ơn gọi. Vì Chúa Kitô không bao giờ cô đơn, nhưng luôn đến thu thập các hữu thể nhân bản vào thân thể Người, nên tình yêu Giáo Hội nhất thiết phải đi kèm với tình yêu Chúa Kitô, Đấng vốn muốn gặp chúng ta trong cộng đồng Giáo Hội. Trong sự sẵn sàng yêu thương Giáo Hội, một mối tương quan thân mật và mạnh mẽ với chính Chúa được biểu lộ rõ ràng.

Tôi muốn kết thúc bằng một trích dẫn từ Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả. Trong trích dẫn này, ngài sử dụng hình ảnh của Cựu Ước để minh hoạ mối nối kết giữa đời sống nội tâm và thừa tác vụ:

“Các người thánh thiện là điều gì khác ngoài là những con sông mang nước đến cho mảnh đất khô nẻ của các cõi lòng trần tục? Thế nhưng... họ sẽ mau chóng khô cạn ngoại trừ họ cương quyết trong lòng luôn cố gắng quay về nơi họ đã phát sinh. Vì nếu họ không quay về nội tâm, về tâm hồn và tự cột mình vào chiếc xích yêu thương là các ý muốn của Đấng Dựng nên họ...lưỡi của họ sẽ ráo khô. Đúng hơn, họ phải quay trở về bên trong qua tình yêu. Và bất kể họ tỏ ra gì một cách công khai bằng lời nói và việc làm, trong bí mật, họ phải rút tỉa từ suối nguồn yêu thương này. Vì yêu thương, họ học hỏi điều họ trình bầy trong giảng dạy” (Bài giảng về Sách Êdêkien, bài giảng V 16, Pl 76, 828 B)

_____________________________________________________________
Communio số Mùa Đông năm 1990
Bài báo này được trình bầy như một diễn văn của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger cho Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, ngày 1 tháng Mười năm 1990. Bản dịch từ tiếng Latinh qua tiếng Anh của Carl J. Peter.