John L. Allen Jr., trên Crux ngày 11 tháng 7 năm 2024, nhận định rằng trong 11 năm qua, một tầng lớp chuyên gia Công Giáo và những kẻ khiêu khích đã kiếm sống tốt đẹp bằng cách đọ sức giữa Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô. Khi làm như vậy, họ đã đào sâu thêm các chiến tuyến trong Giáo hội, khuyến khích sự phân mảnh, chia rẽ và đau lòng.
Đối với tất cả những người đồng lõa trong việc rao giảng câu chuyện đó, tôi có một gợi ý: Một cuộc hành hương sám hối đến cộng đồng Subiaco nhỏ của Ý trên sườn đồi, cách Rome khoảng một tiếng rưỡi về phía đông. Ở đó, có lời mời độc đáo để thay đổi quan điểm và có thể là để thanh lọc tâm hồn.
Nằm bên bờ sông Aniene và dưới chân dãy núi Appenine thấp hơn của Ý, chính tại đây, một quý tộc La Mã trẻ tên là Bênêđictô thành Norcia đã tìm nơi ẩn náu khỏi một thế giới đổ nát vào đầu thế kỷ thứ 6. Theo truyền thống, ngài đã trải qua ba năm sống ẩn dật trong một hang động ở Subiaco, được một đan sĩ tên là Romanus đưa cho ngài bằng một sợi dây thừng lượng thức ăn ít ỏi, sau đó tiếp tục thành lập 13 tu viện trong vùng trước khi di dời xa hơn xuống phía nam Bán đảo Ý đến Monte Cassino.
Năm thế kỷ sau, các tu sĩ tuân theo quy tắc nổi tiếng của ngài đã quyết định tôn vinh người sáng lập của họ bằng cách xây dựng một tu viện trên địa điểm nơi ngài ẩn dật, nơi ngày nay được gọi là Sacro Speco, hay “hang thánh”. Cuối cùng, đan viện sẽ bao gồm hai nhà thờ, một trên và một dưới, cùng với nhiều nhà nguyện nhỏ, tất cả đều được tạc từ đá tạo thành hang động nơi ngài đã sống.
Năm 1223, như một phần của lễ cung hiến khu phức hợp mới, Đức Hồng Y Ugolini di Conti, lúc đó là trưởng Hồng Y đoàn và là Giáo hoàng tương lai Gregory IX, đã được cộng đồng Biển Đức ở Subiaco mời thánh hiến bàn thờ của một nhà nguyện mới nằm trên cấp độ của nhà thờ thấp hơn. (Bây giờ nó được gọi là “Nhà nguyện của Gregory” để vinh danh ngài.)
Di Conti đã thực hiện chuyến đi và mang theo một vị khách đặc biệt – một nhà huyền nhiệm, nhà thơ và người sáng lập một gia đình tu trì hoàn toàn mới tên là Phanxicô thành Assisi. Hai người là bạn bè, vì di Conti đã trở thành người bảo vệ trong giáo hội cho dòng tu mới của Phanxicô vào năm 1220 theo yêu cầu đích danh của Phanxicô. Cuối cùng ngài đã phong thánh cho Phanxicô vào năm 1228, chỉ hai năm sau cái chết của vị thánh.
Để kỷ niệm chuyến viếng thăm, một nghệ sĩ vô danh đã vẽ hình ảnh Phanxicô trên một trong những bức tường của nhà nguyện mới. Bởi vì nó được thực hiện khi Phanxicô vẫn còn sống, nên nó không có vầng hào quang đặc trưng của hình ảnh các vị thánh, và vì nó được vẽ trước năm 1224 nên nó cũng không cho thấy Phanxicô với những dấu thánh mà ngài chỉ có được trong năm đó. Thêm vào vẻ chân thực, nó mô tả Phanxicô với những mũi khâu trên một mắt, phản ảnh việc điều trị bệnh đau mắt hột mà ngài phát triển trong chuyến đi đến Trung Đông vào năm 1219-1220, căn bệnh cuối cùng khiến ngài gần như bị mù.
Bức bích họa hoàn toàn độc đáo bởi vì đây là hình ảnh đầu tiên của Phanxicô còn tồn tại, thể hiện con người thật của vị thánh – qua đó cho phép các thế hệ tương lai có được điều gần gũi nhất có thể với sự tiếp xúc vật lý thực tế. Vợ tôi Elise và tôi gần đây đã có cơ hội đứng trước nó một lúc lâu, một mình, vào một buổi sáng thứ Hai yên tĩnh, và tôi có thể làm chứng rằng đó là một trải nghiệm gợi nhiều liên tưởng sâu sắc. Sau đó, chúng tôi mua một bản sao của bức ảnh và được làm phép bởi vị linh mục trực sáng hôm đó, một tu sĩ Biển Đức tốt bụng người Ý tên là Don Maurizio.
Quan điểm của tôi là thế này: Có một ý nghĩa đặc biệt trong sự kiện là bức ảnh quý giá nhất thế giới của Thánh Phanxicô đã được các con trai của Thánh Biển Đức bảo tồn, bảo vệ và trân trọng suốt 800 năm qua.
Nói cách khác, Sacro Speco là sự xác nhận về mặt vật lý rằng mối liên hệ giữa Thánh Bênêđictô và Thánh Phanxicô trong đời sống Công Giáo là di truyền, không thể tách rời và vĩnh cửu.
Đúng vậy, bản năng đan tu và tông đồ được đại diện bởi Thánh Bênêđíctô và Thánh Phanxicô là khác nhau. Bản năng trước về cơ bản là bảo tồn và duy trì đức tin, bản năng sau là về sự đổi mới và thử nghiệm để mang đức tin đến với thế giới. Trong câu nói nổi tiếng của Chesterton, “Những gì Bênêđictô tích trữ, Phanxicô đã phân tán.”
Tuy nhiên, vấn đề là để đức tin bị phân tán thì trước tiên nó phải được lưu giữ - và tất nhiên, toàn bộ mục đích của việc lưu giữ nó chính là để nó có thể được phân tán. Nói cách khác, Bênêđíctô không có Phanxicô sẽ không trọn vẹn, và Phanxicô không có Bênêđíctô sẽ bất khả.
Cho đến nay, chúng ta đã nói về hai vị thánh, nhưng cái nhìn sâu sắc tương tự cũng áp dụng cho hai vị giáo hoàng trong 11 năm qua từng mang tên các vị.
Đúng vậy, Giáo hoàng Bênêđíctô XVI “bảo thủ” hơn Giáo hoàng Phanxicô về nhiều mặt. Tuy nhiên, nhìn qua lăng kính Công Giáo (trái ngược với lăng kính chính trị), đó không phải là sự đối nghịch mà là sự làm nên trọn.
Đạo Công Giáo, như Đức Bênêđictô XVI đã nhắc nhở thế giới một cách nổi tiếng trong bài phát biểu trước các giáo sĩ của các giáo phận Belluno-Feltre và Treviso của Ý năm 2007, là một truyền thống hoặc/hoặc. Đúng hơn, Công Giáo là cả hai và – một vấn đề “không phải là những loại trừ lớn lao, mà là những tổng hợp”, Đức Bênêđictô nói thế.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là phủ nhận rằng có những phe phái đối địch trong Công Giáo, một số trong đó tuyên bố Đức Bênêđictô hoặc Đức Phanxicô là nhà quán quân của họ. Đó là một thực tế rõ ràng như khoai tây. Vấn đề là khi đưa ra những tuyên bố như vậy, những phe phái đó đã thiếu sót - hoặc tệ hơn nữa là cố tình coi thường - một điều gì đó thiết yếu về bản năng Công Giáo.
Cũng không thể phủ nhận rằng cả Đức Bênêđictô và Đức Phanxicô đều là những vị giáo hoàng không hoàn hảo, các vị đã đưa ra những quyết định gây tranh cãi một cách công bằng, một số trong đó thực sự có thể đã tạo ra nhận thức rằng các vị đại diện cho những lựa chọn mang tính cạnh tranh (trái ngược với những lựa chọn bổ sung).
Tuy nhiên, điểm cốt yếu vẫn là: Ngay từ đầu, Đức Bênêđíctô và Đức Phanxicô đã là cặp song sinh gắn liền với nhau về linh đạo Công Giáo, khác nhau ở nhiều khía cạnh nhưng không thể tồn tại nếu không có nhau. Những nỗ lực nhằm chia rẽ họ, cho dù chúng ta đang nói đến các vị thánh hay giáo hoàng, cuối cùng đều gây thiệt hại cho cả hai.
Tóm lại, đó là bài học của Subiaco. Đó là một quan điểm mà một nhóm quan điểm Công Giáo nhỏ nhưng có tiếng nói lớn và bị kích động ngày nay sẽ rất có lợi nếu tiếp thu.