Như đã loan tin, Chủ tịch Công đồng Toàn thể Úc, Đức Tổng Giám Mục Timothy Costelloe đã cho công bố Khuôn Khổ Các Đề Xuất như một hướng dẫn cho các đề xuất và bỏ phiếu tại Phiên họp thứ hai và cũng là kết thúc của tiến trình Công đồng trong hơn 3 năm qua.
Các Đề Xuất
Khuôn Khổ trên dài tới 44 trang chia thành 104 mục, thêm mục 105 về các sắc lệnh của Công đồng Toàn thể năm 137 với ghi chú “Bản văn sẽ được thêm vào sau”. Các mục này được gom thành 8 mục lớn:
1. Hòa giải: hàn gắn các vết thương, Lãnh nhận các ơn phúc
2. Chọn thống hối – tìm chữa lành
3. Được Chúa Kitô kêu gọi – Được sai đi như các môn đệ truyền giáo
4. Làm chứng cho Phẩm giá Bình đẳng nữ và nam
5. Hiệp thông trong Ơn thánh: Bí tích với Thế giới
6. Đào tạo và Lãnh đạo cho Truyền giáo và Thừa tác vụ
7. Phục vụ Hiệp thông, Tham dự và Truyền giáo: vấn đề cai quản
8. Sinh thái Toàn diện và Hoán cải vì Ngôi nhà Chung
Mỗi một mục lớn trên đều có phần dẫn nhập giải thích, kết thúc bằng các đề xuất để xin Phiên họp Toàn thể thông qua.
Mục Hòa giải chẳng hạn, có những đề xuất như “nói lời xin lỗi Thổ dân và Người Hải đảo thuộc Eo biển Torres trong và ngoài Giáo Hội về phần Giáo Hội đã đóng gây hại cho họ”. Ngoài ra, trong những biện pháp cụ thể, còn có đề xuất: mọi định chế của Giáo Hội thừa nhận quyền của người Thổ Dân trên đất đai có cơ sở của mình, tìm cách đưa người Thổ Dân vào các ủy ban, hội đồng và cơ phận ra quyết định của mình.
Mục Chữa lành, có những đề xuất như: nói lời xin lỗi người sống sót lạm dụng và gia đình họ, cam kết tiếp tục đáp ứng một cách công bình và cảm thương các người sống sót lạm dụng và gia đình họ, tái cam kết thực thi và cải tiến các tiêu chuẩn và thực hành...
Mục Truyền giáo đặt nặng vấn đề giáo dục hướng tới tinh thần truyền giáo, ngoài các đề xuất về giáo dục trường học, Khuôn Khổ đưa ra một số đề xuất: thiết lập Diễn Đàn Toàn Quốc 3 Năm một lần bàn về dịch vụ xã hội Công Giáo, chăm sóc sức khỏe và tuổi già, khuyết tật, thừa tác vụ nhà tù, người tỵ nạn và tầm trú, và công lý, sinh thái và các tổ chức hòa bình...
Mục Phẩm giá Bình đẳng nam nữ có đề xuất đáng lưu ý: “xem xét việc phụ nữ lãnh thừa tác vụ phó tế - Đức Giáo Hoàng Phanxicô nên cho phép thừa tác vụ này dưới ánh sáng các phát kiến của Ủy ban Nghiên cứu mới được lập lại về Chức Phó Tế Nữ, ngoài các đề xuất trả lương xứng đáng và dành các địa vị ra quyết định cho họ.
Mục Bí tích đối với thế giới có đề xuất cũng khá đáng lưu ý: “Hội Đồng Giám Mục Úc thiết lập khác dự khoản và hướng dẫn để tín hữu giáo dân tham gia thừa tác vụ Giảng thuyết chính thức, như đã được dự trù ở điều 766 của Bộ Giáo Luật”. Ngoài ra còn đề xuất nới rộng việc áp dụng Hình thức Thứ Ba của Nghi thức Thống hối.
Mục Đào tạo và Lãnh đạo có đề xuất: thừa nhận tính đa dạng về thế hệ, văn hóa và sắc tộc của Giáo Hội Úc hiện nay; thừa nhận khuôn mạo thay đổi của nhiều giáo xứ và cộng đồng. Các đề xuất cụ thể: Hội Đồng Giám Mục thiết lập nhóm chuyên gia soạn thảo các chiến lược Đào tạo Lãnh đạo giúp các giáo sĩ và các lãnh đạo giáo dân giải quyết các khả thể và thách đố của việc lãnh đạo theo lối đồng nghị trong các cơ sở giáo xứ và giáo phận...
Mục Cai quản không có đề xuất nào chuyên biệt về việc giáo dân tham gia trực tiếp vào vấn đề cai quản, chỉ có đề xuất tổng quát như: khẳng định việc cai quản trong Giáo Hội Công Giáo nên được thi hành một cách đồng nghị, với sự tham gia của nhiều cơ phận. Đối với giáo phận, việc này phần lớn bao gồm việc tham gia của Hội Đồng mục vụ giáo phận, Hội Đồng linh mục, Đoàn Cố Vấn, Hội Đồng tài chánh giáo phận và, đôi khi, Thượng Hội Đồng giáo phận. Đối với giáo xứ, việc này phần lớn bao gồm việc tham gia của Hội Đồng mục vụ giáo xứ và Ủy ban Tài chánh giáo xứ. Cụ thể chăng là việc 5 năm sau Công Đồng toàn thể này, mỗi giáo phận sẽ tổ chức Thượng Hội Đồng giáo phận và sau đó, cứ 10 năm tổ chức một lần. Về các giáo xứ, có đề xuất: các giáo phận hỗ trợ các giáo xứ thiết lập và củng cố các cơ cấu đồng nghị thích đáng bằng cách khai triển các hướng dẫn và cung cấp nguồn lực cho việc triển nở của các Hội Đồng mục vụ giáo xứ.
Mục cuối cùng là về sinh thái, đề xuất nói đến việc các giáo phận khai triển hay tham gia vào một Kế hoạch Hành động Laudato Si’ đã được thiết lập.
Nói chung, Khuôn Khổ Các Đề Xuất không đi theo Con đường đồng nghị của Đức, một con đường rõ ràng không xây dựng cái hiểu về Giáo Hội trên giáo huấn của Chúa Kitô và các Tông đồ mà là dựa trên các yếu đuối của con người, được ý thức hệ đánh trống khua môi. Trái lại, Công đồng Toàn thể Úc, như Đức Tổng Giám Mục Costelloe viết ở phần giới thiệu Khuôn Khổ Các Đề Xuất, lấy định nghĩa về Giáo Hội từ Công Đồng Vatican II: Giáo hội ‘trong Chúa Kitô, giống như một bí tích — là dấu chỉ và công cụ, nghĩa là, của sự hiệp thông với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể loài người’ (Lumen gentium, 1). Chính vì thế, ngoài rất nhiều các tài liệu khác để suy tư, Đức Tổng Giám Mục Costelloe giới thiệu đặc biệt bài viết mới đây nhất về Giáo Hội của Cha Richard Lennan, một linh mục thuộc giáo phận Newcastle, NSW, nhưng hiện đang giảng dạy tại Boston College, Hoa Kỳ. Cha từng là Chủ tịch của Hội Thần học Công Giáo Úc. Chúng tôi xin chuyển ngữ bài viết giá trị của Cha:
Giáo hội: Đầy ân sủng, Truyền giáo và đồng nghị
Một nền thần học cho Công đồng Toàn thể
Chúng ta hãy suy nghĩ lại cách làm việc thông thường của chúng ta; chúng ta hãy mở tai mắt, và trên hết là trái tim của chúng ta, để không tự mãn về mọi điều như chúng là nhưng không vô tư trước lời sống động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh.
- Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Gaudete et Exsultate, 137
Thách thức trên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô phù hợp với phương pháp và mục tiêu của Công Đồng Toàn thể: nghe và đáp lại những gì Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo Hội Công Giáo ở Châu Úc. 'Lời sống động và hữu hiệu của Chúa Phục sinh' truyền sức mạnh cho cộng đồng giáo hội để công bố và hiện thân Tin Mừng ‘với các hình thức diễn đạt khác nhau, nhiều dấu hiệu và từ ngữ hùng hồn hơn mang ý nghĩa mới cho thế giới ngày nay '(Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Evangelii Gaudium, 11). Công đồng Toàn thể, với tư cách đại diện cho toàn thể cộng đồng Công Giáo ở Úc, tìm cách kết hợp vào Giáo hội ‘sự mới mẻ mà Thiên Chúa mang tới một cách mầu nhiệm và truyền cảm hứng, khơi gợi, hướng dẫn và đồng hành cả hàng ngàn cách thế' (Evangelii Gaudium, 12).
Giáo Hội, như một công trình của ân sủng, của sự tự hiến của Thiên Chúa, không thể tách biệt khỏi toàn bộ công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tất cả những gì có thể ‘lấp đầy trái tim chúng ta và nâng tinh thần chúng ta lên tới những thực tại cao qúy như chân, thiện và mỹ, công bằng và tình yêu '(Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Fratelli Tutti, 55), cũng như trong tất cả những gì cần chữa lành, định hình đường chân trời của Giáo Hội và truyền cảm hứng cho hành động của Giáo Hội.
Sự suy tư thần học này mô tả chân trời trên qua năm yếu tố không thể thiếu đối với Giáo hội: sự tự mặc khải của Thiên Chúa; sứ mệnh; tính bí tích; sự hiệp thông; và tính đồng nghị. Năm đặc điểm này định hình cộng đồng giáo hội, chiếu sáng quá khứ, hiện tại và tương lai của nó, trong khi cũng cổ vũ sự hợp nhất, việc hoán cải và sự tham gia đầy sáng tạo của Giáo hội vào xã hội. Chúng cũng truyền đạt những lời kêu gọi ân sủng lôi kéo Giáo hội, một cách sáng tạo, đến sự thành toàn trong Thiên Chúa.
Việc tự mặc khải của Thiên Chúa như Nguồn của Giáo hội
Giáo Hội có nguồn gốc từ lời Thiên Chúa. Lời ‘Hãy có....’ (St 1: 3 NRSV) của Thiên Chúa dẫn khởi sự sống và cho thấy Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, ban sự sống bằng cách tự hiến.
Thiên Chúa Sáng tạo muốn hiệp thông với muôn loài mà Người đã đem tới sự sống và hướng dẫn đến chỗ thành toàn. Giáo hội tuôn ra từ ý muốn này.
Việc Thiên Chúa ban sự sống bắt đầu một giai đoạn mới qua các giao ước với Israel, các giao ước nhận diện dân Israel như dân của Thiên Chúa. Nền tảng của các giao ước là lời hứa thành tín của Thiên Chúa: ‘Ta sẽ lấy các ngươi làm dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi’ (Xh 6: 7; Lv 26:12; Grm 30:22; và Êd 36:28). Các giao ước bao trùm quá khứ và hiện tại, nhưng cũng hướng về tương lai: ‘Ta là Thiên Chúa, và chẳng có thần nào như Ta, Ta báo trước từ đầu, những gì chưa thể hiện, Ta đã báo từ lâu’ (Is 46: 9-10).
Đức tin Kitô giáo tuyên bố, trong Chúa Giêsu Kitô, 'Ðấng trung gian, và là tổng thể’ của việc Thiên Chúa tự hiến, mối quan hệ của Thiên Chúa với sáng thế có hình thức rõ ràng (Vatican II, Dei Verbum, 2). Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa ‘ngỏ lời với người đàn ông và người đàn bà như bạn hữu của Người, và sống giữa họ, để mời họ và tiếp đón họ vào tình bằng hữu với Người’ (Dei Verbum, 2). Những lời nói và hành động của Chúa Giêsu nhân danh vương quốc hoặc sự trị vì của Thiên Chúa làm cho tình yêu của Thiên Chúa hiện diện, hứa hẹn ‘rằng ai tin Người thì không bị diệt vong mà được sự sống đời đời’(Ga 3:16).
Triều đại của Thiên Chúa đến như một hồng phúc cho tất cả những ai sẵn sàng đón nhận nó, giống như một kho báu người ta khám phá ra (Mt 13:44) hoặc dư thừa thức ăn cho người đói khát (Mt 14: 13-21; Mc 6: 35-44; Lc 9: 12-17; Ga 6: 1-14). Hồng phúc này thay đổi người tiếp nhận nó, như Giakêu (Lc 19: 1-10), để những gì trước đây không thể tưởng tượng được trở nên khả hữu. Chúa Giêsu nói với những người bị ruồng bỏ và thất vọng, những người cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa (Ga 8: 1-11): ‘một cách dịu dàng không bao giờ làm thất vọng, giúp chúng ta có thể ngẩng đầu lên và bắt đầu lại một lần nữa (Evangelii Gaudium, 3). Một cách đáng chú ý, các hoạt động của Chúa Giêsu nhân danh vương quốc của Thiên Chúa không phải là một việc làm riêng tư: Người tập hợp các môn đệ để chia sẻ cuộc sống của Người (Mt 4: 18-22; Lc 6: 12-16).
Sự gần gũi với Chúa Giêsu định hình lại thế giới của các môn đệ, thay thế cho việc tự đề cao mình (Mc 9: 33-7; Lc 22: 24-7), và thu hút họ vào cộng đồng. ‘Ý muốn của Đấng đã sai tôi’ (Ga 4:34) thúc đẩy lời nói và hành động của Chúa Giêsu. Thậm chí khi bị bác bỏ, Chúa Giêsu vẫn trung thành với Thiên Chúa và với sứ mệnh của Người là hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Sự trung thành của Chúa Giêsu và sự đáp lại của Chúa Cha đối với điều đó biến sự chết thành sự sống, cây thánh giá thành một biểu tượng của hy vọng. Sự phục sinh của Chúa Giêsu cho thấy sự vô biên của tình yêu Thiên Chúa sáng tạo. Là ‘Đấng Kitô’, là ‘Chúa’ và là ‘Đấng cứu thế’, Chúa Giêsu là phương tiện nên trọn của mọi dân tộc và mọi thời đại (Rm 8: 15-17; 2Cr 5: 17-21; Cl 1: 20-22). Việc tiếp cận với sự sống mới của Chúa Kitô Phục sinh có được là nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng là ánh sáng dẫn đường của Giáo Hội.
Sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới
Chúa Thánh Thần, “Đấng thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa”, giúp việc Thiên Chúa tự mặc khải Người như Tam vị Nhất thể mỗi ngày được hiểu sâu rộng thêm mãi (Dei Verbum, 5). Việc mạc khải về Lễ Ngũ tuần (Cv 2) mở rộng đến Giáo hội vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc nhập thể và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần là Đấng ‘che phủ’ đức Maria (Lc 1:35) và ‘đỗ xuống’ trên Chúa Giêsu (Mt 3:16) khi Người bắt đầu sứ mệnh của Người, cũng chính là Chúa Thánh Thần, 'Đấng bảo trợ' cộng đồng đức tin, đào tạo các môn đệ cho Chúa Kitô (Ga 14: 25-6). Trong Chúa Kitô và qua Chúa Thánh Thần, Giáo hội làm chứng cho ‘Thiên Chúa duy nhất và là Cha của mọi người’ (Ep 4:6).
Giáo Hội, nhờ ân sủng, được ‘ủy thác nhiệm vụ biểu lộ cho [mọi người] mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng là định mệnh cuối cùng của họ' (Gaudium et Spes, 41). Giáo hội chu toàn sứ mệnh này qua việc thờ phượng của mình, việc cung cấp Tin mừng và qua nhiều cách thức đa dạng trong đó, tất cả các thành viên của cộng đồng đức tin hiện thân thông điệp Tin Mừng về tình yêu vô điều kiện, sự chấp nhận và công lý của Thiên Chúa. Khi làm như vậy, Giáo hội bày tỏ căn tính bí tích của mình như ‘hạt giống và sự khởi đầu của vương quốc [Thiên Chúa]’ (Lumen Gentium, 5).
Công đồng Vatican II, trong sắc lệnh về sứ mệnh của Giáo hội, nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần, hoạt động trong mọi người đã chịu phép rửa, đóng một vai trò nhiều mặt trong sứ mệnh này: ‘đôi khi, một cách hiển hiện, [Chúa Thánh Thần] dự ứng hoạt động của các tông đồ, cũng như, bằng nhiều cách khác nhau, [Người] không ngừng đồng hành và chỉ đạo hoạt động này' (Vatican II, Ad Gentes, 4). Cũng thế, theo viễn kiến thường được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên bố về Giáo hội, 'cộng đồng các môn đệ truyền giáo' (Evangelii Gaudium, 24) đòi người đã chịu phép rửa để Chúa Thánh Thần ‘soi sáng, hướng dẫn và điều hướng chúng ta’ (Evangelii Gaudium, 280).
Là các môn đệ đáp ứng ân sủng, các thành viên của Giáo hội phải chú ý đến những khoảng trống giữa điều được tình yêu ban sự sống của Thiên Chúa giúp sức và các hoàn cảnh có hại thường nổi bật trong xã hội, cũng như trong lịch sử và hiện tại của Giáo hội. Sự chăm chú này có thể kích thích sự ăn năn về những thất bại trong quá khứ và là động lực thúc đẩy các hình thức môn đệ mới. Ưu tiên mà Công đồng Toàn thể đang nỗ lực dành cho việc hòa giải với người bản xứ của Úc không những làm chứng cho việc người Công Giáo mong muốn sửa chữa sự thiệt hại có tính lịch sử, mà còn là một phần của việc xây dựng tương lai đầy hy vọng. Chúa Thánh Thần, Đấng nói qua 'nỗi đau buồn và thống khổ' của thế giới, cũng như các ‘niềm vui và hy vọng’ của nó (Gaudium et Spes, 1), kêu gọi Giáo hội hoán cải. Nhờ tình liên đới của nó với những người sống sót việc lạm dụng tình dục của giáo sĩ, Công đồng công nhận rằng sự hoán cải đòi hỏi sự cam kết đối với việc hình thành Giáo hội như một cộng đồng công bình và hàn gắn.
Giáo hội là một phần của thế giới, thế giới mà Thiên Chúa tạo nên và hướng dẫn, nên Giáo hội phải đồng hành một cách cởi mở và xây dựng với mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Khi ngỏ lời với các mục tử, các nhà thần học và toàn thể cộng đồng những người đã chịu phép rửa, Công đồng Vatican II đã làm nổi bật nghĩa vụ ‘lắng nghe và phân biệt nhiều tiếng nói của thời đại chúng ta, và giải thích chúng theo ánh sáng của lời Chúa' (Gaudium et Spes, 44). Vì phải lèo lái giữa các tầm nhìn cạnh tranh nhau vì hạnh phúc của nhân loại và thế giới, Giáo hội phải rút từ các nguồn lực của chính mình—từ Tin mừng và đời sống ân sủng trong quá khứ và hiện tại của cộng đồng tín hữu — để biện phân cách đồng hành tốt nhất với xã hội.
Đạt được mối liên hệ đúng đắn giữa cộng đồng đức tin và thế giới rộng lớn hơn không phải là nhiệm vụ nhỏ nhoi. Nhiệm vụ này đã được thử thách từ thời Công vụ Tông đồ, nhưng môi trường hoàn cầu hóa, liên văn hóa và đa tín ngưỡng đang chiếm ưu thế hiện nay đã đem thêm nhiều lớp lang cho tính phức tạp. Ngày nay, đức tin Kitô giáo và các chuẩn mực tác phong mà nó coi trọng không còn là điều thịnh hành chung của xã hội Úc. Các khuôn mẫu niềm tin và giá trị xã hội đã thay đổi trong những thập niên gần đây. Khi "không có tôn giáo" đã trở thành phổ biến hơn, khả thể tiếp nhận thông điệp và sứ mệnh của Giáo hội đã suy yếu. Các giá trị xã hội đa dạng, cũng như các vụ tai tiếng đang bao trùm Giáo hội, đã nuôi dưỡng một bầu không khí ngờ vực đối với khả năng của cộng đồng đức tin trong việc tham gia tích cực vào các cuộc tranh luận về các chính sách xã hội.
Khi Công đồng Toàn thể biện phân cách người Công Giáo ở Úc có thể tham gia tốt nhất với các công dân khác trong việc hình thành quốc gia này như một nơi hòa bình, an toàn và được chào đón cho mọi người, sự hiện hữu của Giáo hội như bí tích của sự sống ‘dồi dào’ của Thiên Chúa (Ga 10:10) có thể là ngôi sao dẫn đường. Giáo hội, trong tư cách ‘Công Giáo’ đúng nghĩa, có thể khẳng định tất cả những gì nói tới ân sủng, bao gồm những gì phát xuất từ các nguồn khác ngoài Giáo hội. Giáo hội cũng có thể phê phán một số các giá trị xã hội, mà không vì thế chấp nhận việc đối lập như một đặc điểm xác định ra mình.
Giáo Hội, như một người hành hương, phải luôn cởi mở với những cách thức mà Chúa Thánh Thần có thể thúc giục cộng đồng giáo hội phải sáng tạo, can đảm và mời gọi nhiều hơn. Các vấn đề và khát vọng của xã hội có thể là một phương tiện mà Chúa Thánh Thần dùng để thách thức Giáo hội đào sâu và phát biểu niềm tin của mình theo những cách mới. Khi cộng đồng giáo hội chấp nhận thách thức này, nó không cần phải bác bỏ quá khứ và cũng không coi quá khứ như sự viên mãn của những gì Thiên Chúa ban cho.
‘Hệ sinh thái toàn diện’ mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô cổ vũ (Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Laudato Si’, 137- 62) đã lên mô hình cho cách Công đồng Toàn thể có thể đưa Tin Mừng vào cuộc đối thoại với xã hội Úc. Đức Giáo Hoàng chú ý đến khoa học hiện đại, đánh giá cao các khả năng kỹ thuật của nhân loại, nhưng cũng dứt khoát nêu rõ các thiệt hại phát xuất từ các ưu tiên kinh tế nâng cao lợi nhuận hơn là công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một cách chủ chốt, cách thức tiến hành được Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề ra cho thế giới có nền tảng vững chắc trong đức tin của Giáo hội. Điều này đặc biệt hiển nhiên trong mối liên kết mà ngài đã thiết lập giữa tính bền vững sinh thái và việc chăm sóc ‘những người nhỏ bé nhất' (Mt 25:45), những người bị loại trừ và bị tước đoạt, những người đặc biệt kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa.
Giáo hội với tư cách là Bí tích của Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần
Những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhằm khuấy động Giáo hội bắt tay theo lối truyền giáo sâu sắc hơn với thế giới phù hợp với giáo huấn của Công đồng Vatican II về Giáo hội. Vatican II nhấn mạnh rằng Giáo hội, nhờ Chúa Thánh Thần, trở thành lumen gentium, 'ánh sáng các quốc gia', phản ảnh sự hiện diện ban sự sống và hòa giải của Chúa Kitô. Như thế, Giáo hội ‘trong Chúa Kitô, giống như một bí tích — là dấu chỉ và công cụ, nghĩa là, của sự hiệp thông với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể loài người’ (Vatican II, Lumen Gentium, 1). Là bí tích, cộng đồng nhân bản của đức tin là nguồn của gặp gỡ với ân sủng luôn hiện diện của Thiên Chúa. Giáo Hội, qua Chúa Thánh Thần, loan báo cho mọi thời và mọi nơi tin mừng của Chúa Giêsu Kytô (Mc 16:20), nơi Người, ‘Mọi sự đều đã trở nên mới’ (2Cr 6:17).
Lời Chúa được Giáo hội công bố và Thánh Thể được Giáo hội cử hành nuôi dưỡng cộng đồng của những người đã chịu phép rửa để làm môn đệ, để phục vụ Tin Mừng một cách ‘dạn dĩ’ (2Cr 3:12). Thông qua vai trò môn đệ của mình, bao gồm cả việc truyền bá Tin Mừng, Giáo hội đã thi hành bản sắc của mình như một bí tích của Chúa Kitô. Sự phong phú sinh hoa trái của tính bí tích của Giáo hội tùy thuộc hoàn toàn vào sự cởi mở của cộng đồng đối với ân sủng. Đó là lòng hiếu khách đón nhận toàn bộ các ơn của Chúa Thánh Thần (1Cr 12: 4-11) giúp Giáo hội hiện hữu và liên tục trở thành ‘dấu hiệu và công cụ' của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, chữa lành và hoàn thành.
Tính bí tích của Giáo hội không hàm nghĩa cộng đồng giáo hội là hoàn hảo cũng như không chích ngừa cho nó chống các phức tạp của lịch sử. Thật vậy, như một thực tại của con người và là thực tại đầy ân sủng, Giáo hội ‘vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh tẩy' (Lumen Gentium, 8). Như thế, một cách nghịch lý, việc tự phê bình của cộng đồng giáo hội và việc nó chịu hoán cải liên tục làm chứng cho hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Không có sự hoán cải, Giáo hội, vốn hiện hữu để bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, có thể che khuất một cách độc đáo việc Thiên Chúa ban tặng ân sủng, như cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ đã cho thấy một cách rất bi thảm.
Vì nó tham gia vào lịch sử luôn thay đổi của nhân loại, Giáo hội vừa là 'Bí tích chung của sự cứu rỗi' cho thế giới vừa là 'người hành hương', một người thừa nhận sự không trọn vẹn của mình và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa (Lumen Gentium, 48). Như một bí tích và người hành hương, Giáo hội sống nhờ ân sủng, một điều hợp nhất tính đa dạng của Giáo hội thành một nhân chứng chung.
Giáo hội như hiệp thông
Tác động của Đức Giáo Hoàng Phanxicô phần nhiều nhờ vào sự khôn ngoan, sự nồng nhiệt và nhân chứng bản thân của ngài.
Tuy nhiên, cũng quan trọng như các phẩm tính nhân cách của ngài, khán giả toàn thế giới lắng nghe tiếng nói của ngài do hậu quả của sự kiện Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong tư cách giáo hoàng, hiện thân và đại diện cho Giáo Hội Công Giáo. Hiện thân và đại diện làm nổi bật thực tại nhân bản của Giáo hội, sự hiện hữu của nó như một hiệp thông của con người. Sự hiệp thông này dành cho tất cả những ai, qua lời kêu gọi của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, mong muốn được sống như những môn đệ và những người hành hương. Như một dân tộc, Giáo hội tìm cách được mở rộng như là ân sủng. Giáo hội không mang tính giáo phái cũng như không theo chủ nghĩa dân tộc. Giáo Hội được làm giàu bởi những ân phúc của Chúa Thánh Thần vượt quá thời gian và không gian, trong khi tìm được một ngôi nhà trong các nền văn hóa đa dạng và trong tất cả những gì thiện hảo trong ‘tài nguyên, khả năng và phong tục tập quán của các dân tộc’ (Lumen Gentium, 13).
Giáo Hội, 'sự hiệp thông sự sống, tình yêu và sự thật' (Lumen Gentium, 9) trong Chúa Kitô, phát triển mạnh mẽ nhờ các thiên phú và tài năng của các thành viên. Mọi người đã chịu phép rửa đều tham gia vào sứ mệnh của Giáo hội (Lumen Gentium, 13). Mỗi thành viên cũng nhận được lời mời gọi của Chúa Thánh Thần bước vào đời sống thánh thiện, một lời mời gọi được các bí tích nuôi dưỡng, một lời mời gọi đơm bông khi tất cả các thành viên của Giáo Hội ‘Biểu lộ trong việc làm bình thường của họ tình yêu mà Thiên Chúa đã dùng yêu thế giới’ (Lumen Gentium, 42). Đời sống tu dòng và các thừa tác vụ thụ phong của Giáo hội hiện thân ơn gọi nên thánh phổ quát này một cách đặc biệt. Những cách này không cao trọng hơn các cách khác, nhưng là các máng chuyển để Chúa Thánh Thần hỗ trợ toàn thể cộng đồng phục vụ sự trị vì của Thiên Chúa.
Như một cơ thể trong lịch sử, cộng đồng Kitô giáo đòi hỏi phải có ‘các cơ quan’ để tạo điều kiện cho việc tụ họp để thờ phượng, làm sáng tỏ đức tin vốn gắn kết các thành viên với nhau, giải quyết tranh chấp và cổ vũ sự tham gia xã hội của Giáo hội. Bảo tồn, lưu truyền và thực thi đức tin vào Chúa Kitô không thể khả hữu nếu không có Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trong việc tự hiểu mình của Giáo hội, ân sủng và các cơ cấu giáo hội đan xen với nhau.
Công đồng Vatican II dạy rằng Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội ‘các ơn phúc phẩm trật và đoàn sủng khác nhau’ (Lumen Gentium, 4). Những ơn phúc này không phải là các thuật toán có thể hoạt động với sự tham gia tối thiểu của con người; đúng hơn, chúng thành hình trong con người. Một cách đáng chú ý, Công đồng tuyên bố rằng 'theo cách tương tự phần nào như thế' với sự kết hợp của Thiên Chúa và nhân loại trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu, ‘cơ cấu xã hội của giáo hội phục vụ Thần Trí Chúa Kitô, Đấng làm cho nó ra sinh động' (Lumen Gentium, 8). Nguyên tắc này mô tả các cơ cấu của Giáo hội như các cơ cấu bí tích, đầy ân sủng, đầy nhân bản. Nổi bật trong cách giải thích này là thừa tác vụ thụ phong của Giáo hội, nhất là thừa tác vụ giám mục.
Trong công thức của Công đồng Vatican II, các giám mục của Giáo hội, nhờ Chúa Thánh Thần, 'là các thầy dạy đích thực, nghĩa là, những thầy dạy được ban cho thẩm quyền của Chúa Kitô, những vị rao giảng cho những người được trao phó cho họ đức tin cần được tin tưởng và áp dụng vào thực tế' (Lumen Gentium, 25). Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục giáo sĩ trong Giáo hội đã làm cho việc tích cực tiếp nhận thừa tác vụ giám mục và linh mục trở nên khó khăn hơn. Cuộc khủng hoảng lạm dụng đã làm khuếch đại các trào lưu bất an khác về việc thực thi thẩm quyền giám mục, bao gồm cả khoảng cách được tri nhận giữa các giám mục và toàn thể cộng đồng những người đã chịu phép rửa. Sự bất an này làm rõ hơn niềm mong ước hàng lãnh đạo giám mục suy tư đầy đủ hơn những phẩm tính hiển nhiên trong mối liên hệ của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người (Mt 20:25; Mc 9: 33-5; Lc 22: 24-7), những đức tính làm tăng cường niềm tín thác vào Chúa Giêsu.
Chiều kích đồng nghị của đời sống Giáo hội, mà Công đồng Toàn thể tượng trưng và được Đức Giáo Hoàng Phanxicô cổ vũ không mệt mỏi, có thể là một đường dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn và một thực hành đổi mới thừa tác vụ giám mục và linh mục bên trong một dân Chúa duy nhất.
Nói tóm lại, tính đồng nghị có thể đổi mới Giáo hội như một hiệp thông đơn nhất, đầy ân sủng, được kêu gọi để truyền giáo.
Tính đồng nghị trong Đời sống Giáo hội
Tính đồng nghị được xây dựng trên niềm xác tín rằng mọi người đã chịu phép rửa, đều lãnh nhận ‘một việc xức dầu vốn phát xuất từ đấng thánh, nên không thể bị nhầm lẫn trong niềm tin' (Lumen Gentium, 12).
Nhờ ân sủng của phép rửa, trách nhiệm đối với đức tin, sự hiệp thông và sứ mệnh của Giáo Hội là gia sản của mọi người đã chịu phép rửa. Sự nhấn mạnh thừa nhận rằng mỗi thành viên đã chịu phép rửa của Giáo hội đều tham gia vào 'chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô' (Lumen Gentium, 31). Các giám mục có những nhiệm vụ chuyên biệt đối với Giáo hội (Lumen Gentium, 20-7), nhưng sứ mệnh của toàn thể cộng đồng Giáo hội được hưởng lợi khi các giám mục và tất cả những người đã chịu phép rửa đều biện phân và cùng nhau đáp ứng sự thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa trong lịch sử.
Do đó, sự hữu hiệu của tính đồng nghị phụ thuộc vào toàn bộ cộng đồng Tín hữu. Sự biện phân chung biểu lộ việc Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội. Nó cho thấy mối liên kết chặt chẽ giữa sự lành mạnh của Giáo hội và sự hiện hữu của nó như một cơ thể đơn nhất nhưng được dị biệt hóa. Chỉ nhờ Chúa Thánh Thần, và chỉ với nhau, Giáo hội mới có thể thu hẹp khoảng phân cách giữa công việc tuyên tín của nó và những thất bại vốn ngăn cản cuộc hành hương của nó khỏi minh chứng dứt khoát cho ân sủng. Chỉ với nhau, cộng đồng Giáo hội mới có thể thực sự là ‘duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền.'
Tính đồng nghị lên khuôn cho một ơn chuyên biệt mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội qua hàng giám mục: trách nhiệm của các ngài trong việc ‘rút ra từ kho mạc khải những điều mới và những điều cũ' (Lumen Gentium, 25). Các giám mục duy trì ký ức của Giáo hội. Ký ức này, một ký ức kết nối cộng đồng Kitô hữu mọi lúc và mọi nơi với tất cả những gì Thiên Chúa đã làm trong Chúa Giêsu Kitô, là một công cụ của Chúa Thánh Thần. Tính độc đáo trong ký ức của Giáo hội — đúng hơn, tính chất nghịch lý của nó — là xu hướng của nó: không hoàn toàn hướng về quá khứ, nhưng hướng về sự sống viên mãn trong Chúa Kitô.
Ký ức tạo sinh khí để cộng đồng chuyển dịch vào tương lai. Qua thừa tác vụ của các ngài với ký ức của Giáo Hội, các giám mục là điều chủ yếu cho lòng trung thành của Giáo hội đồng nghị đối với lịch sử lâu dài của việc Thiên Chúa đồng hành. Chính thừa tác vụ này bênh vực, hỗ trợ và khuyến khích cộng đồng Giáo hội đáp ứng sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong tương lai.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả một cách nổi bật thừa tác vụ giám mục có thể phục vụ hữu hiệu cho cộng đồng hành hương: một giám mục phải ‘đi trước dân của mình, chỉ đường và giữ cho lòng hy vọng của họ sôi động. Vào những lúc khác, ngài sẽ chỉ đơn giản ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân hậu của mình. Vào những lúc khác nữa, ngài phải đi sau họ, giúp đỡ những người tụt hậu và — trên hết — cho phép bầy chiên đi trên những nẻo đường mới’(Evangelii Gaudium, 236).
Tính đồng nghị có thể là nền tảng cho óc sáng tạo nói lên được sự tiếp nhận trung thành của lịch sử đức tin sống động của Giáo hội. Óc sáng tạo này cho phép việc lấy làm của mình sâu xa hơn những gì cộng đồng ở từng thời điểm và địa điểm nhận được từ quá khứ. Tiếp nhận một cách sáng tạo tiết lộ các bình diện phong phú chỉ trở nên rõ ràng nhờ các câu hỏi phù hợp với các ngữ cảnh chuyên biệt. Ngược lại, sự phong phú này làm chứng cho Thần trí Chúa Kitô ở trung tâm đức tin của Giáo Hội.
‘Tiếng nói sống động của Tin Mừng’, một tiếng nói sẽ ‘vang lên trong Giáo hội — và qua đó, trong thế giới' (Dei Verbum, 8) đòi hỏi các giám mục và tất cả các tín hữu phải cùng chung một hơi thở.
Tính hỗ tương này phụ thuộc vào việc cùng tiếp xúc với Lời Chúa, việc cầu nguyện, sự cởi mở đối với các vấn đề, khiêm tốn tự phê phán và mong muốn nhập thể đức tin của Giáo hội vào các khung cảnh văn hóa, những khung cảnh, với tính hết sức phức tạp của chúng, cũng là lĩnh vực dồi dào ân sủng. Khả năng được Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội để biện phân điều ‘xem ra tốt cho Chúa Thánh Thần và cho chúng tôi’ (Cv 15:28) là nền tảng cho tính đồng nghị. Cũng chính ân sủng này giúp những người có đức tin tiếp tục hy vọng giữa tất cả những gì Giáo hội phải thương lượng vì lợi ích của sự hiệp thông và sứ mệnh của mình. Biện phân là thành phần không thể thiếu của tính đồng nghị. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả, biện phân khác với ‘tự phân tích hoặc một hình thức nội quan vị kỷ’, nó là ‘một diễn trình thực sự bỏ mình lại phía sau để tiếp cận mầu nhiệm Thiên Chúa' (Gaudete et Exsultate, 175). Mục tiêu của việc biện phân này là chuẩn bị cơ sở cho các quyết định về cách tốt nhất để phát biểu sứ mệnh của Giáo hội trong những hoàn cảnh thời gian và không gian chuyên biệt, chẳng hạn như Úc vào năm 2022. Thông qua việc biện phân của mình, cộng đồng Giáo hội, trung thành với giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu việc suy tư này về Giáo hội, tìm cách thông truyền Tin Mừng ‘bằng các hình thức diễn đạt khác nhau, các dấu hiệu và từ ngữ hùng hồn hơn với những ý nghĩa mới đối với thế giới ngày nay' (Evangelii Gaudium, 11).
Bức chân dung của Giáo hội trong việc suy tư này nhấn mạnh rằng Giáo hội sẽ vẫn là một người hành hương cho đến khi Thiên Chúa mang lại sự viên mãn của vương quốc. Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và duy trì cuộc hành hương này bằng lời nói, bí tích và đời sống đức tin chung là hồng ân lâu dài của Thiên Chúa ban cho Giáo hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo hội trên đường hành hương có thể phát triển như một cộng đồng các đệ tử rộng lòng và đầy cảm thương, những người mà sự hiện diện có thể là nguồn hy vọng cho Úc đại lợi. Như một cộng đồng đầy ân sủng, nhân bản, Giáo hội, vốn có nền tảng trong niềm vui và hòa bình của Lễ Phục sinh, trong sự sống mới của Chúa Giêsu Phục sinh, có thể là ánh sáng cho các quốc gia.
Richard Lennan
Cao đẳng Boston — Trường Thần học và Thừa tác vụ
15 tháng 5, 2022