1. Đức Thánh Cha Phanxicô nói ‘Tôi thích nghĩ rằng hỏa ngục trống rỗng’
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa có một cuộc phỏng vấn mà chỉ ngay sau đó đã bùng lên những phản ứng trên thế giới. Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, có bài tường trình tương đối ôn hòa với nhan đề “Pope Francis: ‘I like to think of hell as empty’”, nghĩa là “Đức Thánh Cha Phanxicô nói ‘Tôi thích nghĩ rằng hỏa ngục trống rỗng’”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã xuất hiện trên chương trình trò chuyện vào khung giờ vàng nổi tiếng nhất nước Ý vào tối Chúa Nhật, nơi ngài chia sẻ ngài hy vọng hỏa ngục sẽ “trống rỗng” như thế nào.
Ba triệu người ở Ý đã theo dõi cuộc phỏng vấn truyền hình dài gần một giờ với Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày 14 Tháng Giêng, trong đó Đức Thánh Cha phản ứng lại việc phản đối Tuyên ngôn gần đây của Vatican về các phước lành đồng tính, báo trước các chuyến đi sắp tới của Đức Giáo Hoàng đến Polynesia và Á Căn Đình, và phát biểu về nỗi sợ hãi của ngài về vũ khí hạt nhân.
Vị Giáo hoàng 87 tuổi bắt đầu xuất hiện trên chương trình truyền hình “Che Tempo Che Fa” nghĩa là “Thời tiết như thế nào”, bằng cách nói đùa rằng ngài “vẫn còn sống” và không có kế hoạch từ chức.
“Chừng nào tôi còn cảm thấy mình còn khả năng phục vụ thì tôi sẽ tiếp tục. Khi tôi không thể làm được nữa, sẽ đến lúc phải suy nghĩ về điều đó”, Đức Phanxicô nói.
Hỏa ngục 'trống rỗng'?
Khi được người phỏng vấn, Fabio Fazio hỏi, ngài “tưởng tượng hỏa ngục như thế nào”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời ngắn gọn.
“Điều tôi sắp nói không phải là một giáo điều về đức tin mà là quan điểm cá nhân của tôi: Tôi thích nghĩ hỏa ngục là trống rỗng; Tôi hy vọng là như vậy,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói rằng giáo huấn Công Giáo “khẳng định sự tồn tại của hoả ngục và sự vĩnh cửu của nó. Ngay sau khi chết, linh hồn của những người chết trong tình trạng phạm tội trọng sẽ xuống hỏa ngục, nơi họ phải chịu hình phạt của hỏa ngục, là 'ngọn lửa đời đời'. Hình phạt chính của hỏa ngục là sự xa cách vĩnh viễn khỏi Thiên Chúa, là nơi duy nhất con người có thể có được cuộc sống và hạnh phúc mà con người được tạo dựng và khao khát.”
Sách giáo lý cũng nói: “Trong niềm hy vọng, Giáo hội cầu nguyện cho ‘tất cả mọi người được cứu rỗi’”.
Các nhà thần học như Hans Urs von Balthasar trong cuốn sách “Chúng ta có dám hy vọng rằng tất cả mọi người đều được cứu rỗi không?” đã đưa ra khả năng người ta có thể “hy vọng” rằng hỏa ngục có thể trống rỗng vì những gì Chúa Giêsu đã hoàn thành trên thập tự giá, tạo ra sự khác biệt giữa sự cứu rỗi phổ quát như một niềm hy vọng và sự cứu rỗi phổ quát như một học thuyết, là điều mà Hans Urs von Balthasar bác bỏ.
Tuy nhiên, trong cuốn sách năm 2012 có nhan đề “Liệu nhiều người có được cứu không? Vatican II thực sự dạy gì và những hệ quả của nó đối với việc Tân Phúc âm hóa”, nhà truyền giáo Công Giáo người Mỹ Ralph Martin đã viết rằng “điều thúc đẩy các Tông đồ và toàn bộ lịch sử truyền giáo của Kitô giáo là từ mặc khải của Thiên Chúa, họ biết rằng nhân loại sẽ hư mất, hư mất vĩnh viễn, nếu không có Chúa Kitô, và mặc dù có thể xảy ra là trong những điều kiện nghiêm ngặt nhất định người ta có thể được cứu rỗi mà không có đức tin rõ ràng và chưa được rửa tội, nhưng 'rất thường xuyên', thực tế không phải như vậy.”
Túy Vân xin mở ngoặc để tóm tắt rằng có hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất, như Hans Urs von Balthasar, cho rằng Chúa Giêsu đã hoàn thành việc cứu rỗi nhân loại trên thập tự giá, và như thế mọi người sẽ được cứu, và, do đó, hỏa ngục là trống rỗng. Khuynh hướng thứ hai, như Ralph Martin, cho rằng ơn Cứu Độ không tự động dành cho tất cả mọi người. Để được sống đời đời, người ta cần phải sống trong ân nghĩa với Chúa. Như thế, hỏa ngục không phải là trống rỗng. Gian dâm, ngoại tình, trộm cắp, giết người cướp của và nhiều thứ tội ác khác, sẽ đưa ta đến đó. Chính vì thế, trong lời truyền phép, linh mục dùng cụm từ “cho nhiều người được tha tội” không phải “cho mọi người được tha tội”. “Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Đức Thánh Cha Phanxicô trước đây đã nói về sự tồn tại của hỏa ngục trong các bài phát biểu trước công chúng trong suốt 10 năm triều đại giáo hoàng của ngài. Vào tháng 3 năm 2014, ngài nói trong một bài phát biểu rằng các thành viên Mafia nên thay đổi cuộc sống của họ “khi vẫn còn thời gian, để bạn không phải rơi vào hỏa ngục. Đó là điều đang chờ đợi bạn nếu bạn tiếp tục đi trên con đường này.”
Một chuyến đi được chờ đợi từ lâu đến Á Căn Đình?
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng xác nhận rằng ngài dự định đến Polynesia vào tháng 8 và chuyến đi tiềm năng tới quê hương Á Căn Đình của ngài có thể diễn ra vào cuối năm 2024.
Đức Thánh Cha, người từng là tổng giám mục của Buenos Aires trong 15 năm, đã không trở lại Á Căn Đình kể từ khi ngài trở thành giáo hoàng vào năm 2013.
Tổng thống mới của Á Căn Đình, Javier Milei, đã gửi cho Đức Thánh Cha Phanxicô lời mời chính thức về thăm quê hương của ngài vào đầu tháng này.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ngài muốn đến Á Căn Đình “nếu điều đó có thể thực hiện được” và cũng lưu ý rằng đây là “thời điểm khó khăn đối với đất nước”.
“Tôi lo lắng vì mọi người đang phải chịu đựng quá nhiều,” ngài nói.
Đức Thánh Cha Phanxicô sợ điều gì?
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói nhiều trong cuộc phỏng vấn về mong muốn hòa bình trong các cuộc chiến ở Ukraine và Thánh địa, đồng thời nói với người dẫn chương trình truyền hình rằng ngài nói chuyện hàng ngày với giáo xứ Công Giáo ở Gaza qua điện thoại.
Khi được hỏi điều gì khiến ngài sợ hãi, Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời rằng “sự leo thang của chiến tranh làm tôi sợ hãi”, làm dấy lên bóng ma chiến tranh hạt nhân.
Ngài nói rằng với tiềm năng vũ khí hạt nhân có thể “hủy diệt mọi thứ”, người ta tự hỏi “kết cục của chúng ta sẽ như thế nào, giống như con tàu của Nô-ê chăng?”
“Điều đó làm tôi sợ – khả năng tự hủy diệt mà nhân loại ngày nay có,” Đức Phanxicô nói.
Đây là lần thứ hai Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện trên “Che Tempo Che Fa”, chương trình thường phát sóng các cuộc phỏng vấn trực tiếp với các chính trị gia, những người nổi tiếng, nghệ sĩ và vận động viên. Khách mời gần đây của chương trình bao gồm cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama năm 2021 và Lady Gaga.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói chuyện với chương trình truyền hình được ghi hình ở Milan, miền bắc nước Ý, cách xa Vatican.
Tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô liên tục xin cầu nguyện
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng được hỏi tại sao ngài kết thúc mọi bài phát biểu và yêu cầu mọi người cầu nguyện cho ngài.
Đức Thánh Cha trả lời: “Bởi vì tôi là một người tội lỗi và tôi cần sự giúp đỡ của Chúa để luôn trung thành với ơn gọi mà Ngài đã ban cho tôi”.
“Là một giám mục, tôi có trách nhiệm rất lớn đối với Giáo hội. Tôi nhận ra những điểm yếu của mình - đó là lý do tại sao tôi phải cầu nguyện, cầu cho mọi người cầu nguyện cho tôi luôn trung thành phục vụ Chúa, để tôi không rơi vào thái độ của một mục tử tầm thường, không chăm sóc đàn chiên của mình.” ngài nói thêm.
2. Giáo Hội càng thêm hoang mang về chúc lành đồng tính. Phân tích của ba Giáo sư Hoa Kỳ sau thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin
Giáo sư John Finnis là Giáo sư danh dự về Luật và Triết học pháp lý tại Đại học Oxford và phục vụ trong Ủy ban Thần học Quốc tế về Giáo lý Đức tin từ năm 1986 đến năm 1991.
Giáo sư Robert P. George là Giáo sư Luật học tại Đại học Princeton.
Giáo sư Peter Ryan, là linh mục Dòng Tên là Chủ tịch phụ trách Đạo đức Đời sống tại Đại Chủng viện Thánh Tâm và từng là giám đốc điều hành của Ủy ban Giáo lý và Giáo luật của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ từ năm 2013 đến năm 2016.
Ba vị vừa có bài bình luận về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans và thông cáo báo chí sau đó trên tờ First Things với nhan đề “The Church Sows More Confusion About Same-Sex Blessings”, nghĩa là “Giáo Hội càng thêm hoang mang về chúc lành đồng tính”.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Vào ngày 18 tháng 12, Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa thánh đã công bố Fiducia Supplicans. Tuyên ngôn đó tuyên bố rằng các linh mục có thể chúc lành một cách tự phát cho các cặp vợ chồng trong những tình huống “bất thường”—ví dụ, các cặp “tái hôn” hoặc đồng tính—trong một số giới hạn nhất định. Những giới hạn đó được cho là để bảo vệ chứng tá của Giáo hội đối với những giáo huấn của Giáo hội về đạo đức tình dục và hôn nhân, những sự thật mà lý trí và sự mặc khải thiêng liêng có thể nhận biết được. Tuy nhiên, nhiều giám mục và hội đồng giám mục đã bày tỏ lo ngại rằng việc ban phép lành như vậy sẽ cản trở chứng tá đó, làm suy yếu giáo huấn của Giáo hội rằng (1) hôn nhân là sự kết hợp bất khả phân ly giữa vợ chồng và (2) mọi hành vi tình dục ngoài hôn nhân đều là tội trọng.
Đáp lại, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã đưa ra một thông cáo báo chí nhằm làm rõ Fiducia Supplicans. Nhưng thông cáo báo chí hoàn toàn không đầy đủ. Tuân theo nó sẽ không ngăn chặn được tác hại nghiêm trọng mà Bộ Giáo Lý Đức Tin cho rằng họ hy vọng sẽ tránh được. Mười ba đoạn văn dưới đây giải thích lý do tại sao chúng tôi kêu gọi các giám mục và linh mục không nên cho phép hoặc ban phép lành đang được đề cập: những trường hợp mà những phép lành như thế có thể không gây tổn hại nghiêm trọng là rất hiếm, nếu không muốn nói là trên thực tế, không hế tồn tại—ít nhất là khi không có những điều kiện mà chúng tôi sẽ đề cập đến.
1. Với một ngoại lệ nhỏ, được thảo luận dưới đây, thông cáo báo chí chỉ nhấn mạnh các khía cạnh của Fiducia Supplicans khiến nó trở thành trở ngại cho việc truyền bá, bảo vệ và sống theo lời dạy của phúc âm về đạo đức tình dục.
2. Thông cáo báo chí khẳng định rằng Fiducia Supplicans, là một Tuyên ngôn, “không chỉ là một phản hồi hay một lá thư.” Nhưng cả hai tài liệu đều bỏ qua giáo huấn phúc âm có liên quan một cách trọng tâm đã được tái khẳng định trong Tuyên ngôn trước đây của cùng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đó là Tuyên ngôn Persona Humana được công bố ngày 29 tháng 12 năm 1975 bàn về luân lý tính dục.
3. “Việc tuân thủ luật luân lý trong lĩnh vực tính dục và thực hành khiết tịnh đã bị đe dọa đáng kể, đặc biệt là nơi những Kitô hữu kém nhiệt thành, bởi xu hướng hiện nay là nếu không thể phủ nhận thẳng thừng thì người ta giảm thiểu đến mức có thể thực tại nghiêm trọng của tội lỗi, ít nhất là trong đời sống thực tế của con người....
Một người... phạm tội trọng không chỉ khi hành động của anh ta xuất phát từ sự khinh miệt trực tiếp đối với tình yêu Thiên Chúa và người lân cận, mà còn khi anh ta có ý thức và tự do, vì bất cứ lý do gì, chọn một điều gì đó vô trật tự nghiêm trọng. Vì trong sự lựa chọn này... đã bao gồm cả sự khinh thường giới răn của Thiên Chúa: con người quay lưng lại với Thiên Chúa và đánh mất lòng bác ái. Hiện nay, theo truyền thống Kitô giáo và giáo huấn của Giáo hội, và như lý trí đúng đắn cũng thừa nhận, trật tự luân lý về tính dục bao hàm những giá trị cao quý của sự sống con người đến nỗi mọi vi phạm trực tiếp trật tự này đều là nghiêm trọng về mặt khách quan....
Do đó, các mục tử của các linh hồn phải thực hành lòng kiên nhẫn và lòng nhân hậu; nhưng họ không được phép vô hiệu hóa các điều răn của Chúa, cũng như không được phép giảm bớt trách nhiệm của con người một cách vô lý. “Không hề giảm bớt giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô là một hình thức bác ái cao cả dành cho các linh hồn. Nhưng điều này phải luôn đi kèm với sự kiên nhẫn và lòng nhân hậu, như chính Chúa đã nêu gương khi đối xử với mọi người. Ngài đến không phải để kết án mà để cứu rỗi, Ngài thực sự không khoan nhượng với sự ác nhưng thương xót từng người”.
Cũng như Fiducia Supplicans, thông cáo báo chí quanh co né tránh sử dụng từ “tội lỗi”, chứ đừng nói đến “tội trọng” hoặc “tội đặc biệt nghiêm trọng” khi nói về “các kết hợp bất thường”. Thông cáo báo chí chỉ đề cập đến tội lỗi khi đề cập đến lời cầu xin phước lành mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện. Những tài liệu tham khảo này gợi ý, nếu không muốn nói là khẳng định, rằng không có sự khác biệt quan trọng về mặt đạo đức hoặc mục vụ giữa (a) chúc lành cho những người chẳng may sa ngã nhất thời, và (b) chúc lành cho những người là những bên tham gia vào một mối quan hệ được thể hiện bằng hành vi tội lỗi. Chưa bao giờ Giáo hội cho phép ban phép lành theo một mô tả xác định người nhận bằng cách nhắc đến tội lỗi của họ (ví dụ: chẳng bao giờ có một lời chúc phúc dành riêng cho những người viết phim khiêu dâm chẳng hạn).
4. Do đó, thông cáo báo chí (và cả Tuyên ngôn Fiducia Supplicans) đã bỏ qua điều mà Tuyên ngôn Persona Humana coi là trọng tâm: đó là học thuyết Kitô giáo về đạo đức tình dục phải đối mặt với những mối đe dọa chưa từng có trong thời đại chúng ta. Persona Humana lưu ý (1) sự biến mất của các chuẩn mực pháp lý, xã hội và văn hóa từng ủng hộ học thuyết Kitô Giáo về đạo đức tình dục; (2) sự xuất hiện của các quy tắc làm xói mòn đức tin nơi các tín hữu, con cái của họ và bất kỳ ai mà họ có thể truyền giáo; và (3) sự lan rộng trong Giáo hội những quan điểm thần học và thực hành mục vụ thách thức giáo lý đó. Những mối đe dọa này bây giờ còn dữ dội hơn nhiều. Và đối với họ, người ta có thể thêm một yếu tố mà Tuyên ngôn Persona Humana không hề ngờ tới: là (4) sự ưu ái của Tòa thánh đối với những người trong Giáo hội khét tiếng vì sự bác bỏ học thuyết đó một cách công khai hoặc bóng gió, và thậm chí còn ưu ái trong việc bổ nhiệm những người ấy.
5. Trong hoàn cảnh này, nhiều độc giả của Fiducia Supplicans đã nghĩ rằng trong đời thực sẽ là thiếu thận trọng nếu cố gắng vạch ra và không thể duy trì được sự phân biệt mà Tuyên ngôn đề cập đến: giữa (a) chúc lành cho các mối quan hệ tội lỗi và (b) chúc phúc cho những cá nhân trong “cặp” liên quan đến những mối quan hệ như vậy. Hoặc ít nhất, nhiều người đã nghi ngờ rằng các cặp hoặc những người tham gia vào các chúc lành ấy thực sự có thể phân biệt và đánh giá cao sự khác biệt này trừ khi các giám mục chấp thuận, hoặc các linh mục ban những phép lành như thế đặt ra một số điều kiện:
rằng thừa tác viên không được có ý định hợp pháp hóa bất cứ điều gì và phải bảo đảm rằng phép lành thậm chí không giống với phép lành phụng vụ (FS §§39-40);
rằng các mục tử phải tuyên bố rõ ràng với những người có mặt rằng ngài, giống như Giáo hội, “không có ý định hợp pháp hóa bất cứ điều gì”;
rằng thừa tác viên phải chỉ định rằng lời cầu nguyện không phải là một phép lành của sự kết hợp mà là một điều gì đó giống như một “Lời kêu cầu và chuyển cầu” để được hướng dẫn và ân sủng của Thiên Chúa, bao gồm cả ân sủng hoán cải khỏi tội lỗi;
rằng cặp đó không được có ý định xin chúc phúc như một cách nào đó để hợp pháp hóa tình trạng của họ (§31); Và
rằng trước tiên họ phải nói rõ với mục tử rằng cả họ và bất kỳ ai giúp đỡ họ đều không coi lời chúc phúc là một sự hợp pháp hóa kết hiệp của họ.
Những điều kiện như vậy sẽ hỗ trợ đầy đủ cho lý luận của Fiducia Supplicans, mặc dù bản thân Tuyên bố có thể được hiểu là hướng dẫn các mục tử không được đặt ra bất cứ điều kiện nào. Nếu không có những điều kiện như thế, các phúc lành đang được đề cập sẽ gây ra gương mù trên hết cho các cặp đang tìm kiếm chúng, những người hơn ai hết cần được dạy giáo lý về chính những sự thật bị che khuất bởi các phúc lành đó. Vì vậy, việc từ bỏ những điều kiện như trên là một hành vi vô trách nhiệm nghiêm trọng về mặt mục vụ.
6. Để phản đối việc các mục tử và các thừa tác vụ đưa ra những điều kiện như vậy, thông cáo báo chí nói như thể chỉ cần ý định không gửi thông điệp chấp thuận của bộ trưởng (hoặc Bộ Giáo Lý Đức Tin) mà thôi - là đủ để ngăn cản những người khác cảm nhận bất kỳ thông điệp tán thành nào như vậy: Bởi vì theo mô tả lý tưởng hóa của Bộ Giáo Lý Đức Tin ( § 5.2) “hình thức chúc lành không theo nghi thức “, với “ sự đơn giản và ngắn gọn “ “ không có ý biện minh cho bất cứ điều gì không được chấp nhận về mặt đạo đức “ và “ chỉ là phản ứng của một mục tử đối với hai người cầu xin sự giúp đỡ của Chúa”, do đó, “ mục tử không thể áp đặt các điều kiện....”
7. Bằng cách từ chối những điều kiện có thể biến mô tả đó thành hiện thực, thông cáo báo chí gần như bảo đảm rằng mọi người sẽ bỏ qua sự khác biệt giữa việc chúc phúc cho các cá nhân và việc chúc phúc cho sự kết hợp tội lỗi của họ. Tuy nhiên, sự khác biệt đó được thừa nhận là rất quan trọng đối với Tuyên ngôn, chưa kể đến Bản phúc trình năm 2021 (mà Tuyên ngôn tuyên bố sẽ giữ nguyên) trong đó khẳng định rằng Giáo hội không thể chúc lành cho những kết hợp đồng giới và các kết hợp tội lỗi khác.
8. Một ngoại lệ đối với việc thông cáo báo chí nhấn mạnh các khía cạnh có vấn đề của Fiducia Supplicans là tuyên bố của nó rằng “việc chúc lành không được diễn ra ở một nơi nổi bật trong một tòa nhà thiêng liêng, hoặc trước bàn thờ, vì điều này cũng [tức là, giống như bất kỳ nghi lễ đám cưới nào] sẽ tạo ra sự nhầm lẫn. “ Nhưng cả điều kiện này cũng chưa bắt đầu đối mặt với những hoàn cảnh trong thế giới thực sẽ làm suy yếu mạnh mẽ bất kỳ nỗ lực nào nhằm phân biệt việc chúc lành cho những cá nhân; với việc chúc lành cho những kết hợp công khai vô đạo đức của họ.
9. Những trường hợp như vậy bao gồm những trường hợp sau: Bộ Giáo Lý Đức Tin phớt lờ hoặc từ chối khẳng định rằng cặp đó và vị mục tử rõ ràng bác bỏ mọi ý định hoặc hy vọng rằng lời chúc phúc sẽ hợp pháp hóa mối quan hệ tình dục theo bất kỳ cách nào. Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng không xem xét rằng các sự kiện không xảy ra ở “địa điểm nổi bật trong tòa nhà thiêng liêng” vẫn có thể xảy ra trong tòa nhà linh thiêng và những gì xảy ra “riêng tư” có thể được chụp ảnh hoặc ghi lại và phổ biến rộng rãi. Bộ Giáo Lý Đức Tin nói và nhắc lại rằng những lời chúc phúc đang được đề cập sẽ là “tự phát”; nó không giải quyết được vô số trường hợp mà chúng sẽ được lên kế hoạch trước. Và thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin rõ ràng là im lặng về phản ứng đối với Tuyên ngôn của các giáo sĩ, là những người đã làm suy yếu một cách rõ ràng sự khác biệt giữa việc chúc phúc cho các cá nhân và việc chúc phúc cho sự kết hợp. Những người này bao gồm các giáo sĩ đã sắp xếp để công chúng chụp ảnh trên toàn thế giới để chúc phúc cho một cặp đôi đồng giới trong những hoàn cảnh xóa bỏ sự phân biệt—ví dụ: trong khi linh mục đeo khăn choàng cầu vồng hoặc cặp đôi nắm tay nhau một cách lãng mạn.
10. Trong nỗ lực xoa dịu những lo ngại của các giám mục, thông cáo báo chí chỉ xem xét một trong nhiều kịch bản khác nhau trong đó có thể tìm kiếm một phước lành. Và đó là một ví dụ khác xa với những trường hợp trong thế giới thực được hình dung bởi những người đã ép Giáo hội ban hành những phước lành mới. Trong “ví dụ cụ thể” được xem xét ở mục 5, không có gì về cặp đôi cho những người đang quan sát họ (có mặt tại chỗ hoặc trên mạng xã hội) thấy rằng mối quan hệ này là “bất thường” hoặc vô đạo đức, và cặp đôi không bao giờ ám chỉ rằng họ đang tìm kiếm một phước lành về quan hệ tình dục của họ (trái ngược với sự giúp đỡ từ Chúa để tìm việc làm và vượt qua bệnh tật, v.v.). Ngược lại, các trường hợp trong thế giới thực chủ yếu liên quan đến các cặp đôi có thái độ hoặc hoàn cảnh khác cho thấy rõ ràng rằng họ có quan hệ tình dục và, trong trường hợp các cặp đồng giới, một cặp được coi là vô đạo đức vì rõ ràng là không thể thực hiện được quan hệ tình dục để trở thành vợ chồng.
11. Thông cáo báo chí yêu cầu các giám mục và hội đồng giám mục (sau khi suy xét kỹ lưỡng) bổ sung thẩm quyền của họ vào cùng với thẩm quyền do Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra, và không đặt ra thêm điều kiện nào. Tuy nhiên, một số điều kiện được Bộ Giáo Lý Đức Tin cho phép chỉ nhằm mục đích tránh nhầm lẫn với đám cưới. Những điều kiện đó không được thiết kế để duy trì sự phân biệt giữa việc chúc lành cho những người, và việc chúc lành cho những hành vi tội lỗi mà họ thể hiện là sẵn sàng tham gia. Và thông cáo báo chí cũng không cấm các giám mục và các linh mục không được gợi ý (hoặc bày tỏ hy vọng) rằng Tuyên ngôn đánh dấu một bước hướng tới việc Giáo hội chấp thuận về mặt đạo đức đối với các mối quan hệ tình dục đồng giới và ngoài hôn nhân khác. Điều này cũng làm suy yếu nghiêm trọng sự khác biệt mà Fiducia Supplicans đã khẳng định.
12. Tất cả những sự im lặng và tự mãn này, tuy không phủ nhận giáo lý Công Giáo về hoạt động tình dục, nhưng có xu hướng gợi ý rằng giáo lý đó không quan trọng lắm. Họ cho rằng cùng lắm đó là vấn đề lý tưởng, hơn là những vấn đề tuyệt đối đạo đức mà lý trí có thể nhận biết được và được xác nhận bởi mặc khải thiêng liêng. Nhưng lòng thương xót thực sự và lòng bác ái cao cả được Persona Humana tán dương – là lòng bác ái không bao giờ làm suy giảm giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô – đòi hỏi các mục tử phải giảng dạy một cách thẳng thắn những gì Thánh Phaolô đã dạy (xem 1 Cô-rinh-tô 6:9-11): Để tìm được ơn cứu độ, người ta phải giữ vững sự thánh hóa nhận được khi rửa tội bằng cách tránh xa và ăn năn mọi tội trọng, kể cả tội tình dục. Sự thật đang bị đe dọa, mà các mục tử có trách nhiệm nghiêm chỉnh phải truyền đạt, đó là các hành vi tình dục là vô đạo đức trầm trọng trừ khi chúng thể hiện và hiện thực hóa một sự kết hợp hôn nhân cam kết và độc quyền, một loại kết hợp trong đó những con người mới có quyền được sinh ra và nuôi dạy.
13. Bằng cách khen ngợi một thực hành mà nếu không có tất cả các điều kiện cần thiết, sẽ che khuất sự thật về đức tin và lý trí, cặp tài liệu của Bộ Giáo Lý Đức Tin đang tạo ra một trở ngại mới to lớn cho việc hoàn thành trách nhiệm mục vụ cũng là một mệnh lệnh của việc truyền giáo.
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa có một cuộc phỏng vấn mà chỉ ngay sau đó đã bùng lên những phản ứng trên thế giới. Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, có bài tường trình tương đối ôn hòa với nhan đề “Pope Francis: ‘I like to think of hell as empty’”, nghĩa là “Đức Thánh Cha Phanxicô nói ‘Tôi thích nghĩ rằng hỏa ngục trống rỗng’”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã xuất hiện trên chương trình trò chuyện vào khung giờ vàng nổi tiếng nhất nước Ý vào tối Chúa Nhật, nơi ngài chia sẻ ngài hy vọng hỏa ngục sẽ “trống rỗng” như thế nào.
Ba triệu người ở Ý đã theo dõi cuộc phỏng vấn truyền hình dài gần một giờ với Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày 14 Tháng Giêng, trong đó Đức Thánh Cha phản ứng lại việc phản đối Tuyên ngôn gần đây của Vatican về các phước lành đồng tính, báo trước các chuyến đi sắp tới của Đức Giáo Hoàng đến Polynesia và Á Căn Đình, và phát biểu về nỗi sợ hãi của ngài về vũ khí hạt nhân.
Vị Giáo hoàng 87 tuổi bắt đầu xuất hiện trên chương trình truyền hình “Che Tempo Che Fa” nghĩa là “Thời tiết như thế nào”, bằng cách nói đùa rằng ngài “vẫn còn sống” và không có kế hoạch từ chức.
“Chừng nào tôi còn cảm thấy mình còn khả năng phục vụ thì tôi sẽ tiếp tục. Khi tôi không thể làm được nữa, sẽ đến lúc phải suy nghĩ về điều đó”, Đức Phanxicô nói.
Hỏa ngục 'trống rỗng'?
Khi được người phỏng vấn, Fabio Fazio hỏi, ngài “tưởng tượng hỏa ngục như thế nào”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời ngắn gọn.
“Điều tôi sắp nói không phải là một giáo điều về đức tin mà là quan điểm cá nhân của tôi: Tôi thích nghĩ hỏa ngục là trống rỗng; Tôi hy vọng là như vậy,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói rằng giáo huấn Công Giáo “khẳng định sự tồn tại của hoả ngục và sự vĩnh cửu của nó. Ngay sau khi chết, linh hồn của những người chết trong tình trạng phạm tội trọng sẽ xuống hỏa ngục, nơi họ phải chịu hình phạt của hỏa ngục, là 'ngọn lửa đời đời'. Hình phạt chính của hỏa ngục là sự xa cách vĩnh viễn khỏi Thiên Chúa, là nơi duy nhất con người có thể có được cuộc sống và hạnh phúc mà con người được tạo dựng và khao khát.”
Sách giáo lý cũng nói: “Trong niềm hy vọng, Giáo hội cầu nguyện cho ‘tất cả mọi người được cứu rỗi’”.
Các nhà thần học như Hans Urs von Balthasar trong cuốn sách “Chúng ta có dám hy vọng rằng tất cả mọi người đều được cứu rỗi không?” đã đưa ra khả năng người ta có thể “hy vọng” rằng hỏa ngục có thể trống rỗng vì những gì Chúa Giêsu đã hoàn thành trên thập tự giá, tạo ra sự khác biệt giữa sự cứu rỗi phổ quát như một niềm hy vọng và sự cứu rỗi phổ quát như một học thuyết, là điều mà Hans Urs von Balthasar bác bỏ.
Tuy nhiên, trong cuốn sách năm 2012 có nhan đề “Liệu nhiều người có được cứu không? Vatican II thực sự dạy gì và những hệ quả của nó đối với việc Tân Phúc âm hóa”, nhà truyền giáo Công Giáo người Mỹ Ralph Martin đã viết rằng “điều thúc đẩy các Tông đồ và toàn bộ lịch sử truyền giáo của Kitô giáo là từ mặc khải của Thiên Chúa, họ biết rằng nhân loại sẽ hư mất, hư mất vĩnh viễn, nếu không có Chúa Kitô, và mặc dù có thể xảy ra là trong những điều kiện nghiêm ngặt nhất định người ta có thể được cứu rỗi mà không có đức tin rõ ràng và chưa được rửa tội, nhưng 'rất thường xuyên', thực tế không phải như vậy.”
Túy Vân xin mở ngoặc để tóm tắt rằng có hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất, như Hans Urs von Balthasar, cho rằng Chúa Giêsu đã hoàn thành việc cứu rỗi nhân loại trên thập tự giá, và như thế mọi người sẽ được cứu, và, do đó, hỏa ngục là trống rỗng. Khuynh hướng thứ hai, như Ralph Martin, cho rằng ơn Cứu Độ không tự động dành cho tất cả mọi người. Để được sống đời đời, người ta cần phải sống trong ân nghĩa với Chúa. Như thế, hỏa ngục không phải là trống rỗng. Gian dâm, ngoại tình, trộm cắp, giết người cướp của và nhiều thứ tội ác khác, sẽ đưa ta đến đó. Chính vì thế, trong lời truyền phép, linh mục dùng cụm từ “cho nhiều người được tha tội” không phải “cho mọi người được tha tội”. “Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Đức Thánh Cha Phanxicô trước đây đã nói về sự tồn tại của hỏa ngục trong các bài phát biểu trước công chúng trong suốt 10 năm triều đại giáo hoàng của ngài. Vào tháng 3 năm 2014, ngài nói trong một bài phát biểu rằng các thành viên Mafia nên thay đổi cuộc sống của họ “khi vẫn còn thời gian, để bạn không phải rơi vào hỏa ngục. Đó là điều đang chờ đợi bạn nếu bạn tiếp tục đi trên con đường này.”
Một chuyến đi được chờ đợi từ lâu đến Á Căn Đình?
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng xác nhận rằng ngài dự định đến Polynesia vào tháng 8 và chuyến đi tiềm năng tới quê hương Á Căn Đình của ngài có thể diễn ra vào cuối năm 2024.
Đức Thánh Cha, người từng là tổng giám mục của Buenos Aires trong 15 năm, đã không trở lại Á Căn Đình kể từ khi ngài trở thành giáo hoàng vào năm 2013.
Tổng thống mới của Á Căn Đình, Javier Milei, đã gửi cho Đức Thánh Cha Phanxicô lời mời chính thức về thăm quê hương của ngài vào đầu tháng này.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ngài muốn đến Á Căn Đình “nếu điều đó có thể thực hiện được” và cũng lưu ý rằng đây là “thời điểm khó khăn đối với đất nước”.
“Tôi lo lắng vì mọi người đang phải chịu đựng quá nhiều,” ngài nói.
Đức Thánh Cha Phanxicô sợ điều gì?
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói nhiều trong cuộc phỏng vấn về mong muốn hòa bình trong các cuộc chiến ở Ukraine và Thánh địa, đồng thời nói với người dẫn chương trình truyền hình rằng ngài nói chuyện hàng ngày với giáo xứ Công Giáo ở Gaza qua điện thoại.
Khi được hỏi điều gì khiến ngài sợ hãi, Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời rằng “sự leo thang của chiến tranh làm tôi sợ hãi”, làm dấy lên bóng ma chiến tranh hạt nhân.
Ngài nói rằng với tiềm năng vũ khí hạt nhân có thể “hủy diệt mọi thứ”, người ta tự hỏi “kết cục của chúng ta sẽ như thế nào, giống như con tàu của Nô-ê chăng?”
“Điều đó làm tôi sợ – khả năng tự hủy diệt mà nhân loại ngày nay có,” Đức Phanxicô nói.
Đây là lần thứ hai Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện trên “Che Tempo Che Fa”, chương trình thường phát sóng các cuộc phỏng vấn trực tiếp với các chính trị gia, những người nổi tiếng, nghệ sĩ và vận động viên. Khách mời gần đây của chương trình bao gồm cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama năm 2021 và Lady Gaga.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói chuyện với chương trình truyền hình được ghi hình ở Milan, miền bắc nước Ý, cách xa Vatican.
Tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô liên tục xin cầu nguyện
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng được hỏi tại sao ngài kết thúc mọi bài phát biểu và yêu cầu mọi người cầu nguyện cho ngài.
Đức Thánh Cha trả lời: “Bởi vì tôi là một người tội lỗi và tôi cần sự giúp đỡ của Chúa để luôn trung thành với ơn gọi mà Ngài đã ban cho tôi”.
“Là một giám mục, tôi có trách nhiệm rất lớn đối với Giáo hội. Tôi nhận ra những điểm yếu của mình - đó là lý do tại sao tôi phải cầu nguyện, cầu cho mọi người cầu nguyện cho tôi luôn trung thành phục vụ Chúa, để tôi không rơi vào thái độ của một mục tử tầm thường, không chăm sóc đàn chiên của mình.” ngài nói thêm.
2. Giáo Hội càng thêm hoang mang về chúc lành đồng tính. Phân tích của ba Giáo sư Hoa Kỳ sau thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin
Giáo sư John Finnis là Giáo sư danh dự về Luật và Triết học pháp lý tại Đại học Oxford và phục vụ trong Ủy ban Thần học Quốc tế về Giáo lý Đức tin từ năm 1986 đến năm 1991.
Giáo sư Robert P. George là Giáo sư Luật học tại Đại học Princeton.
Giáo sư Peter Ryan, là linh mục Dòng Tên là Chủ tịch phụ trách Đạo đức Đời sống tại Đại Chủng viện Thánh Tâm và từng là giám đốc điều hành của Ủy ban Giáo lý và Giáo luật của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ từ năm 2013 đến năm 2016.
Ba vị vừa có bài bình luận về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans và thông cáo báo chí sau đó trên tờ First Things với nhan đề “The Church Sows More Confusion About Same-Sex Blessings”, nghĩa là “Giáo Hội càng thêm hoang mang về chúc lành đồng tính”.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Vào ngày 18 tháng 12, Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa thánh đã công bố Fiducia Supplicans. Tuyên ngôn đó tuyên bố rằng các linh mục có thể chúc lành một cách tự phát cho các cặp vợ chồng trong những tình huống “bất thường”—ví dụ, các cặp “tái hôn” hoặc đồng tính—trong một số giới hạn nhất định. Những giới hạn đó được cho là để bảo vệ chứng tá của Giáo hội đối với những giáo huấn của Giáo hội về đạo đức tình dục và hôn nhân, những sự thật mà lý trí và sự mặc khải thiêng liêng có thể nhận biết được. Tuy nhiên, nhiều giám mục và hội đồng giám mục đã bày tỏ lo ngại rằng việc ban phép lành như vậy sẽ cản trở chứng tá đó, làm suy yếu giáo huấn của Giáo hội rằng (1) hôn nhân là sự kết hợp bất khả phân ly giữa vợ chồng và (2) mọi hành vi tình dục ngoài hôn nhân đều là tội trọng.
Đáp lại, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã đưa ra một thông cáo báo chí nhằm làm rõ Fiducia Supplicans. Nhưng thông cáo báo chí hoàn toàn không đầy đủ. Tuân theo nó sẽ không ngăn chặn được tác hại nghiêm trọng mà Bộ Giáo Lý Đức Tin cho rằng họ hy vọng sẽ tránh được. Mười ba đoạn văn dưới đây giải thích lý do tại sao chúng tôi kêu gọi các giám mục và linh mục không nên cho phép hoặc ban phép lành đang được đề cập: những trường hợp mà những phép lành như thế có thể không gây tổn hại nghiêm trọng là rất hiếm, nếu không muốn nói là trên thực tế, không hế tồn tại—ít nhất là khi không có những điều kiện mà chúng tôi sẽ đề cập đến.
1. Với một ngoại lệ nhỏ, được thảo luận dưới đây, thông cáo báo chí chỉ nhấn mạnh các khía cạnh của Fiducia Supplicans khiến nó trở thành trở ngại cho việc truyền bá, bảo vệ và sống theo lời dạy của phúc âm về đạo đức tình dục.
2. Thông cáo báo chí khẳng định rằng Fiducia Supplicans, là một Tuyên ngôn, “không chỉ là một phản hồi hay một lá thư.” Nhưng cả hai tài liệu đều bỏ qua giáo huấn phúc âm có liên quan một cách trọng tâm đã được tái khẳng định trong Tuyên ngôn trước đây của cùng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đó là Tuyên ngôn Persona Humana được công bố ngày 29 tháng 12 năm 1975 bàn về luân lý tính dục.
3. “Việc tuân thủ luật luân lý trong lĩnh vực tính dục và thực hành khiết tịnh đã bị đe dọa đáng kể, đặc biệt là nơi những Kitô hữu kém nhiệt thành, bởi xu hướng hiện nay là nếu không thể phủ nhận thẳng thừng thì người ta giảm thiểu đến mức có thể thực tại nghiêm trọng của tội lỗi, ít nhất là trong đời sống thực tế của con người....
Một người... phạm tội trọng không chỉ khi hành động của anh ta xuất phát từ sự khinh miệt trực tiếp đối với tình yêu Thiên Chúa và người lân cận, mà còn khi anh ta có ý thức và tự do, vì bất cứ lý do gì, chọn một điều gì đó vô trật tự nghiêm trọng. Vì trong sự lựa chọn này... đã bao gồm cả sự khinh thường giới răn của Thiên Chúa: con người quay lưng lại với Thiên Chúa và đánh mất lòng bác ái. Hiện nay, theo truyền thống Kitô giáo và giáo huấn của Giáo hội, và như lý trí đúng đắn cũng thừa nhận, trật tự luân lý về tính dục bao hàm những giá trị cao quý của sự sống con người đến nỗi mọi vi phạm trực tiếp trật tự này đều là nghiêm trọng về mặt khách quan....
Do đó, các mục tử của các linh hồn phải thực hành lòng kiên nhẫn và lòng nhân hậu; nhưng họ không được phép vô hiệu hóa các điều răn của Chúa, cũng như không được phép giảm bớt trách nhiệm của con người một cách vô lý. “Không hề giảm bớt giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô là một hình thức bác ái cao cả dành cho các linh hồn. Nhưng điều này phải luôn đi kèm với sự kiên nhẫn và lòng nhân hậu, như chính Chúa đã nêu gương khi đối xử với mọi người. Ngài đến không phải để kết án mà để cứu rỗi, Ngài thực sự không khoan nhượng với sự ác nhưng thương xót từng người”.
Cũng như Fiducia Supplicans, thông cáo báo chí quanh co né tránh sử dụng từ “tội lỗi”, chứ đừng nói đến “tội trọng” hoặc “tội đặc biệt nghiêm trọng” khi nói về “các kết hợp bất thường”. Thông cáo báo chí chỉ đề cập đến tội lỗi khi đề cập đến lời cầu xin phước lành mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện. Những tài liệu tham khảo này gợi ý, nếu không muốn nói là khẳng định, rằng không có sự khác biệt quan trọng về mặt đạo đức hoặc mục vụ giữa (a) chúc lành cho những người chẳng may sa ngã nhất thời, và (b) chúc lành cho những người là những bên tham gia vào một mối quan hệ được thể hiện bằng hành vi tội lỗi. Chưa bao giờ Giáo hội cho phép ban phép lành theo một mô tả xác định người nhận bằng cách nhắc đến tội lỗi của họ (ví dụ: chẳng bao giờ có một lời chúc phúc dành riêng cho những người viết phim khiêu dâm chẳng hạn).
4. Do đó, thông cáo báo chí (và cả Tuyên ngôn Fiducia Supplicans) đã bỏ qua điều mà Tuyên ngôn Persona Humana coi là trọng tâm: đó là học thuyết Kitô giáo về đạo đức tình dục phải đối mặt với những mối đe dọa chưa từng có trong thời đại chúng ta. Persona Humana lưu ý (1) sự biến mất của các chuẩn mực pháp lý, xã hội và văn hóa từng ủng hộ học thuyết Kitô Giáo về đạo đức tình dục; (2) sự xuất hiện của các quy tắc làm xói mòn đức tin nơi các tín hữu, con cái của họ và bất kỳ ai mà họ có thể truyền giáo; và (3) sự lan rộng trong Giáo hội những quan điểm thần học và thực hành mục vụ thách thức giáo lý đó. Những mối đe dọa này bây giờ còn dữ dội hơn nhiều. Và đối với họ, người ta có thể thêm một yếu tố mà Tuyên ngôn Persona Humana không hề ngờ tới: là (4) sự ưu ái của Tòa thánh đối với những người trong Giáo hội khét tiếng vì sự bác bỏ học thuyết đó một cách công khai hoặc bóng gió, và thậm chí còn ưu ái trong việc bổ nhiệm những người ấy.
5. Trong hoàn cảnh này, nhiều độc giả của Fiducia Supplicans đã nghĩ rằng trong đời thực sẽ là thiếu thận trọng nếu cố gắng vạch ra và không thể duy trì được sự phân biệt mà Tuyên ngôn đề cập đến: giữa (a) chúc lành cho các mối quan hệ tội lỗi và (b) chúc phúc cho những cá nhân trong “cặp” liên quan đến những mối quan hệ như vậy. Hoặc ít nhất, nhiều người đã nghi ngờ rằng các cặp hoặc những người tham gia vào các chúc lành ấy thực sự có thể phân biệt và đánh giá cao sự khác biệt này trừ khi các giám mục chấp thuận, hoặc các linh mục ban những phép lành như thế đặt ra một số điều kiện:
rằng thừa tác viên không được có ý định hợp pháp hóa bất cứ điều gì và phải bảo đảm rằng phép lành thậm chí không giống với phép lành phụng vụ (FS §§39-40);
rằng các mục tử phải tuyên bố rõ ràng với những người có mặt rằng ngài, giống như Giáo hội, “không có ý định hợp pháp hóa bất cứ điều gì”;
rằng thừa tác viên phải chỉ định rằng lời cầu nguyện không phải là một phép lành của sự kết hợp mà là một điều gì đó giống như một “Lời kêu cầu và chuyển cầu” để được hướng dẫn và ân sủng của Thiên Chúa, bao gồm cả ân sủng hoán cải khỏi tội lỗi;
rằng cặp đó không được có ý định xin chúc phúc như một cách nào đó để hợp pháp hóa tình trạng của họ (§31); Và
rằng trước tiên họ phải nói rõ với mục tử rằng cả họ và bất kỳ ai giúp đỡ họ đều không coi lời chúc phúc là một sự hợp pháp hóa kết hiệp của họ.
Những điều kiện như vậy sẽ hỗ trợ đầy đủ cho lý luận của Fiducia Supplicans, mặc dù bản thân Tuyên bố có thể được hiểu là hướng dẫn các mục tử không được đặt ra bất cứ điều kiện nào. Nếu không có những điều kiện như thế, các phúc lành đang được đề cập sẽ gây ra gương mù trên hết cho các cặp đang tìm kiếm chúng, những người hơn ai hết cần được dạy giáo lý về chính những sự thật bị che khuất bởi các phúc lành đó. Vì vậy, việc từ bỏ những điều kiện như trên là một hành vi vô trách nhiệm nghiêm trọng về mặt mục vụ.
6. Để phản đối việc các mục tử và các thừa tác vụ đưa ra những điều kiện như vậy, thông cáo báo chí nói như thể chỉ cần ý định không gửi thông điệp chấp thuận của bộ trưởng (hoặc Bộ Giáo Lý Đức Tin) mà thôi - là đủ để ngăn cản những người khác cảm nhận bất kỳ thông điệp tán thành nào như vậy: Bởi vì theo mô tả lý tưởng hóa của Bộ Giáo Lý Đức Tin ( § 5.2) “hình thức chúc lành không theo nghi thức “, với “ sự đơn giản và ngắn gọn “ “ không có ý biện minh cho bất cứ điều gì không được chấp nhận về mặt đạo đức “ và “ chỉ là phản ứng của một mục tử đối với hai người cầu xin sự giúp đỡ của Chúa”, do đó, “ mục tử không thể áp đặt các điều kiện....”
7. Bằng cách từ chối những điều kiện có thể biến mô tả đó thành hiện thực, thông cáo báo chí gần như bảo đảm rằng mọi người sẽ bỏ qua sự khác biệt giữa việc chúc phúc cho các cá nhân và việc chúc phúc cho sự kết hợp tội lỗi của họ. Tuy nhiên, sự khác biệt đó được thừa nhận là rất quan trọng đối với Tuyên ngôn, chưa kể đến Bản phúc trình năm 2021 (mà Tuyên ngôn tuyên bố sẽ giữ nguyên) trong đó khẳng định rằng Giáo hội không thể chúc lành cho những kết hợp đồng giới và các kết hợp tội lỗi khác.
8. Một ngoại lệ đối với việc thông cáo báo chí nhấn mạnh các khía cạnh có vấn đề của Fiducia Supplicans là tuyên bố của nó rằng “việc chúc lành không được diễn ra ở một nơi nổi bật trong một tòa nhà thiêng liêng, hoặc trước bàn thờ, vì điều này cũng [tức là, giống như bất kỳ nghi lễ đám cưới nào] sẽ tạo ra sự nhầm lẫn. “ Nhưng cả điều kiện này cũng chưa bắt đầu đối mặt với những hoàn cảnh trong thế giới thực sẽ làm suy yếu mạnh mẽ bất kỳ nỗ lực nào nhằm phân biệt việc chúc lành cho những cá nhân; với việc chúc lành cho những kết hợp công khai vô đạo đức của họ.
9. Những trường hợp như vậy bao gồm những trường hợp sau: Bộ Giáo Lý Đức Tin phớt lờ hoặc từ chối khẳng định rằng cặp đó và vị mục tử rõ ràng bác bỏ mọi ý định hoặc hy vọng rằng lời chúc phúc sẽ hợp pháp hóa mối quan hệ tình dục theo bất kỳ cách nào. Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng không xem xét rằng các sự kiện không xảy ra ở “địa điểm nổi bật trong tòa nhà thiêng liêng” vẫn có thể xảy ra trong tòa nhà linh thiêng và những gì xảy ra “riêng tư” có thể được chụp ảnh hoặc ghi lại và phổ biến rộng rãi. Bộ Giáo Lý Đức Tin nói và nhắc lại rằng những lời chúc phúc đang được đề cập sẽ là “tự phát”; nó không giải quyết được vô số trường hợp mà chúng sẽ được lên kế hoạch trước. Và thông cáo báo chí của Bộ Giáo Lý Đức Tin rõ ràng là im lặng về phản ứng đối với Tuyên ngôn của các giáo sĩ, là những người đã làm suy yếu một cách rõ ràng sự khác biệt giữa việc chúc phúc cho các cá nhân và việc chúc phúc cho sự kết hợp. Những người này bao gồm các giáo sĩ đã sắp xếp để công chúng chụp ảnh trên toàn thế giới để chúc phúc cho một cặp đôi đồng giới trong những hoàn cảnh xóa bỏ sự phân biệt—ví dụ: trong khi linh mục đeo khăn choàng cầu vồng hoặc cặp đôi nắm tay nhau một cách lãng mạn.
10. Trong nỗ lực xoa dịu những lo ngại của các giám mục, thông cáo báo chí chỉ xem xét một trong nhiều kịch bản khác nhau trong đó có thể tìm kiếm một phước lành. Và đó là một ví dụ khác xa với những trường hợp trong thế giới thực được hình dung bởi những người đã ép Giáo hội ban hành những phước lành mới. Trong “ví dụ cụ thể” được xem xét ở mục 5, không có gì về cặp đôi cho những người đang quan sát họ (có mặt tại chỗ hoặc trên mạng xã hội) thấy rằng mối quan hệ này là “bất thường” hoặc vô đạo đức, và cặp đôi không bao giờ ám chỉ rằng họ đang tìm kiếm một phước lành về quan hệ tình dục của họ (trái ngược với sự giúp đỡ từ Chúa để tìm việc làm và vượt qua bệnh tật, v.v.). Ngược lại, các trường hợp trong thế giới thực chủ yếu liên quan đến các cặp đôi có thái độ hoặc hoàn cảnh khác cho thấy rõ ràng rằng họ có quan hệ tình dục và, trong trường hợp các cặp đồng giới, một cặp được coi là vô đạo đức vì rõ ràng là không thể thực hiện được quan hệ tình dục để trở thành vợ chồng.
11. Thông cáo báo chí yêu cầu các giám mục và hội đồng giám mục (sau khi suy xét kỹ lưỡng) bổ sung thẩm quyền của họ vào cùng với thẩm quyền do Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra, và không đặt ra thêm điều kiện nào. Tuy nhiên, một số điều kiện được Bộ Giáo Lý Đức Tin cho phép chỉ nhằm mục đích tránh nhầm lẫn với đám cưới. Những điều kiện đó không được thiết kế để duy trì sự phân biệt giữa việc chúc lành cho những người, và việc chúc lành cho những hành vi tội lỗi mà họ thể hiện là sẵn sàng tham gia. Và thông cáo báo chí cũng không cấm các giám mục và các linh mục không được gợi ý (hoặc bày tỏ hy vọng) rằng Tuyên ngôn đánh dấu một bước hướng tới việc Giáo hội chấp thuận về mặt đạo đức đối với các mối quan hệ tình dục đồng giới và ngoài hôn nhân khác. Điều này cũng làm suy yếu nghiêm trọng sự khác biệt mà Fiducia Supplicans đã khẳng định.
12. Tất cả những sự im lặng và tự mãn này, tuy không phủ nhận giáo lý Công Giáo về hoạt động tình dục, nhưng có xu hướng gợi ý rằng giáo lý đó không quan trọng lắm. Họ cho rằng cùng lắm đó là vấn đề lý tưởng, hơn là những vấn đề tuyệt đối đạo đức mà lý trí có thể nhận biết được và được xác nhận bởi mặc khải thiêng liêng. Nhưng lòng thương xót thực sự và lòng bác ái cao cả được Persona Humana tán dương – là lòng bác ái không bao giờ làm suy giảm giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô – đòi hỏi các mục tử phải giảng dạy một cách thẳng thắn những gì Thánh Phaolô đã dạy (xem 1 Cô-rinh-tô 6:9-11): Để tìm được ơn cứu độ, người ta phải giữ vững sự thánh hóa nhận được khi rửa tội bằng cách tránh xa và ăn năn mọi tội trọng, kể cả tội tình dục. Sự thật đang bị đe dọa, mà các mục tử có trách nhiệm nghiêm chỉnh phải truyền đạt, đó là các hành vi tình dục là vô đạo đức trầm trọng trừ khi chúng thể hiện và hiện thực hóa một sự kết hợp hôn nhân cam kết và độc quyền, một loại kết hợp trong đó những con người mới có quyền được sinh ra và nuôi dạy.
13. Bằng cách khen ngợi một thực hành mà nếu không có tất cả các điều kiện cần thiết, sẽ che khuất sự thật về đức tin và lý trí, cặp tài liệu của Bộ Giáo Lý Đức Tin đang tạo ra một trở ngại mới to lớn cho việc hoàn thành trách nhiệm mục vụ cũng là một mệnh lệnh của việc truyền giáo.