Liệu Mỹ có thể cứu được trật tự tự do thông qua các biện pháp phi tự do?

Hal Brands trên tạp chí Foreign Affairs Tháng 3/Tháng 4 năm 2024, nêu câu hỏi trên.

Ông cho hay: Nhà thần học Reinhold Niebuhr đã viết vào năm 1946: “Chúng ta phải làm bao nhiêu điều ác để làm được điều tốt. Tôi nghĩ đây là một phát biểu rất ngắn gọn về tình huống nhân bản hiện nay”. Niebuhr viết sau khi một cuộc chiến tranh hoàn cầu đã buộc những kẻ chiến thắng phải làm điều ác to lớn để ngăn chặn cái ác lớn hơn khôn lường của một thế giới được cai trị bởi những chế độ hung hãn nhất. Ông đang chứng kiến sự khởi đầu của một cuộc xung đột hoàn cầu khác trong đó Hoa Kỳ sẽ định kỳ vi phạm các giá trị của chính mình để bảo vệ chúng. Nhưng câu hỏi cơ bản mà Niebuhr nêu ra—làm thế nào các quốc gia tự do có thể dung hòa những mục đích xứng đáng với những phương tiện khó chịu cần thiết để đạt được chúng—là vấn đề vượt thời gian. Đây là một trong những tình thế tiến thoái lưỡng nan khó chịu nhất mà Hoa Kỳ phải đối diện hiện nay.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhậm chức với cam kết tiến hành một cuộc cạnh tranh định mệnh giữa dân chủ và chuyên quyền. Sau khi Nga xâm chiếm Ukraine, ông đã triệu tập các quốc gia có cùng chí hướng tham gia cuộc đấu tranh “giữa tự do và đàn áp, giữa một trật tự dựa trên luật lệ và một trật tự bị cai trị bởi vũ lực”. Đội ngũ của Biden thực sự đã có những bước đi lớn trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc và Nga, củng cố tình liên đới giữa các nền dân chủ tiên tiến muốn bảo vệ tự do bằng cách kiểm soát các chế độ chuyên chế hùng mạnh. Nhưng ngay cả trước khi cuộc chiến giữa Hamas và Israel bộc lộ hàng loạt vấn đề của riêng nó, một chính quyền vốn nhấn mạnh bản chất ý thức hệ của sự cạnh tranh giữa các cường quốc đã nhận thấy mình bị mắc kẹt trong một thế giới mơ hồ về mặt luân lý.

Ở châu Á, Biden đã lùi bước để thu hút một Ấn Độ đang thụt lùi, một Việt Nam cộng sản và các quốc gia không tự do khác. Ở châu Âu, các yêu cầu cấp thiết trong thời chiến đã làm giảm đi những lo ngại về chủ nghĩa độc tài đang gia tăng ở mặt trận phía đông và phía nam của NATO. Ở Trung Đông, Biden đã kết luận rằng các nhà độc tài Ả Rập không phải là những kẻ tiện dân (pariah) mà là những đối tác quan trọng. Bảo vệ một trật tự đang bị đe dọa liên quan đến việc hồi sinh cộng đồng thế giới tự do. Rõ ràng, nó cũng đòi hỏi phải củng cố một vòng cung các nền dân chủ không hoàn hảo và các chế độ hoàn toàn chuyên chế trên khắp thế giới.

Chiến lược mâu thuẫn của Biden phản ảnh thực tế của việc xây dựng liên minh đương thời: khi nói đến việc chống lại Trung Quốc và Nga, các liên minh dân chủ chỉ tiến xa đến vậy. Cách tiếp cận của Biden cũng phản ảnh tình trạng căng thẳng sâu sắc hơn, lâu dài hơn. Lợi ích của Mỹ gắn bó chặt chẽ với các giá trị của Mỹ: Hoa Kỳ thường tham gia vào cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc vì nước này lo ngại các chế độ chuyên quyền hùng mạnh sẽ khiến thế giới không an toàn cho nền dân chủ. Nhưng ở một mức độ nào đó, thời đại xung đột luôn trở thành thời đại của phi luân lý (amoral) bởi vì cách duy nhất để bảo vệ một thế giới phù hợp với tự do là tán tỉnh những đối tác không trong sạch và tham gia vào các hành vi không trong sạch.

Tác giả sẽ nói nhiều hơn về điều này. Nếu lợi ích của các cuộc cạnh tranh ngày nay cao như Biden tuyên bố, Washington sẽ thực hiện một số hành vi cay độc đến nghẹt thở để kiềm chế kẻ thù của mình. Tuy nhiên, đặc tính lợi ích thuần túy tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, từ sự vỡ mộng trong nước đến sự đánh mất sự bất cân xứng về mặt luân lý vốn từ lâu đã khuếch đại ảnh hưởng của Mỹ trong các vấn đề hoàn cầu. Chiến lược, đối với một siêu cường tự do, là nghệ thuật cân bằng quyền lực mà không phá vỡ mục đích dân chủ. Hoa Kỳ sắp khám phá lại được điều đó khó đến mức nào.

MỘT TRÒ CHƠI DƠ BẨN

Biden luôn đúng về một điều: xung đột giữa các cường quốc là xung đột về ý tưởng và lợi ích. Vào thế kỷ XVII, Chiến tranh Ba mươi năm được thúc đẩy bởi những khác biệt về học thuyết không kém gì cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ ở châu Âu. Vào cuối thế kỷ 18, nền chính trị của nước Pháp cách mạng đã làm thay đổi tình hình địa chính trị của toàn lục địa. Chiến tranh thế giới thứ hai là sự va chạm giữa các truyền thống chính trị đối địch – dân chủ và chủ nghĩa toàn trị – cũng như các liên minh đối địch. “Đây không phải là một cuộc chiến ngẫu nhiên”, Bộ trưởng Ngoại giao Đức Joachim von Ribbentrop tuyên bố vào năm 1940, “mà là vấn đề về quyết tâm của một hệ thống này để tiêu diệt hệ thống kia”. Khi các cường quốc chiến đấu, họ làm như vậy không chỉ vì đất đai và vinh quang. Họ đấu tranh xem ý tưởng nào, giá trị nào sẽ vạch ra hướng đi của nhân loại.

Theo nghĩa này, sự cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc và Nga là vòng mới nhất trong cuộc đấu tranh lâu dài về việc liệu thế giới sẽ được định hình bởi các nền dân chủ tự do hay kẻ thù chuyên quyền của họ. Trong Thế chiến I, Thế chiến II và Chiến tranh Lạnh, các chế độ chuyên chế ở Âu Á đã tìm kiếm vị thế đứng đầu hoàn cầu bằng cách đạt được vị thế ưu việt trong vùng đất trung tâm đó. Ba lần, Hoa Kỳ đã can thiệp, không chỉ để đảm bảo an ninh mà còn để duy trì sự cân bằng quyền lực cho phép chủ nghĩa tự do tồn tại và mở rộng – để “làm cho thế giới trở nên an toàn cho nền dân chủ,” theo lời của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson. Tổng thống Franklin Roosevelt đã đưa ra quan điểm tương tự vào năm 1939 khi nói rằng: “Sẽ đến lúc trong công việc của con người, họ phải chuẩn bị để bảo vệ, không chỉ quê hương của mình mà còn là những nguyên lý về đức tin và nhân tính mà trên đó, các giáo hội, chính phủ và các tổ chức của họ được thiết lập.” Thế nhưng, như chính Roosevelt hiểu, cân bằng quyền lực là một trò chơi dơ bẩn.

Các nền dân chủ Tây Phương đã thắng thế trong Thế chiến thứ hai chỉ bằng cách giúp đỡ một tên bạo chúa khủng khiếp, Joseph Stalin, đè bẹp một kẻ thù thậm chí còn khủng khiếp hơn, Adolf Hitler. Họ sử dụng các chiến thuật, chẳng hạn như ném bom lửa và ném bom nguyên tử vào các thành phố của kẻ thù, những chiến thuật đó sẽ trở nên ghê tởm trong những thời điểm ít tuyệt vọng hơn. Sau đó, Hoa Kỳ tiến hành Chiến tranh Lạnh vì niềm tin, như Tổng thống Harry Truman đã tuyên bố, rằng đó là một cuộc xung đột “giữa các lối sống khác nhau”; các đồng minh thân cận nhất của Hoa Kỳ là các nền dân chủ đồng chí tạo nên thế giới phương Tây. Tuy nhiên, việc giữ vững lập trường trong một cuộc đấu tranh có nguy cơ cao cũng liên quan đến một số hành động đáng nghi ngờ sâu sắc, thậm chí phi dân chủ.

Các xung đột giữa các cường quốc là xung đột về ý tưởng và lợi ích.

Trong một Thế giới thứ ba bị chấn động bởi sự bất ổn, Hoa Kỳ đã sử dụng những kẻ bạo chúa cánh hữu làm người được ủy quyền; nó đàn áp ảnh hưởng của cộng sản thông qua các cuộc đảo chính, các cuộc can thiệp bí mật và công khai, cũng như các cuộc chống nổi dậy với số người chết đáng kinh ngạc. Để ngăn chặn sự xâm lược trên phạm vi hoàn cầu, Lầu Năm Góc dựa vào mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân có sức tàn phá khủng khiếp đến mức việc sử dụng chúng thực tế không thể mang lại mục đích mang tính xây dựng. Để khép lại vòng vây quanh Liên Xô, Washington cuối cùng đã hợp tác với một kẻ cộng sản sát nhân khác, nhà lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông. Và để giảm bớt chính sách ngăn chặn chính trị, các quan chức Mỹ đôi khi phóng đại mối đe dọa của Liên Xô hoặc đơn giản là lừa dối người dân Mỹ về các chính sách được thực hiện dưới danh nghĩa của họ.

Chiến lược liên quan đến việc thiết lập các ưu tiên và các quan chức Hoa Kỳ tin rằng cần có những tệ nạn ít hơn để tránh những tệ nạn lớn hơn, chẳng hạn như chủ nghĩa cộng sản gây bạo loạn ở các khu vực quan trọng hoặc các nền dân chủ không tìm thấy sức mạnh và mục đích của mình trước khi quá muộn. Phần thưởng cuối cùng từ chiến thắng của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh – một thế giới an toàn hơn trước sự xâm lược chuyên quyền và an toàn hơn cho tự do của con người hơn bao giờ hết – cho thấy rằng xét về mặt cân bằng, họ đã đúng. Trên đường đi, việc Washington đang theo đuổi một mục tiêu xứng đáng như vậy, chống lại một đối thủ bất xứng như vậy, đã mang lại sự an ủi nhất định cho sự mơ hồ về mặt đạo đức của cuộc xung đột. Như NSC-68, tài liệu chiến lược có ảnh hưởng mà Truman phê duyệt năm 1950, đã nói (trích dẫn Alexander Hamilton), “Các phương tiện được sử dụng phải tương xứng với mức độ của trò nghịch ngợm”. Khi phương Tây đang phải đối đầu với một kẻ thù toàn trị quyết tâm tái tạo nhân loại theo hình ảnh của nó, thì rõ ràng, một số biện pháp khá xấu xa có thể được biện minh.

Tuy nhiên, sự thoải mái đó không phải là vô hạn và Chiến tranh Lạnh đã chứng kiến những cuộc đấu tranh gay gắt về việc liệu Hoa Kỳ có thực hiện đúng các ưu tiên của mình hay không. Vào những năm 1950, những người diều hâu đã chỉ trích Washington vì đã không làm đủ để đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, với cương lĩnh của Đảng Cộng hòa năm 1952 coi chính sách ngăn chặn là “tiêu cực, vô ích và vô luân”. Trong những năm 1960 và 1970, một loạt các vụ phi luân lý– một cuộc chiến tranh đẫm máu và sai trái ở Việt Nam, sự ủng hộ cho một nhóm độc tài xấu xa, những tiết lộ về âm mưu ám sát của CIA – đã thuyết phục nhiều nhà phê bình cấp tiến rằng Hoa Kỳ đang phản bội các giá trị mà nước này tuyên bố bảo vệ. Trong khi đó, việc theo đuổi chính sách hòa dịu với Liên Xô, một chiến lược coi nhẹ sự đối đầu về ý thức hệ nhằm tìm kiếm sự ổn định ngoại giao, đã khiến một số người bảo thủ cáo buộc rằng Washington đang từ bỏ nền tảng luân lý cao cả. Trong suốt những năm 1970 và sau đó, những cuộc tranh luận này đã tác động mạnh mẽ đến chính sách của Hoa Kỳ. Ngay cả trong cuộc thi đua mang tính Manikêô nhất này, chiến lược liên quan đến tính luân lý vẫn là một thách thức liên tục.

Thực thế, những hành vi sai trái trong Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến một loạt ràng buộc phức tạp về mặt pháp lý và hành chính – từ các lệnh cấm ám sát chính trị đến yêu cầu thông báo cho các ủy ban quốc hội về hành động bí mật – hầu hết vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay. Kể từ Chiến tranh Lạnh, những hạn chế này đã được bổ sung bằng việc hạn chế viện trợ cho những kẻ đảo chính lật đổ các chính phủ dân cử và cho các đơn vị quân đội có hành vi vi phạm nhân quyền trắng trợn. Người Mỹ rõ ràng lấy làm tiếc về một số biện pháp họ đã sử dụng để giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh. Câu hỏi đặt ra là liệu họ có thể hoạt động mà không cần chúng khi sự cạnh tranh hoàn cầu lại nóng lên hay không.

Ý TƯỞNG LÀ ĐIỀU ĐÁNG KỂ

Các mối đe dọa từ những kẻ thù chuyên quyền làm tăng thêm xung lực ý thức hệ trong chính sách của Hoa Kỳ bằng cách nhấn mạnh sự xung đột về ý tưởng thường gây ra căng thẳng hoàn cầu. Kể từ khi nhậm chức, Biden đã xác định mối đe dọa từ các đối thủ của Mỹ, đặc biệt là Trung Quốc, bằng những thuật ngữ ý thức hệ rõ ràng.

Thế giới đã đạt đến “điểm uốn cong”, Biden đã nhiều lần tuyên bố như thế. Vào tháng 3 năm 2021, ông gợi ý rằng các nhà sử học tương lai sẽ nghiên cứu “vấn đề ai thành công: chế độ chuyên quyền hay dân chủ”. Về cơ bản, Biden đã lập luận, cạnh tranh Mỹ-Trung là cuộc thử nghiệm xem mô hình nào có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thời hiện đại. Và nếu Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, các quan chức Mỹ lo ngại, nước này sẽ củng cố chế độ chuyên chế ở các quốc gia thân thiện đồng thời ép buộc các chính phủ dân chủ ở các quốc gia thù địch. Hãy chứng kiến cách Bắc Kinh sử dụng đòn bẩy kinh tế để trừng phạt những lời chỉ trích chính sách của họ bởi các xã hội dân chủ từ Úc đến Na Uy. Để làm cho hệ thống trở nên an toàn cho chủ nghĩa phi tự do, một nước Trung Quốc thống trị sẽ khiến nó trở nên không an toàn cho chủ nghĩa tự do gần xa.

Việc Nga xâm lược Ukraine đã củng cố luận điểm của Biden. Nó đưa ra một nghiên cứu điển hình về sự hung hăng và tàn bạo chuyên chế, đồng thời đưa ra lời cảnh báo rằng một thế giới do các quốc gia bất tự do lãnh đạo sẽ bạo lực chết người, nhất là đối với các nền dân chủ dễ bị tổn thương gần đó. Vài tuần sau khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin ký kết quan hệ đối tác chiến lược “không giới hạn”, cuộc xâm lược Ukraine cũng làm dấy lên mối lo ngại về một cuộc tấn công chuyên quyền có phối hợp vào trật tự quốc tế tự do. Biden giải thích rằng Ukraine là mặt trận trung tâm trong một “cuộc chiến lớn hơn cho... nguyên tắc dân chủ thiết yếu.” Vì vậy, Hoa Kỳ sẽ tập hợp thế giới tự do chống lại “kẻ thù truyền kiếp của nền dân chủ”.

Cú sốc của cuộc chiến Ukraine, kết hợp với sự lãnh đạo vững chắc của Hoa Kỳ, đã tạo ra một liên minh dân chủ xuyên Đại Tây Dương mở rộng. Thụy Điển và Phần Lan tìm kiếm tư cách thành viên NATO; phương Tây ủng hộ Ukraine và gây thiệt hại nặng nề cho Nga. Chính quyền Biden cũng tìm cách hạn chế Trung Quốc bằng cách dệt nên một mạng lưới các mối quan hệ dân chủ trên khắp đất nước. Nước Mỹ đã nâng cấp các liên minh song phương với Nhật Bản và Australia. Nó đã cải thiện Quad (đối thoại an ninh và ngoại giao với Australia, Ấn Độ và Nhật Bản) và thiết lập AUKUS (quan hệ đối tác quân sự với Australia và Vương quốc Anh). Và nó đã điều chỉnh lại mục đích của các tổ chức đa phương hiện có, chẳng hạn như G-7, để đối phó với mối nguy hiểm từ Bắc Kinh. Thậm chí còn có những lời xì xào về một liên minh “ba cộng một” – Úc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Đài Loan – sẽ hợp tác để bảo vệ nền dân chủ tiền tuyến đó khỏi sự tấn công của Trung Quốc.

Những mối quan hệ này vượt qua ranh giới khu vực. Ukraine đang nhận được viện trợ từ các nền dân chủ châu Á, chẳng hạn như Hàn Quốc, vốn hiểu rằng an ninh của họ sẽ bị ảnh hưởng nếu trật tự tự do bị rạn nứt. Các nền dân chủ từ nhiều châu lục đã cùng nhau đối đầu với sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc, chống lại sự tăng cường quân sự của nước này và hạn chế khả năng tiếp cận các chất bán dẫn cao cấp của nước này. Vấn đề chính đối với Hoa Kỳ là một liên minh lỏng lẻo của các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại đang vươn ra khỏi cốt lõi của lục địa Á-Âu. Câu trả lời của Biden là một liên minh toàn cầu gắn kết giữa các nền dân chủ, đẩy lùi từ bên lề.

Ngày nay, các nền dân chủ tiên tiến đó đã thống nhất hơn bao giờ hết trong nhiều thập niên qua. Về mặt này, Biden đã điều chỉnh mục tiêu thiết yếu trong chiến lược của Hoa Kỳ, bảo vệ một trật tự tự do đang gặp nguy hiểm, với các phương pháp và đối tác được sử dụng để theo đuổi nó. Tuy nhiên, trên khắp ba khu vực trọng điểm của lục địa Á-Âu, thực tế cạnh tranh phức tạp hơn đang đặt ra câu hỏi mới của Niebuhr.

BẠN BÈ GÂY TRANH CÃI

Hãy xem xét tình hình ở châu Âu. NATO chủ yếu là một liên minh của các nền dân chủ. Nhưng việc cùng nhau duy trì hiệp ước đó trong cuộc chiến tranh Ukraine đã yêu cầu Biden phải hạ thấp xu hướng phi tự do của chính phủ Ba Lan – cho đến khi thất bại trong cuộc bầu cử vào tháng 10 – đã làm xói mòn các cơ chế kiểm tra và cân bằng một cách có hệ thống. Việc bảo vệ sườn phía bắc của mình bằng cách chào đón Phần Lan và Thụy Điển bao gồm cả việc trao đổi ngoại giao với Recep Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ, người, ngoài việc thường xuyên làm tổn hại đến lợi ích của Mỹ, còn đưa đất nước của mình theo hướng cai trị chuyên quyền.

Ở châu Á, chính quyền đã dành phần lớn thời gian trong năm 2021 và 2022 để cẩn thận duy trì mối quan hệ của Mỹ với Philippines, vào thời điểm đó do Rodrigo Duterte lãnh đạo, người có cuộc chiến ma túy đã giết chết hàng nghìn người. Biden đã tích cực coi Ấn Độ như một bức tường thành chống lại Trung Quốc, mặc dù chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi đã hạn chế ngôn luận, quấy rối các lãnh đạo phe đối lập, gây bất bình về tôn giáo và bị cáo buộc sát hại những người bất đồng chính kiến ở nước ngoài. Và sau khi đến thăm New Delhi vào tháng 9 năm 2023, Biden đã tới Hà Nội để ký kết “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với chế độ độc đảng của Việt Nam. Một lần nữa, Hoa Kỳ đang sử dụng một số người cộng sản để kiềm chế những người khác.

Sau đó là Trung Đông, nơi liên minh “thế giới tự do” của Biden là một nhóm khá hỗn tạp. Vào năm 2020, Biden đe dọa sẽ biến Ả Rập Saudi thành “kẻ bị ruồng bỏ” vì vụ sát hại nhà báo Jamal Khashoggi. Đến năm 2023, chính quyền của ông – hoảng sợ trước sự xâm nhập của Trung Quốc và giá khí đốt tăng cao – đang cố gắng biến quốc gia đó trở thành đồng minh hiệp ước mới nhất của Washington. Hơn nữa, sáng kiến đó là một phần của khái niệm được kế thừa từ chính quyền Trump, trong đó sự ổn định trong khu vực sẽ dựa trên sự xích lại gần nhau giữa các chế độ chuyên quyền Ả Rập và một chính phủ Israel có khuynh hướng phi tự do, trong khi nguyện vọng của người Palestine hầu hết bị đẩy sang một bên. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhân quyền và tự do chính trị bị suy giảm trong quan hệ với các quốc gia từ Ai Cập đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Biden cũng không làm được gì nhiều để ngăn chặn sự bóp nghẹt nền dân chủ ở Tunisia — giống như ông đã quyết định từ bỏ nền dân chủ đang bị đe dọa của Afghanistan vào năm 2021 một cách hữu hiệu.

Quả thực, nếu năm 2022 là một năm của những lời hùng biện tăng vọt thì năm 2023 là một năm của những nhượng bộ vụng về. Những đề cập đến “cuộc chiến giữa dân chủ và chuyên quyền” trở nên khan hiếm hơn trong bài phát biểu của Biden, khi chính quyền thực hiện những vở kịch lớn thách thức mô tả đó của thế giới. Các chức vụ chủ chốt liên quan đến nhân quyền tại Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao vẫn còn trống. Chính quyền đã dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt đối với Venezuela – một sáng kiến được công khai mô tả là nỗ lực nhằm đảm bảo các cuộc bầu cử tự do và công bằng hơn, nhưng đó chủ yếu là nỗ lực nhằm khiến một chế độ áp bức ngừng xuất khẩu người tị nạn và bắt đầu xuất khẩu thêm dầu. Và khi chính quyền lật đổ chính phủ dân cử của Niger, các quan chức Mỹ đã đợi hơn hai tháng để gọi cuộc đảo chính là đảo chính, vì sợ dẫn đến việc cắt viện trợ của Mỹ và từ đó đẩy chế độ mới vào vòng tay của Moscow. Những thỏa hiệp như vậy luôn là một phần của chính sách đối ngoại. Nhưng ngày nay, chúng là minh chứng cho những động lực chủ chốt mà các quan chức Mỹ phải đối đầu.

THẬP NIÊN QUYẾT ĐỊNH

Đầu tiên là bài toán tàn khốc của địa chính trị Á-Âu. Các nền dân chủ tiên tiến sở hữu quyền lực vượt trội trên hoàn cầu, nhưng ở mọi khu vực quan trọng, việc giữ vững tiền tuyến đòi hỏi một tập thể mang tính chiết trung hơn.

Ba Lan có những vấn đề trong nước; nó cũng là trụ cột hậu cần của liên minh ủng hộ Ukraine. Thổ Nhĩ Kỳ phi tự do về mặt chính trị và thường không có ích gì; tuy nhiên, nó là nơi giao nhau của hai lục địa và hai biển. Ở Nam và Đông Nam Á, rào cản chính đối với quyền bá chủ của Trung Quốc là dòng đối tác kém lý tưởng chạy từ Ấn Độ đến Indonesia. Ở Trung Đông, một siêu cường kén chọn sẽ là một siêu cường cô độc. Đoàn kết dân chủ thì lớn, nhưng địa lý thì ương ngạnh. Trên khắp lục địa Á-Âu, Washington cần những người bạn phi tự do để kiềm chế những kẻ thù phi tự do của mình.

Chiến trường ý thức hệ cũng đã chuyển dịch theo chiều hướng bất lợi. Trong Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa chống cộng đóng vai trò là chất dính kết ý thức hệ giữa một siêu cường dân chủ và các đồng minh chuyên quyền của nó, bởi vì các đồng minh chuyên quyền của nó biết rằng họ sẽ bị kết liễu nếu Liên Xô chiến thắng. Tuy nhiên, giờ đây, kẻ thù của Hoa Kỳ có một hình thức chuyên quyền ít đe dọa đến sự hiện hữu của các nền phi dân chủ khác: những kẻ độc tài ở Vịnh Ba Tư, hoặc ở Hun gia lợi và Thổ Nhĩ Kỳ, được cho là có nhiều điểm chung với Tập và Putin hơn là với Biden. Khoảng cách giữa những kẻ độc tài “tốt” và “xấu” đã thu hẹp hơn trước đây—điều này khiến Hoa Kỳ phải làm việc chăm chỉ hơn và trả nhiều tiền hơn để giữ các đối tác phi tự do ở bên cạnh một cách bất hoàn hảo.

Các cạnh tranh khốc liệt đưa các quốc gia và các nhà lãnh đạo đến những nơi mà họ chưa bao giờ muốn tới.

Những thời điểm tuyệt vọng cũng kêu gọi các biện pháp khéo léo về mặt luân lý. Khi Washington không phải đối diện với những thách thức chiến lược nghiêm trọng nào sau Chiến tranh Lạnh, họ đã phải trả một mức phạt nhẹ hơn cho việc nêu bật các giá trị của mình. Khi biên độ an toàn co lại, sự đánh đổi giữa quyền lực và nguyên tắc sẽ tăng lên. Hiện nay, chiến tranh—hoặc mối đe dọa của nó—đang đe dọa Đông Á, Châu Âu và Trung Đông. Biden cho rằng những năm 2020 sẽ là “thập niên quyết định” đối với thế giới. Như Winston Churchill đã nói đùa vào năm 1941, “Nếu Hitler xâm chiếm Hỏa ngục, ít nhất tôi sẽ đưa ra một đề cập có lợi về Ác quỷ trong Hạ viện.” Khi các mối đe dọa trở nên nghiêm trọng, các nền dân chủ sẽ làm những gì cần thiết để tập hợp các liên minh và ngăn chặn kẻ thù đột phá. Do đó, điều trớ trêu chính trong cách tiếp cận cạnh tranh của Washington là chính những thách thức kích hoạt năng lực ý thức hệ của họ lại khiến cho việc giữ cho nền ngoại giao của Mỹ trong sạch trở nên khó khăn hơn.

Cho đến nay, những thỏa hiệp về mặt luân lý trong chính sách của Hoa Kỳ ngày nay vẫn còn khiêm tốn so với những thỏa hiệp trong Thế chiến thứ hai hay Chiến tranh Lạnh, một phần vì những hạn chế đối với các phương pháp khó chịu đã mạnh mẽ hơn so với thời Hitler và Stalin rình rập trái đất. Nhưng các quy tắc và chuẩn mực có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh của một quốc gia. Vì vậy, Biden và những người kế nhiệm ông có thể sớm phải đối diện với một thực tế khó khăn: sự cạnh tranh khốc liệt đẩy các quốc gia và các nhà lãnh đạo đến những nơi mà họ chưa bao giờ muốn đến.

Khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, ít quan chức tưởng tượng rằng Washington sẽ tiến hành các hoạt động can thiệp bí mật từ Afghanistan đến Angola. Chỉ ba năm trước, khó ai có thể dự đoán rằng Mỹ sẽ sớm tiến hành một cuộc chiến tranh ủy nhiệm nhằm tiêu diệt quân đội của Putin ở Ukraine. Khi các cuộc cạnh tranh hiện nay trở nên khốc liệt hơn, các chiến thuật được sử dụng để trả thù có thể trở nên cực đoan hơn.

Washington có thể nhận thấy mình đang ngấm ngầm tìm cách nhằm làm nghiêng cán cân trong các cuộc bầu cử ở một quốc gia dễ thay đổi ý kiến (swing) quan trọng nào đó nếu giải pháp thay thế là chứng kiến quốc gia đó chuyển hướng mạnh mẽ sang Moscow hoặc Bắc Kinh. Nó có thể sử dụng biện pháp cưỡng bức để giữ các cơ sở quân sự và cơ sở hạ tầng quan trọng khác của Mỹ Latinh không lọt vào tay Trung Quốc. Và nếu Hoa Kỳ vốn đã có thái độ mâu thuẫn về việc thừa nhận các cuộc đảo chính ở những quốc gia ngoài tầm với, có lẽ nước này sẽ bào chữa cho những hành động tàn bạo lớn hơn nhiều do một đối tác quan trọng hơn thực hiện ở một địa điểm quan trọng hơn.

Những người nghi ngờ việc Washington sẽ dùng đến những thủ đoạn bẩn thỉu đều có trí nhớ ngắn ngủi và trí tưởng tượng hạn chế. Nếu các cuộc cạnh tranh ngày nay thực sự định hình số phận của nhân loại, tại sao một siêu cường cảnh tỉnh lại không làm hầu hết mọi việc để đứng đầu?

ĐỪNG ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH

Không có lý do gì để phải xấu hổ quá mức về điều này. Một quốc gia thiếu tự tin để bảo vệ lợi ích của mình sẽ thiếu sức mạnh để đạt được bất cứ mục tiêu to lớn nào trong sự vụ hoàn cầu. Nói cách khác, thiệt hại mà Hoa Kỳ gây ra cho các giá trị của mình bằng cách lôi kéo các đồng minh đáng ngờ và tham gia vào các hành vi đáng ngờ chắc chắn sẽ ít hơn thiệt hại sẽ xảy ra nếu một nước Nga quá hiếu chiến hoặc một Trung Quốc theo chế độ toàn trị mới mở rộng ảnh hưởng của mình ra khắp Á-Âu và xa hơn nữa. Giống như trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ cuối cùng có thể trả được những món nợ luân lý mà nó phải gánh chịu trong một cuộc đấu tranh lâu dài – nếu nó duy trì thành công một hệ thống trong đó nền dân chủ phát triển mạnh mẽ vì những kẻ thù hung hãn nhất của nó bị đàn áp.

Tuy nhiên, sẽ rất nguy hiểm nếu áp dụng não trạng phương-tiện-biện-minh-cho-cùng-đích thuần túy, bởi vì luôn có một thời điểm mà tại đó, điều xấu có nghĩa là làm hỏng mục đích hợp tình hợp lý. Ngay cả khi thiếu điều đó, tình trạng phi luân lý hàng loạt sẽ chứng tỏ sự ăn mòn về mặt chính trị: một quốc gia có dân số tập hợp lại để bảo vệ các giá trị cũng như lợi ích của mình sẽ không thể mãi mãi ủng hộ một chiến lược dường như gạt bỏ những giá trị đó sang một bên. Và cuối cùng, lỗ hổng lớn nhất của một chiến lược như vậy là nó làm mất đi lợi thế tiềm tàng của Mỹ.

Trong Thế chiến thứ hai, như nhà sử học Richard Overy đã lập luận, chính nghĩa của Đồng minh được nhiều người coi là công bằng và nhân đạo hơn chính nghĩa của phe Trục, đó là một lý do khiến liên minh trước thu hút nhiều quốc gia hơn liên minh sau. Trong Chiến tranh Lạnh, cảm giác Hoa Kỳ ủng hộ các quyền và tự do cơ bản mà Điện Kremlin đàn áp đã giúp Washington thu hút các xã hội dân chủ khác – và thậm chí cả những người bất đồng chính kiến trong khối Xô Viết. Chiến thuật cạnh tranh của các cường quốc không được làm lu mờ vấn đề trọng tâm của cuộc cạnh tranh đó. Nếu thế giới coi các cuộc cạnh tranh ngày nay là những cuộc tranh đấu không có ý nghĩa đạo đức lớn hơn, thì Hoa Kỳ sẽ mất đi sự bất cân xứng về tính chính đáng vốn đã mang lại lợi ích cho họ.

Đây không phải là một số vấn đề nan giải giả định. Kể từ tháng 10 năm 2023, Biden đã đúng khi coi cuộc chiến Israel-Hamas là cuộc đấu tranh giữa một nền dân chủ thiếu sót và một kẻ thù độc tài đang tìm cách hủy diệt nó. Có sự biện minh mạnh mẽ, về mặt luân lý và chiến lược, để ủng hộ một đồng minh của Hoa Kỳ chống lại kẻ ủy quyền xấu xa của kẻ thù của Hoa Kỳ, Iran. Hơn nữa, không có sự so sánh nghiêm túc về mặt đạo đức giữa một nhóm khủng bố hãm hiếp, tra tấn, bắt cóc và giết hại dân thường và một quốc gia chủ yếu cố gắng, trong giới hạn mà chiến tranh áp đặt, để bảo vệ họ.

Tuy nhiên, đúng hay sai, phần lớn miền Nam bán cầu coi cuộc chiến là minh chứng cho tiêu chuẩn kép của Mỹ: phản đối sự chiếm đóng và chiếm đoạt lãnh thổ nước ngoài của Nga chứ không chống đối việc này của Israel, coi trọng mạng sống và quyền tự do của một số nạn nhân hơn của những nạn nhân khác. Các nhà tuyên truyền Nga và Trung Quốc đang khuếch đại những thông điệp này để gây chia rẽ giữa Washington và thế giới đang phát triển. Đây là lý do tại sao chính quyền Biden đã cố gắng, và đôi khi gặp khó khăn, để cân bằng giữa sự hỗ trợ dành cho Israel với nỗ lực giảm thiểu tác hại mà xung đột mang lại — và tại sao cuộc chiến có thể báo trước sự tập trung mới của Hoa Kỳ vào tiến trình hòa bình với người Palestine, vốn không mấy hứa hẹn như hiện nay có vẻ như là. Bài học ở đây là giá trị của một vấn đề có thể bị tranh cãi, nhưng đối với một siêu cường luôn mang các giá trị của mình ở tay áo thì cái giá phải trả cho hành vi đạo đức giả được cho là rất đáng kể.

QUY TẮC ĐỐI THỦ

Do đó, để thành công trong vòng cạnh tranh này sẽ đòi hỏi phải điều chỉnh những thỏa hiệp luân lý vốn có trong chính sách đối ngoại bằng cách tìm ra một đặc tính vừa đủ tàn nhẫn vừa thực tiễn. Mặc dù không có công thức chính xác cho vấn đề này – tính thích đáng của bất cứ hành động nào đều phụ thuộc vào bối cảnh của nó – một số nguyên tắc hướng dẫn có thể hữu ích.

Thứ nhất, luân lý là một chiếc la bàn chứ không phải một đồ trói tay trói chân. Để có được sự bền vững về chính trị và lợi ích chiến lược, nghệ thuật lãnh đạo của Mỹ nên hướng tới một thế giới nhất quán với các giá trị của nó. Nhưng Hoa Kỳ không thể tự làm mình tê liệt bằng cách cố gắng thể hiện đầy đủ những giá trị đó trong mọi quyết định chiến thuật. Cũng như – ngay cả vào thời điểm nền dân chủ của chính họ phải đối diện với những mối đe dọa nội bộ – họ cũng không nên nhất quyết thanh lọc chính mình trong nước trước khi gây ảnh hưởng mang tính xây dựng ở nước ngoài. Nếu làm như vậy, hệ thống sẽ được định hình bởi các chế độ tàn nhẫn hơn – và ít bị xiềng xích bởi sự không hoàn hảo của chính họ.

Hoa Kỳ cũng nên tránh ảo tưởng về giải pháp thay thế sai lầm. Nó phải đánh giá các lựa chọn và đối tác dựa trên những khả thể hợp lý chứ không phải chống lại lý tưởng không tưởng. Giải pháp thay thế thực tiễn cho việc duy trì mối quan hệ với một chế độ quân sự ở Châu Phi có thể là chứng kiến những tên lính đánh thuê đầy sát nhân của Nga lấp đầy khoảng trống. Giải pháp thay thế thực tiễn cho việc lôi kéo Ấn Độ của ông Modi có thể là chứng kiến Nam Á ngày càng rơi dưới cái bóng của một Trung Quốc luôn nỗ lực xuất khẩu chủ nghĩa phi tự do. Tương tự như vậy, gần gũi một chế độ Ả-rập Xê-út vốn luôn chỉ trích chế độ này là điều vô cùng khó chịu. Nhưng giải pháp thay thế thực tiễn cho Thái tử Ả Rập Saudi Mohammed bin Salman có lẽ là một chế độ vẫn khá đàn áp - và ít cam kết trao quyền cho phụ nữ, kiềm chế những người cuồng tín tôn giáo, và mặt khác làm cho đất nước này trở thành một nơi cởi mở, khoan dung hơn. Trong một thế giới có nhiều lựa chọn tệ hại, câu hỏi quan trọng thường là: Tệ hại so với điều gì?

Một nguyên tắc chỉ đạo khác: những điều tốt đẹp không đến cùng một lúc. Các nhà hoạch định chính sách thời Chiến tranh Lạnh đôi khi biện minh cho việc thực hiện đảo chính và ủng hộ các chế độ đàn áp với lý do ngăn cản các nước thuộc Thế giới thứ ba đi theo chủ nghĩa cộng sản để bảo toàn khả năng họ có thể tiến tới dân chủ sau này. Luận lý đó thuận tiện một cách đáng ngờ - và trong nhiều trường hợp, nó đúng. Các quốc gia ở Châu Mỹ Latinh và các khu vực đang phát triển khác cuối cùng đã trải qua sự cởi mở về chính trị khi họ đạt đến trình độ phát triển cao hơn và các giá trị dân chủ lan tỏa từ phương Tây.

Luân lý là một chiếc la bàn, không phải là đồ trói chân trói tay.

Ngày nay, những món hời không đáng có đôi khi có thể dẫn đến những kết quả tốt hơn. Bằng cách không phá vỡ liên minh Mỹ-Philippines trong cuộc chiến chống ma túy của Duterte, Washington đã duy trì mối quan hệ này cho đến khi một chính phủ hợp tác hơn, ít hà khắc hơn xuất hiện. Bằng cách ở gần một chính phủ Ba Lan có một số xu hướng đáng lo ngại, Hoa Kỳ đã câu giờ cho đến cuối năm ngoái, cử tri nước này đã bầu ra một liên minh hứa hẹn sẽ củng cố các thể chế dân chủ của mình. Lập luận tương tự có thể được đưa ra để tiếp tục hợp tác với các nền dân chủ khác, nơi xu hướng chuyên quyền được thể hiện rõ ràng nhưng các cơ chế bầu cử vẫn còn nguyên vẹn – Hung Gia Lợi, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, chỉ kể tên một vài quốc gia. Nói rộng hơn, chủ nghĩa tự do có nhiều khả năng phát triển mạnh mẽ nhất trong một hệ thống được lãnh đạo bởi một nền dân chủ. Vì vậy, chỉ cần ngăn chặn sự trỗi dậy của các chế độ chuyên quyền đầy quyền lực cuối cùng có thể giúp các giá trị dân chủ lan rộng đến những nơi từng là nơi không mấy thân thiện.

Tương tự như vậy, Hoa Kỳ nên nhớ rằng việc có tầm nhìn rộng cũng quan trọng như việc có tầm nhìn dài hạn. Hỗ trợ cho dân chủ và nhân quyền không phải là một đề xuất được tất cả hoặc không có gì. Như tài quản lý của Biden đã cho thấy, các thỏa thuận giao dịch với những kẻ độc tài có thể bổ sung cho một chiến lược nhấn mạnh đến cốt lõi của sự hợp tác dân chủ. Hơn nữa, việc tôn vinh các giá trị của Mỹ không chỉ là vấn đề chỉ trích các chế độ đàn áp. Một chính sách đối ngoại nhằm nâng cao mức sống quốc tế thông qua thương mại, giải quyết các vấn đề toàn cầu như mất an ninh lương thực và giữ vững lập trường chống chiến tranh giữa các cường quốc sẽ phục vụ rất tốt cho phẩm giá con người. Một chiến lược nhấn mạnh những nỗ lực như vậy thực sự có thể hấp dẫn hơn đối với các quốc gia, bao gồm cả các nền dân chủ đang phát triển từ Ba Tây đến Nam Dương, chống lại việc lên khung dân chủ chống chuyên chế vì họ không muốn tham gia bất cứ phần nào của cuộc chiến kiểu Manikêô.

Tất nhiên, những nguyên tắc này có thể giống như một công thức để hợp lý hóa - một cách bào chữa cho hành vi thô thiển nhất bằng cách tuyên bố rằng nó phục vụ cho một mục đích lớn hơn. Sau đó, một nguyên tắc quan trọng khác làm sống lại câu nói của Hamilton rằng phương tiện phải tương xứng với hành vi gây hại. Sự thỏa hiệp càng lớn thì lợi ích mà nó mang lại càng lớn - hoặc thiệt hại mà nó tránh được - càng phải lớn.

Theo tiêu chuẩn này, trường hợp hợp tác với Ấn Độ hoặc Ba Lan là rõ ràng. Những quốc gia này đang gặp khó khăn nhưng hầu hết đều có nền dân chủ đáng ngưỡng mộ, đóng vai trò quan trọng trong các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Cho đến khi thế giới chỉ còn các nền dân chủ tự do, Washington khó có thể tránh khỏi việc tìm kiếm những người bạn có khuyết điểm.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ nên thận trọng hơn trong việc lôi kéo các quốc gia thường xuyên tham gia vào chính những hoạt động mà họ cho là có tính ăn mòn nhất đối với trật tự tự do: tra tấn hoặc giết hại người dân một cách có hệ thống, ép buộc các nước láng giềng hoặc xuất khẩu đàn áp xuyên biên giới, ấy là chỉ kể một vài tên. Ví dụ, một Ả Rập Saudi định kỳ tham gia vào một số hoạt động này sẽ là một đối tác rắc rối. Một Ả Rập Saudi thực hiện những hành động như vậy một cách trắng trợn và liên tục có nguy cơ phá hủy nền tảng luân lý và ngoại giao trong mối quan hệ của họ với Hoa Kỳ. Các quan chức Mỹ nên do dự hơn nữa trong việc bóp méo hoặc gây bất ổn chính trị của các nước khác, đặc biệt là các nền dân chủ khác, vì lợi ích chiến lược. Nếu Washington quay trở lại hoạt động đảo chính ở Mỹ Latinh hoặc Đông Nam Á, thì những kết quả tồi tệ cần ngăn chặn phải thực sự nghiêm trọng - có lẽ là một sự thay đổi lớn, có khả năng kéo dài trong cán cân quyền lực quan trọng trong khu vực - để biện minh cho các chính sách rõ ràng căng thẳng với những lý do mà Hoa Kỳ tuyên bố bảo vệ.

Giảm thiểu tác hại của những nguyên nhân đó có nghĩa là phải tuân theo một nguyên tắc khác: cải thiện bên lề là vấn đề quan trọng.

Washington sẽ không thuyết phục các nhà lãnh đạo ở Thổ Nhĩ Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất hoặc Việt Nam tự sát chính trị bằng cách từ bỏ mô hình trong nước của họ. Nhưng đòn bẩy có tác dụng theo cả hai cách trong những mối quan hệ này. Các quốc gia đang gặp nguy hiểm cần một siêu cường bảo trợ cũng nhiều như nó cần họ. Các quan chức Hoa Kỳ có thể sử dụng đòn bẩy đó để ngăn cản sự đàn áp ngoài lãnh thổ, tìm cách trả tự do cho các tù nhân chính trị, thực hiện các cuộc bầu cử tự do và công bằng hơn một chút, hoặc nói cách khác là đạt được những thay đổi khiêm tốn nhưng có ý nghĩa. Làm như vậy có thể là cái giá phải trả cho việc giữ nguyên các mối quan hệ này, bằng cách thuyết phục những người ủng hộ nhân quyền và dân chủ trong Quốc hội rằng Nhà Trắng vẫn chưa quên hoàn toàn những vấn đề như vậy.

Điều này liên quan đến một nguyên tắc bổ sung: Hoa Kỳ phải thận trọng trung thực với chính mình. Các quan chức Mỹ cần phải thừa nhận rằng các đồng minh phi tự do sẽ là những đồng minh có chọn lọc hoặc không đáng tin cậy vì các mô hình trong nước của họ khiến họ xung đột với các chuẩn mực quan trọng của trật tự tự do – và vì họ có xu hướng tạo ra sự oán giận mà cuối cùng có thể gây ra sự bùng nổ. Tương tự như vậy, vấn đề với luật lệ buộc cắt viện trợ cho những kẻ âm mưu đảo chính là chúng khuyến khích sự tự lừa dối. Trong trường hợp Washington lo ngại hậu quả chiến lược từ sự rạn nứt trong quan hệ, các quan chức Mỹ có động cơ để giả vờ cho rằng một cuộc đảo chính chưa hề xảy ra. Cách tiếp cận tốt hơn, phù hợp với những cải cách đã được Quốc hội thông qua vào tháng 12 năm 2022, là một khuôn khổ cho phép các tổng thống từ bỏ những hạn chế như vậy vì lý do an ninh quốc gia — nhưng buộc họ phải thừa nhận và biện minh cho lựa chọn đó. Công việc tạo ra sự đánh đổi về mặt luân lý trong chính sách đối ngoại bắt đầu bằng việc thừa nhận những sự đánh đổi đó hiện hữu.

Một số nguyên tắc này mâu thuẫn với những nguyên tắc khác, có nghĩa là việc áp dụng chúng trong những trường hợp chuyên biệt luôn phải là việc của phán đoán. Nhưng vấn đề dung hòa các mặt đối lập liên quan đến một nguyên tắc cuối cùng: chủ nghĩa lý tưởng cao siêu và chủ nghĩa hiện thực tàn bạo có thể cùng hiện hữu. Trong những năm 1970, các cuộc tranh luận luân lý đã phá vỡ sự đồng thuận trong Chiến tranh Lạnh. Trong những năm 1980, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã sửa chữa thỏa đáng – nhưng chưa bao giờ khôi phục hoàn toàn – sự đồng thuận đó bằng cách kết hợp tính linh hoạt của chiến thuật với mục đích rõ ràng.

Reagan ủng hộ những kẻ độc tài khiếp đảm, những quân đội sát nhân, và những “chiến binh tự do” côn đồ ở Thế giới thứ ba, đôi khi thông qua những mưu đồ—chẳng hạn như vụ tai tiếng Iran-contra—rất tinh vi hoặc đơn giản là bất hợp pháp. Tuy nhiên, ông cũng ủng hộ các phong trào dân chủ từ Chile tới Hàn Quốc; ông kết hợp những lời lên án khoa trương đối với Điện Kremlin với những lời khẳng định vang dội về các lý tưởng của phương Tây. Bài học rút ra là các biện pháp thô bạo có thể dễ được chấp nhận hơn nếu chúng là một phần của một gói lớn hơn, trong đó nhấn mạnh, bằng lời nói và hành động, những giá trị phải là nền tảng cho cách tiếp cận của Hoa Kỳ với thế giới. Một số người sẽ coi điều này là làm tăng thêm tính đạo đức giả. Trên thực tế, đó là cách tốt nhất để duy trì sự cân bằng – chính trị, luân lý và chiến lược – mà một siêu cường dân chủ đòi hỏi.