1. Thánh giá do Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI để lại bị đánh cắp khỏi nhà thờ tại quê hương của ngài ở Đức
Một cây thánh giá được cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI để lại cho một giáo xứ ở vùng Bavaria quê hương Đức của ngài đã bị đánh cắp khỏi nhà thờ nơi nó được trưng bày, cảnh sát cho biết hôm thứ Ba.
Một hộp trưng bày trên tường của nhà thờ thị trấn ở Traunstein đã bị phá vỡ bởi những thủ phạm không rõ danh tính và cây thánh giá đã bị lấy đi vào khoảng thời gian từ 11:45 sáng đến 5 giờ chiều ngày thứ Hai 19 Tháng Sáu, văn phòng cảnh sát hình sự bang Bavaria cho biết trong một tuyên bố.
Cây thánh giá được mô tả là một cây thánh giá đeo ở ngực. Cảnh sát nói rằng tiền mặt cũng đã bị đánh cắp từ một hộp đựng tiền bán các tạp chí trong nhà thờ.
Tuyên bố của cảnh sát cho biết: “Đối với Giáo Hội Công Giáo, giá trị của đồ vật tôn giáo là không thể định lượng được. Chúng tôi kêu gọi những người có thể đã nhìn thấy những cá nhân đáng ngờ xung quanh nhà thờ vào hôm thứ Hai cung cấp bất kỳ thông tin nào để cuộc điều tra có thể tiếp tục”.
Đức Bênêđíctô qua đời vào ngày 31 tháng 12, gần một thập kỷ sau khi trở thành giáo hoàng đầu tiên thoái vị trong sáu thế kỷ.
Christoph Kappes, phát ngôn viên của tổng giáo phận Munich, cho biết cây thánh giá bị mất là một trong nhiều loại như vậy. Nó đã được gửi đến Traunstein sau khi Đức Bênêđíctô thoái vị và được trưng bày tại địa điểm mà nó đã bị đánh cắp từ năm 2020, ông nói với hãng thông tấn Đức dpa.
Đức Joseph Ratzinger sinh ra ở thị trấn nhỏ Marktl am Inn của Bavarian, nhưng cha của ngài đã chuyển cả gia đình đến Traunstein khi ngài lên 2. Ngài đã gia nhập một chủng viện ở đó.
Source:AP
2. Đức Thánh Cha Phanxicô công bố tông thư về Blaise Pascal
Hôm thứ Hai Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố một tông thư ca ngợi nhà toán học và triết gia thế kỷ 17 Blaise Pascal là “một người tìm kiếm chân lý không mệt mỏi”.
Pascal sinh năm 1623 và qua đời năm 1662 là một nhà khoa học người Pháp, người đã giúp đặt nền móng cho lý thuyết xác suất hiện đại, phát minh ra một trong những hình thức sơ khai nhất của máy tính bỏ túi, và định nghĩa một nguyên lý thủy lực mà sau này được biết đến trong vật lý học với tên gọi “Định luật Pascal”..” Trong những năm cuối đời, nhà toán học, vật lý học và triết gia Công Giáo đã cống hiến hết mình để bênh vực Kitô giáo.
“Là một Kitô hữu, Pascal muốn nói về Chúa Giêsu Kitô với những người đã vội vàng kết luận rằng không có lý do vững chắc nào để tin vào những chân lý của Kitô giáo,” Đức Thánh Cha Phanxicô viết.
“Về phần mình, từ kinh nghiệm, Pascal biết rằng nội dung của mặc khải Thiên Chúa hoàn toàn không đối lập với những đòi hỏi của lý trí, và còn đưa ra câu trả lời đáng kinh ngạc mà không một thứ triết học nào có thể tự mình đạt được.”
Đức Giáo Hoàng đã công bố bức thư vào ngày 19 tháng 6 để đánh dấu kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Pascal vào năm 1623. Tiêu đề của tông thư là “Sublimitas Et Miseria Hominis,” có nghĩa là “Sự vĩ đại và khốn cùng của con người.”
Trong bức thư dài tám trang, Đức Giáo Hoàng mô tả Pascal là một “con người của thời đại ông”, người đã “bảo vệ đức tin Kitô một cách xuất sắc về trí tuệ”.
“Từ thời thơ ấu, Pascal đã cống hiến cuộc đời mình để theo đuổi chân lý. Bằng cách sử dụng lý trí, ông đã tìm kiếm dấu vết của nó trong các lĩnh vực toán học, hình học, vật lý và triết học, thực hiện những khám phá đáng chú ý và đạt được danh tiếng lớn ngay từ khi còn nhỏ,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
“Tuy nhiên, Pascal không bằng lòng với những thành tựu đó. Trong một thế kỷ với những tiến bộ to lớn trong nhiều lĩnh vực khoa học, cùng với tinh thần hoài nghi triết học và tôn giáo ngày càng tăng, Blaise Pascal đã chứng tỏ là một người tìm kiếm chân lý không mệt mỏi, một tinh thần 'không ngừng nghỉ', luôn mở ra những chân trời mới và rộng lớn hơn.
“Đầu óc thông minh và ham học hỏi của Pascal không ngừng suy ngẫm về câu hỏi, cổ xưa nhưng luôn mới mẻ, trào dâng trong trái tim con người: 'Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? ' (Tv 8:5).”
Bức thư chứa đầy những trích dẫn từ tác phẩm “Pensées” hay “Những Dòng Suy Tư” của Pascal, là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông về hộ giáo Kitô giáo được xuất bản sau khi ông qua đời từ các ghi chú và các mảnh bản thảo của ông.
Đức Thánh Cha nêu bật cách Pascal không bao giờ “cam chịu trước sự kiện là một số người nam nữ không những không biết Chúa Giêsu Kitô, mà còn coi thường, vì lười biếng hoặc vì đam mê của họ, đã không đón nhận Tin Mừng một cách nghiêm túc.”
Pascal đã viết trong tác phẩm Pensées của mình: “'Sự bất tử của linh hồn rất quan trọng đối với chúng ta, một điều gì đó khiến chúng ta cảm động sâu sắc đến mức chúng ta cần phải đánh mất mọi cảm giác để quan tâm đến việc biết rõ điều gì đang bị đe dọa... Và đó là lý do tại sao, trong số những người không bị thuyết phục về điều này, tôi sẽ phân biệt rõ ràng giữa những người nỗ lực hết sức để điều tra nó và những người tiếp tục cuộc sống của họ mà không quan tâm hay suy nghĩ về nó.'“
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đề cập đến sự tham gia của Pascal trong các tranh chấp giữa Dòng Tên và Jansenist, trong đó Pascal đã viết một loạt các bức thư chỉ trích gay gắt các tu sĩ Dòng Tên được gọi là “Các lá thư của Tỉnh dòng”.
Cuộc tranh luận chủ yếu xoay quanh câu hỏi về ân sủng của Chúa và mối quan hệ giữa ân sủng và bản chất con người, đặc biệt là ý chí tự do của chúng ta.
Đức Thánh Cha nói rằng “Pascal, về phần mình, chân thành tin rằng ông đang chiến đấu với thuyết Pelagiô hay thuyết bán Pelagiô tiềm ẩn” trong giáo huấn của Dòng Tên vào thời điểm đó.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhà tư tưởng người Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 7 năm 2017, vị giáo hoàng Dòng Tên nói rằng ngài tin rằng Pascal “đáng được phong chân phước.”
Vào năm 2021, Đức Giáo Hoàng gọi một ghi chú viết tay nhỏ được khâu vào áo khoác của Pascal vào thời điểm ông qua đời là “một trong những văn bản nguyên bản nhất trong lịch sử tâm linh.”
Ghi chú, được gọi là “Đài tưởng niệm” của Pascal, xuất phát từ một trải nghiệm thần bí vào đêm ngày 23 tháng 11 năm 1654, khiến nhà triết học rơi nước mắt vì sung sướng.
Kinh nghiệm của Pascal vào đêm đó năm 1654 đã khiến ông nhiệt thành thực hành đức tin Công Giáo của mình hơn với lối sống khổ hạnh và những lời biện hộ bằng văn bản.
Vào thời điểm lâm bệnh “cuối cùng” và qua đời vào năm 1662 ở tuổi 39, Pascal được cho là đã nói: “Nếu các thầy thuốc nói sự thật, và Thiên Chúa cho phép tôi khỏi bệnh này, tôi quyết tâm không làm bất cứ công việc nào khác, không làm nghề nghiệp nào khác trong phần còn lại của cuộc đời tôi ngoại trừ việc phục vụ người nghèo.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng “thật xúc động khi nhận ra rằng trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, một thiên tài vĩ đại như Blaise Pascal đã không thấy điều gì cấp bách hơn là nhu cầu cống hiến sức lực của mình cho các công việc bác ái.”
Ngài nói: “Xin cho tác phẩm xuất sắc của Blaise Pascal và mẫu gương cuộc đời của ông, thấm nhuần sâu sắc trong Chúa Giêsu Kitô, giúp chúng ta kiên trì đến cùng trên con đường chân lý, hoán cải và bác ái”.
Source:Catholic News Agency
3. Công bố Tài liệu làm việc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới
Hôm 20 tháng Sáu vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục đã công bố Tài liệu làm việc của Khóa họp thứ XVI sẽ tiến hành vào tháng Mười năm nay tại Roma, và sẽ tiếp tục vào tháng Mười năm tới, 2024, về chủ đề: “Tiến tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”.
Văn kiện này dài khoảng 60 trang, đúc kết tiến trình tham khảo dân Chúa trong hai năm qua, phản ánh kinh nghiệm và vấn đề của Giáo hội tại các nơi trên thế giới: chiến tranh, thay đổi khí hậu, các chế độ kinh tế tạo ra nạn bóc lột, bất quân bình và gạt bỏ. Có những Giáo hội chịu tử đạo, và những Giáo hội đang chịu hiện tượng tục hóa mạnh mẽ, những Giáo hội bị thương tổn vì nạn lạm dụng tính dục, quyền bính, lương tâm, kinh tế và cơ chế, những vết thương cần được chữa trị và hoán cải.
Mục đích của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới không phải là để soạn ra các văn kiện, nhưng là để mở ra những chân trời hy vọng.
Tài liệu làm việc gồm hai phần chính: Phần A trình bày kinh nghiệm tham khảo trong hai năm qua, cách thức tiến hành để trở thành một Giáo hội ngày càng đồng hành.
Phần B mang tựa đề: “Hiệp thông, sứ mạng, tham gia”, nhắm tới ba hoạt động chính yếu, đó là: tăng trưởng trong tình hiệp thông bằng cách đón tiếp tất cả mọi người, không loại trừ ai; nhìn nhận và đề cao sự đóng góp của mỗi tín hữu đã chịu phép rửa, để thi hành sứ mạng; xác định những cơ cấu và năng động cai quản, qua đó thực thi sự tham gia và quyền bính trong một Giáo hội đồng hành truyền giáo.
Một Giáo hội đồng hành trước tiên là một Giáo hội lắng nghe, vì thế đó là một Giáo hội sống khiêm tốn, biết xin lỗi và có nhiều điều cần học hỏi. Khuôn mặt Giáo hội ngày nay có nhiều dấu hiệu khủng hoảng lớn về sự tín nhiệm và uy tín. “Tại nhiều nơi, cuộc khủng hoảng do lạm dụng tính dục, kinh tế, quyền lực và lương tâm đã thúc đẩy Giáo hội xét mình, để dưới tác động của Chúa Thánh Linh, không ngừng canh tân bản thân, trong một hành trình thống hối và hoán cải, mở ra những con đường hòa giải, chữa lành và công lý”.
Một Giáo hội đồng hành cũng là một Giáo hội gặp gỡ và đối thoại với các tín hữu các tôn giáo, văn hóa khác và xã hội. Đó là một Giáo hội không sợ những khác biệt nhưng đề cao giá trị những khác biệt đó, không bó buộc phải đồng nhất. Giáo hội đồng hành là Giáo hội liên tục nuôi dưỡng mình bằng mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ, trong đó mỗi ngày cảm nghiệm sự hiệp nhất trong cùng phụng vụ, tuy ở trong các ngôn ngữ và nghi lễ khác nhau”.
Trong những phần khác của Tài liệu làm việc, có nói đến vấn đề quyền bính, sự sai trái trong việc thực thi quyền bính vì tinh thần thế tục. Cần có một nền huấn luyện toàn diện, huấn luyện khởi đầu và thường huấn cho dân Chúa, cố gắng canh tân ngôn ngữ dùng trong phụng vụ, giảng thuyết, huấn giáo, nghệ thuật thánh, cũng như mọi hình thức thông tin cho các tín hữu và dư luận quần chúng, kể cả qua các phương tiện thông tin mới. “Sự canh tân ngôn ngữ phải nhắm làm cho nó dễ hiểu và hấp dẫn đối với con người ngày nay, không trở thành một chướng ngại làm cho họ xa cách Giáo hội”.