Linh mục Murray, S.J., coi vấn đề tự do tôn giáo là vấn đề thiết thân của ngài trong tư cách thần học gia và trong tư cách một người Hoa Kỳ. Ngài bảo: có thể coi nó là vấn đề của Hoa Kỳ tại Công Đồng. Vì hàng giám mục Hoa Kỳ rất hân hoan khi vấn đề này rốt cuộc đã được ghi vào nghị trình của Công Đồng, bất chấp nhiều cố gắng nhằm ngăn cản cuộc thảo luận về nó. Qua Đức Hồng Y Spellman, các giám mục Hoa Kỳ đã can thiệp rất lâu để vấn đề được trình bày với các nghị phụ. Tất cả các giám mục Hoa Kỳ đều sẵn sàng hỗ trợ và củng cố bản văn do Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo soạn thảo.
Thực ra, có tới hai bản văn được đem ra trình bày. Bản thứ nhất là Chương Năm trong Sắc Lệnh về Đại Kết, tựa là “Về Tự Do Tôn Giáo”. Bản thứ hai là bản relatio (bản tường trình) dài hơn của Đức Cha Emile De Smedt, giáo phận Bruges. Bản sau quan trọng hơn vì khai triển rất chi tiết lý lẽ của sắc lệnh.
Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo soạn bản văn này trước khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố thông điệp Pacem in Terris. Nhưng học lý của bản văn thì giống hệt học lý của thông điệp. Bản văn trình bày khá dài lịch sử phát triển tư duy thần học về vấn đề này, còn thông điệp thì xác nhận giá trị của việc phát triển ấy.
Xét chung, có hai điểm chủ yếu về học lý. Thứ nhất, nó quả quyết rằng do bản chất tự nhiên (jure naturae) mọi người đều có quyền tự do thực hành tôn giáo trong xã hội theo phán định của lương tâm bản thân họ. Quyền này theo yếu tính tùy thuộc phẩm giá nhân vị đúng nghĩa. Thứ hai, các hậu quả pháp lý của quyền này được xác lập, nghĩa là mọi người khác trong xã hội, nhất là nhà nước, có bổn phận phải thừa nhận quyền bản thân này, tôn trọng nó trong thực hành, và cổ vũ việc thi hành nó cách tự do. Nói chung, đó chính là tâm điểm của vấn đề.
Bốn lý do được nêu ra cho việc chủ trương học lý này. Tất cả các lý do này đều dẫn khởi từ hoàn cảnh cụ thể của thế giới ngày nay. Thứ nhất, hiện nay, cần phải tuyên bố rõ học lý đích thực của Giáo Hội về tự do tôn giáo trong xã hội, vì học lý này đã được suy tư thần học, và cả kinh nghiệm chính trị, minh xác trong mấy thế hệ vừa qua.
Thứ hai, hiện nay Giáo Hội cần phải đảm nhận vai trò bào trợ phổ quát đối với phẩm giá con người nhân bản và các tự do căn bản của con người, xét vì trong thời đại này, chủ nghĩa toàn trị tàn ác đang tự áp đặt lên gần phân nửa nhân loại.
Thứ ba, chúng ta đang sống trong xã hội đa nguyên về tôn giáo, như người ta thường mô tả. Mọi con người tôn giáo cũng như không tôn giáo cần phải sống với nhau trong các điều kiện công lý, hòa bình và thân hữu, dưới các luật lệ công bằng có khả năng che chở toàn bộ các quyền nhân bản, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Bởi thế Giáo Hội cần cho thấy con đường dẫn tới công lý và hòa bình trong xã hội, bằng cách ủng hộ chính nghĩa tự do nhân bản, mà theo giáo huấn của Đức Gioan XXIII vốn vừa là một mục đích chủ yếu của xã hội có tổ chức vừa là phương pháp và phong thái chủ yếu của sinh hoạt chính trị.
Thứ bốn và là lý do cuối cùng, ta đang sống trong một thời đại trong đó hy vọng đại kết vĩ đại đã được khai sinh. Dĩ nhiên, mục tiêu của việc hợp nhất Kitô Giáo nằm quá bên kia các chân trời viễn kiến hiện nay của ta. Tuy nhiên, ta biết rằng nẻo đường dẫn tới mục tiêu xa xôi ấy chỉ có thể nằm dài theo con đường tự do, tự do xã hội, tự do dân chính, tự do chính trị và tự do tôn giáo. Do đó, Giáo Hội phải hỗ trợ công trình tạo nên các điều kiện cho tự do trong xã hội; trách vụ này chính là thành phần cấu tạo ra sứ mệnh thiêng liêng của Giáo Hội, một sứ mệnh tự nó vốn là sự thống nhất tâm linh của nhân loại và giúp mọi người tìm ra sự thống nhất này. Tóm lại đó là bốn lý do của sắc lệnh về tự do tôn giáo.
Bản Tường Trình bắt tay làm sáng tỏ các điểm mù mờ và quan niệm sai lầm liên quan tới ý niệm tự do tôn giáo vốn là di sản của cuộc tranh chấp trong thế kỷ 19 giữa Giáo Hội và ý thức hệ duy tục (laicist) thoát thai từ Phong Trào Ánh Sáng và cuộc Cách Mạng Pháp. Một cách ngắn gọn, Giáo Hội ngày nay vẫn cần phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ “đặt lương tâm ra ngoài luật lệ”, là ý thức hệ quả quyết rằng lương tâm con người không bị trói buộc bởi bất cứ thiên luật nào, mà chỉ bị trói buộc bởi các qui luật do chính nó tạo ra cho chính nó một cách cá thể.
Một lần nữa, Giáo Hội ngày nay vẫn phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ dửng dưng tôn giáo, nghĩa là, trên quan niệm cho rằng mọi tôn giáo đều chân thực như nhau, hay sai lạc như nhau. Hơn nữa, Giáo Hội ngày nay vẫn cần phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ duy tương đối về lý thuyết, nghĩa là, trên ý niệm triết học này: không hề có tiêu chuẩn khách quan cho chân lý.
Các ý thức hệ của thế kỷ 19 trên đây, cách này hay cách khác vẫn còn hiện hữu giữa chúng ta, đã làm sai lạc ý niệm tự do tôn giáo chỉ vì chúng quan niệm không đúng về phẩm giá con người. Con người không phải là Thiên Chúa; họ chỉ là hình ảnh của Người. Chí có Thiên Chúa mới là Chúa mà thôi. Phẩm giá yếu tính con người hệ ở sự lệ thuộc của họ vào một mình Thiên Chúa; tự do trong yếu tính con người đòi hỏi họ nhiên hậu phải được cai quản bởi một mình thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Với quan điểm này, ý niệm tự do tôn giáo đích thực mới xuất hiện được.
Vì phẩm giá bản thân của mình, con người, khi đi tìm Thiên Chúa, có quyền được tự do, không bị bất cứ cưỡng chế nào từ người khác, từ các định chế xã hội hay định chế chính trị, hay từ quyền lực luật pháp nhân bản. Con người phải được tự do đi tìm Thiên Chúa, họ phải được tự do gắn bó với sự thật của Thiên Chúa. Đó chính là một thiên luật, được khắc ghi vào bản nhiên con người, và càng được ghi rõ hơn vào tin mừng của Chúa Kitô. Bởi thế, về phương diện tiêu cực, tự do tôn giáo đích thực hệ ở việc miễn nhiễm con người khỏi mọi cưỡng chế trong mọi điều liên quan tới liên hệ bản thân của họ với Thiên Chúa; còn về phương diện tích cực, nó hệ ở việc được tự do thi hành tôn giáo giữa lòng xã hội dân sự.
Đó là quan niệm tự do tôn giáo trong bản văn của công đồng và được Bản Tường Trình khai triển. Cha Murray thú thực rằng quan niệm này chưa thỏa đáng bao nhiêu, dù đúng sự thật. Theo ngài, nhiệm vụ của Công Đồng là phải thiết lập công thức “tự do tôn giáo” bên trong tự vựng Kitô Giáo, phải định nghĩa hay mô tả chiều hướng và ý nghĩa đầy đủ của nó, và phải làm điều này cách sao đó để ít nhất cũng có được sự nhất trí tổng quát giữa mọi Kitô hữu, bất luận là Công Giáo hay không, liên quan tới nội dung chủ yếu của công thức này. Bởi thế ngài hy vọng trong diễn trình thảo luận tại Công Đồng, ý niệm này sẽ được chi tiết hóa đầy đủ hơn nữa.
Ý định của sắc lệnh có tính mục vụ và đại kết. Bởi thế, nó chỉ đảm nhận việc xác định ra thái độ để người Công Giáo duy trì và biểu lộ với các Kitô hữu đồng đạo và với mọi con người khác. Thái độ này đặt căn bản trên học lý Công Giáo liên quan tới sự tự do cần thiết trong hành vi đức tin Kitô Giáo. Chúa Cha qua Chúa Kitô, Chúa chúng ta, đã tự ý nói Lời Cứu Rỗi của Người cho loài người, đó chính là lời sự thật và yêu thương, là lời mời gọi ta bước vào mối liên hệ liên bản ngã giữa con người và Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật vốn là Cha, Con và Thánh Thần. Lời Thiên Chúa đã được tự do nói ra; con người có nhiệm vụ đáp trả lời ấy cách tự do. Lời đáp trả này, bất luận là chấp thuận hay bác bỏ, phải là trách nhiệm bản thân. Không ai được thoái thác trách nhệm này. Không ai được lãnh trách nhiệm này cho người khác, mà chỉ lãnh nó cho chính mình mà thôi.
Quyết định, bất luận là theo hay chống Thiên Chúa, phải là quyết định bản thân. Thành thử, không ai, và chắc chắn không Kitô hữu nào, được tròng bất cứ hình thức cưỡng chế nào, dù là thể lý, hay luân lý hoặc luật pháp, lên một người khác. Làm thế là vi phạm lề luật chủ yếu trong nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, một nhiệm cục dạy rằng con người phải tiếp nhận hồng phúc ơn thánh một cách tự do, hoặc không tiếp nhận gì cả. Bởi thế, thần học về hành vi đức tin buộc các Kitô hữu phải có thái độ tôn trọng và tôn kính đối với những người không cùng đức tin với họ. Đây không hẳn là chủ nghĩa dửng dưng tôn giáo. Vì ở đây, ta không hề quả quyết rằng sự thật và sai lầm đều như nhau trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, ta phải quả quyết phẩm giá của con người nhân bản và sự tự do trong các quyết định bản thân của họ về tôn giáo.
Tất cả mọi điều trên đều rõ ràng. Nhưng sắc lệnh và Bản Tường Trình còn đưa ta vào một lãnh vực khác, hết sức khó khăn. Tự do tôn giáo còn là một quyền cần được thi hành trong xã hội nữa, trong một xã hội dân sự vốn được tổ chức về phương diện chính trị, một xã hội nhận được cơ cấu của nó từ một trật tự pháp chế và được cai trị bởi một thẩm quyền chính trị hợp pháp. Khó khăn là ở chỗ đó. Trong một xã hội có tổ chức, không nhân quyền nào, ngay cả quyền tự do tôn giáo, là vô giới hạn khi đem ra thi hành cả. Bởi thế, câu hỏi chủ yếu là: đâu là các nguyên tắc theo đó, việc thực thi tự do tôn giáo trong xã hội có thể bị giới hạn một cách chính đáng và hợp pháp? Hay, xét theo một tầm nhìn khác, đâu là thẩm quyền của chính phủ dân sự đối với việc thi hành quyền tự do tôn giáo trong xã hội? Nói một cách cụ thể, đâu là qui định mà pháp chế cần đưa ra để kiểm soát việc sử dụng luật pháp để cưỡng chế trong phạm vi hết sức tế nhị và nhạy cảm này? Các câu hỏi này khó có câu trả lời. Nhưng ta lại không thể tránh né chúng. Tự do tôn giáo không đơn giản chỉ là vấn đề đạo đức hay luân lý. Nó còn là vấn đề hiến định nữa. Ta gặp vấn đề này với tính cụ thể trọn vẹn nhất của nó trong lãnh vực luật pháp và cai trị.
Theo ý kiến Cha Murray, sắc lệnh chưa rõ ràng và minh nhiên đủ khi đề cập tới vấn đề giới hạn quyền tự do tôn giáo về phương diện xã hội và luật lệ. Nó quả đúng, khi xác nhận nguyên tắc, mà cũng là một sự kiện, rằng vì diễn ra công khai và diễn ra trong xã hội, việc thi hành quyền tự do tôn giáo phải chịu một số giới hạn hợp pháp. Nó cho rằng các giới hạn này có thể được áp đặt nhân danh ích chung hay nhân danh quyền lợi người khác. Tất cả các điều này đều đúng. Nhưng theo Cha Murray, chúng quá mơ hồ. Nại tới ích chung làm cơ sở cho các giới hạn luật pháp đối với tự do tôn giáo cũng không khác gì nại tới lý do nhà nước, thẩy đều là những học thuyết nguy hiểm. Hơn nữa, nại tới quyền người khác làm cơ sở để hạn chế tự do tôn giáo cũng chẳng khác gì việc trá hình nại tới quyền của đa số, vốn cũng là một học thuyết nguy hiểm.
Bản Tường Trình xem ra có phần thỏa đáng hơn. Nó rõ ràng tiếp nhận quan niệm pháp chế về nhà nước từng được Đức Piô XII khai triển, và được Đức Gioan XXIII nhấn mạnh hơn nữa trong Pacem in Terris. Hai vị giáo hoàng này để qua một bên quan niệm có tính Aristốt và đạo đức nhiều hơn về nhà nước vốn tìm thấy nơi Đức Lêô XIII. Do đó, Bản Tường Trình minh xác rằng yếu tố đệ nhất đẳng trong ích chung hệ ở việc dùng luật pháp để bảo vệ và cổ vũ trọn bộ trật tự các quyền và tự do, vốn thuộc con người nhân bản đúng nghĩa. Bởi thế, Bản Tường Trình cũng minh xác rằng không thể biện minh được việc vị phạm quyền bản thân của con người, nhất là quyền tự do tôn giáo, chỉ bằng cách nại tới ích chung. Một vi phạm như thế vào quyền lợi bản thân chính là vi phạm vào chính ích chung. Đây quả là một triết học và pháp chế học chính trị rất tốt.
Tuy nhiên, Cha Murray vẫn cho rằng ta cần tiến thêm bước nữa, ít nhất theo quan điểm Hoa Kỳ, theo truyền thống chính trị, luật lệ và pháp chế Anh Mỹ. Hệ thống hiến pháp của Hoa Kỳ đặt căn bản trọn vẹn trên hai nguyên tắc căn bản sau đây: Thứ nhất, con người được Tạo Hóa phú ban cho một số quyền bất khả nhượng; thứ hai, chính phủ và trật tự pháp luật có đó chủ yếu để bảo vệ và cổ vũ các quyền này. Các nguyên tắc này đã được Đức Piô XII và Gioan XXIII quả quyết cách rõ ràng. Tuy thế, hệ thống Hoa Kỳ cũng còn đề cao một nguyên tắc khác, đó là chính phủ không có thẩm quyền làm chánh án hay trọng tài trong lãnh vực sự thật tôn giáo, cũng như trong các lãnh vực nghệ thuật và khoa học.
Chính phủ là một quyền bính thế tục; thẩm quyền của nó bị giới hạn vào các vụ việc trần thế của những con người cần sống với nhau trong công lý, hòa bình và tự do. Cho nên, chính phủ sẽ hành động ultra vires (quá thẩm quyền của mình) nếu nó phải đảm nhiệm việc phê phán tôn giáo này đúng tôn giáo kia sai. Chính phủ còn hành động quá thẩm quyền hơn nữa nếu áp đặt lên công dân, bằng phương tiện luật pháp, bất cứ loại phê phán thần học nào; nghĩa là, nếu nó sử dụng luật pháp để quả quyết một tôn giáo đặc thù nào đó, như Đạo Công Giáo chẳng hạn, là tôn giáo của cả cộng đồng dân tộc.
Nguyên tắc này, tức nguyên tắc cho rằng quyền bính chính trị thế tục không có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo, đã bén rễ rất sâu vào truyền thống chính trị chân thực của Phương Tây Kitô Giáo. Nó cũng được khẳng định trong truyền thống thần học của Giáo Hội. Đức Lêô XIII, chẳng hạn, minh xác rõ ràng rằng quyền bính chính trị không dự bất cứ phần nào vào việc săn sóc các linh hồn (cura animarum) hay trong việc kiểm soát tâm tư con người (regimen animorum). Dĩ nhiên, đúng là nguyên tắc chính trị này từng bị lu mờ ở Âu Châu trong nhiều thế kỷ, phần lớn do việc xuất hiện của chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối và cái gọi là “Sự Hợp Nhất Giữa Ngai Vàng Và Bàn Thờ” gây ra. Tuy nhiên, truyền thống đích thực thì vẫn được duy trì trong hệ thống hiến pháp Hoa Kỳ. Chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối chưa bao giờ đặt chân lên Hoa Kỳ, cả Giáo Hội lẫn nhân dân Hoa Kỳ đều hân hoan vì sự kiện này. Vì vậy, cha Murray cũng như các đồng bào của ngài, cả Công Giáo lẫn không Công Giáo, mong muốn thấy nguyên tắc này được quả quyết trong bản văn sau cùng của Công Đồng về tự do tôn giáo. Ví nó rất chủ yếu cho việc thi hành tự do tôn giáo trong xã hội. Nó bổ túc các luận điểm thần học bằng cách thêm vào đó một luận điểm chính trị vững chắc. Và nguyên tắc chính trị này, tức nguyên tắc cho rằng quyền bính chính trị không có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo, cần được đặc biệt nêu ra khi có vấn đề áp đặt các luật lệ hạn chế lên việc tự do thực hành tôn giáo trong xã hội.
Bản Tường Trình đề cập khá đầy đủ một vấn đề khác nữa thuộc phạm vi này. Đó là một vấn đề thần học. Sự kiện là, thoạt nhìn, các quả quyết trong Pacem in Terris liên quan tới tự do tôn giáo và liên quan tới các hậu quả pháp lý của quyền này xem ra mâu thuẫn với các tuyên bố của Giáo Hội trong thế kỷ 19, là các tuyên bố xem ra bác bỏ quyền này. Bản Tường Trình xử lý vấn đề này theo cách duy nhất nó có thể xử lý được là coi đây như một khai triển chân chính và chân thực, cả trong học lý lẫn trong quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với phẩm giá và tự do của con người.
Để kết luận, cha Murray ghi nhận hai vấn đề chủ yếu đang được đặt ra cho Giáo Hội. Vấn đề thứ nhất có tính mục vụ và đại kết. Giáo Hội luôn chiến đấu cho tự do và cho tự do của con cái mình. Vấn đề ngày nay là Giáo Hội có nên mở rộng quan tâm mục vụ của mình quá bên kia biên giới hay không để đảm nhận việc tích cực bảo trợ cho tự do của con người nhân bản, vốn được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người, vốn được máu Chúa Kitô cứu chuộc, và hiện đang chịu nhiều đe dọa lớn lao đối với nhân phẩm và tự do bản thân. Vấn đề thứ hai có tính cách lý thuyết. Liệu việc đảm nhiệm trách vụ mục vụ phổ quát này có được chứng thực hay không? Nó có được đặt cơ sở trên truyền thống học lý của Giáo Hội liên quan tới nhân phẩm và nhân quyền hay không? Cha Murray nghĩ rằng câu trả lời cẩn ở thể khẳng định, nếu ta chịu hiểu truyền thống Giáo Hội theo nghĩa chân thực của nó, nghĩa là một truyền thống mỗi ngày một lớn thêm để hiểu sự thật đầy đù hơn.
Mấy dòng lịch sử
Thiển nghĩ nhân dịp này cũng nên duyệt lại một số dữ kiện lịch sử liên quan tới vấn đề tự do tôn giáo trong Giáo Hội.
Trước khi cha Murray được đề cử làm chuyên viên Công Đồng, tự do tôn giáo, tuy không phải là một vấn đề lớn, nhưng đã được Công Đồng quyết định đem ra bàn trong một chương thuộc sơ đồ “Unitatis Redintegratio” tức “Sắc Lệnh Về Đại Kết”. Mùa hè 1962, trước khi Công Đồng nhóm họp, Đức Gioan XXIII đã chấp nhận các tuyên bố sơ khởi về tự do tôn giáo từ hai nguồn: Ủy Ban Thần Học do Đức HY Ottaviani đứng đầu, lúc ấy là Phó Bộ Trưởng Văn Phòng Thánh, và Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo do Đức HY Augustin Bea, người Đức, đứng đầu. Đức Gioan XXIII đề cử một ủy ban đặc nhiệm để hoà hợp hai bản văn này, nhưng tới tháng Tám 1962, các cuộc thảo luận lâm vào bế tắc.
Đức TGM Shehan của Maryland, Mỹ, có viết thư và gửi cho cha Murray bản sao hai văn kiện trên và yêu cầu cha bình luận. Cha Murray sợ rằng Công Đồng sẽ dừng lại ở phương thức hoàn toàn thực tiễn khiến cho đa số người Công Giáo sẽ phải sống trong trạng huống giả thuyết. Thành thử, trong thư trả lời, cha Murray cho hay: không hài lòng với hai văn kiện vì chúng không sẵn sàng đương đầu với vấn đề trong mọi khía cạnh cụ thể của nó, trong đó, bắt buộc phải bàn tới các khía cạnh lý thuyết của nó nữa, những khía cạnh hết sức quan trọng.
Ngày 4 tháng Tư năm 1963, Đức HY Francis Spellman của New York mời cha Murray tới Công Đồng Vatican II làm chuyên viên, khi thấy rõ Công Đồng sẽ dành một số lượng thời gian đáng kể để bàn tới chủ đề tự do tôn giáo. Tuy nhiên, khi tới họp, cha Murray mới biết cuộc thảo luận về tự do tôn giáo đã bị gạch bỏ khỏi nghị trình, nên ngài gửi một tờ trình 4 trang cho mọi giám mục Hoa Kỳ, thúc giục các ngài xin đem nó trở lại bàn thảo luận. Đức HY Spellman bèn thảo một lá thư xin cho tự do tôn giáo được đem ra thảo luận, một bản của tờ trình được đệ lên Đức Giáo Hoàng. Bởi thế, Đức Gioan XXIII đã yêu cầu Đức HY Ottaviani tổ chức các buổi họp để thảo luận “Sắc Lệnh về Đại Kết” trong đó có chương nói về tự do tôn giáo.
Sau khóa hai của Công Đồng, cha Murray có viết một bài trên tờ America, tờ tuần báo có ảnh hưởng của các cha Dòng Tên, về tự do tôn giáo, đang là chủ đề có tầm quan trọng bậc nhất đối với các giám mục Hoa Kỳ. Cha cũng tường trình nhiều phương cách lén lút mà cha tin sẽ khiến cho cuộc thảo luận bị bế tắc. Cuối mùa hè đó, cha nhận được một thông báo của tòa khâm sứ tại Hoa Kỳ nhắc cha nhớ bổn phận của chuyên viên trong đó có khoản không được vận động ý kiến công chúng liên quan tới các vấn đề đang được thảo luận tại Công Đồng.
Giữa khoá hai và khóa ba, Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo chỉ định cha Murray viết một tờ trình nhằm giải thích hai quan điểm đang thịnh hành và chống đối nhau lúc ấy về tự do tôn giáo. Cha Murray tránh không gọi hai quan điểm ấy là bảo thủ và cấp tiến, nhưng gọi quan điểm duy truyền thống là “quan điểm thứ nhất” và quan điềm của riêng ngài là “quan điểm thứ hai”. Bản giải thích này được nồng hậu tiếp nhận và bắt đầu từ khóa ba, cha được ủy nhiệm làm “ký lục thứ nhất” (first Scribe) để soạn thảo điều nay đã trở thành quá quan trọng đến không còn là một chương trong Sắc Lệnh về Đại Kết nữa, mà hy vọng sẽ đứng riêng thành “Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo”.
Ủy Ban Chuẩn Bị Thần Học được Đức Giáo Hoàng chỉ định xem sét các khía cạnh thần học trong nghị trình của Công Đồng vốn là một ủy ban về phe với Giáo Triều và coi mình là người “gìn giữ chính thống”. Đức Hồng Y Ottaviani lúc đó là Phó Bộ Trưởng Văn Phòng Thánh (tiền thân của Bộ Tin Lý sau này) dĩ nhiên cũng về phe Giáo Triều. Nhưng rất may, Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo được chỉ định giám sát diễn trình khai triển “Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo”.
Đến cuối khoá ba, cùng với nhiều chuyên viên khác, cha Murray viết xong một sơ đồ, hay dự thảo đề nghị, cho “Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo”. Đáng lẽ Công Đồng đã bỏ phiếu cho sơ đồ này rồi, nhưng cuộc bỏ phiếu bị đình lại cho tới đầu khóa bốn vì có sự chống đối của phe duy truyền thống lẫn và các bất đồng ngay trong những người ủng hộ “quan điểm thứ hai”. Công việc đối với sơ đồ không kết thúc ở đấy: Văn Phòng tiếp tục thu lượm các nhận định và đến tháng Sáu, 1965, tức giữa khóa ba và khóa bốn, đã gửi đi một dự thảo sửa đổi. Trong các tháng trước khóa bốn, cha Murray vẫn tiếp xúc với các giám mục có ảnh hưởng để xin các ngài ủng hộ dự thảo.
Ngày 14 tháng Chín, 1965, 7 ngày sau khoá bốn và phiên họp cuối cùng của Vatican II, các nghị phụ đã bỏ phiếu cho sơ đồ và chấp thuận bước tiến đầy cảm kích của nó dưới sự hướng dẫn của Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo. Quả thế, việc thảo luận tuyên ngôn này là điều đầu tiên được ghi vào nghị trình của khóa bốn. Bất hạnh thay, cha Murray bị đau phổi, đã không thể đóng góp được gì vào dự thảo cuối cùng, một dự thảo được chấp thuận vào ngày cuối cùng của Vatican II, tức ngày 7 tháng Mười Hai, 1965, với 2,308 phiếu thuận, 70 phiếu chống và 8 phiếu bất hợp lệ.
“Dignitatis Humanae” hay Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo là một văn kiện khai phá, xét về nhiều mặt. Nó cổ vũ để nguyên tắc tự do tôn giáo được coi như một dân quyền và buộc các chính phủ phải bảo vệ nó. Nó nhìn nhận rằng chủ trương trước đây của Giáo Hội về vấn đề này không hẳn công chính. Công Đồng còn tuyên bố rằng quyền tự do tôn giáo có nền tảng trong phẩm giá con người nhân bản, một phẩm giá được biết đến nhờ Lời mạc khải của Thiên Chúa và cả nhờ vào lý trí nữa.
Thực ra, có tới hai bản văn được đem ra trình bày. Bản thứ nhất là Chương Năm trong Sắc Lệnh về Đại Kết, tựa là “Về Tự Do Tôn Giáo”. Bản thứ hai là bản relatio (bản tường trình) dài hơn của Đức Cha Emile De Smedt, giáo phận Bruges. Bản sau quan trọng hơn vì khai triển rất chi tiết lý lẽ của sắc lệnh.
Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo soạn bản văn này trước khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố thông điệp Pacem in Terris. Nhưng học lý của bản văn thì giống hệt học lý của thông điệp. Bản văn trình bày khá dài lịch sử phát triển tư duy thần học về vấn đề này, còn thông điệp thì xác nhận giá trị của việc phát triển ấy.
Xét chung, có hai điểm chủ yếu về học lý. Thứ nhất, nó quả quyết rằng do bản chất tự nhiên (jure naturae) mọi người đều có quyền tự do thực hành tôn giáo trong xã hội theo phán định của lương tâm bản thân họ. Quyền này theo yếu tính tùy thuộc phẩm giá nhân vị đúng nghĩa. Thứ hai, các hậu quả pháp lý của quyền này được xác lập, nghĩa là mọi người khác trong xã hội, nhất là nhà nước, có bổn phận phải thừa nhận quyền bản thân này, tôn trọng nó trong thực hành, và cổ vũ việc thi hành nó cách tự do. Nói chung, đó chính là tâm điểm của vấn đề.
Bốn lý do được nêu ra cho việc chủ trương học lý này. Tất cả các lý do này đều dẫn khởi từ hoàn cảnh cụ thể của thế giới ngày nay. Thứ nhất, hiện nay, cần phải tuyên bố rõ học lý đích thực của Giáo Hội về tự do tôn giáo trong xã hội, vì học lý này đã được suy tư thần học, và cả kinh nghiệm chính trị, minh xác trong mấy thế hệ vừa qua.
Thứ hai, hiện nay Giáo Hội cần phải đảm nhận vai trò bào trợ phổ quát đối với phẩm giá con người nhân bản và các tự do căn bản của con người, xét vì trong thời đại này, chủ nghĩa toàn trị tàn ác đang tự áp đặt lên gần phân nửa nhân loại.
Thứ ba, chúng ta đang sống trong xã hội đa nguyên về tôn giáo, như người ta thường mô tả. Mọi con người tôn giáo cũng như không tôn giáo cần phải sống với nhau trong các điều kiện công lý, hòa bình và thân hữu, dưới các luật lệ công bằng có khả năng che chở toàn bộ các quyền nhân bản, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Bởi thế Giáo Hội cần cho thấy con đường dẫn tới công lý và hòa bình trong xã hội, bằng cách ủng hộ chính nghĩa tự do nhân bản, mà theo giáo huấn của Đức Gioan XXIII vốn vừa là một mục đích chủ yếu của xã hội có tổ chức vừa là phương pháp và phong thái chủ yếu của sinh hoạt chính trị.
Thứ bốn và là lý do cuối cùng, ta đang sống trong một thời đại trong đó hy vọng đại kết vĩ đại đã được khai sinh. Dĩ nhiên, mục tiêu của việc hợp nhất Kitô Giáo nằm quá bên kia các chân trời viễn kiến hiện nay của ta. Tuy nhiên, ta biết rằng nẻo đường dẫn tới mục tiêu xa xôi ấy chỉ có thể nằm dài theo con đường tự do, tự do xã hội, tự do dân chính, tự do chính trị và tự do tôn giáo. Do đó, Giáo Hội phải hỗ trợ công trình tạo nên các điều kiện cho tự do trong xã hội; trách vụ này chính là thành phần cấu tạo ra sứ mệnh thiêng liêng của Giáo Hội, một sứ mệnh tự nó vốn là sự thống nhất tâm linh của nhân loại và giúp mọi người tìm ra sự thống nhất này. Tóm lại đó là bốn lý do của sắc lệnh về tự do tôn giáo.
Bản Tường Trình bắt tay làm sáng tỏ các điểm mù mờ và quan niệm sai lầm liên quan tới ý niệm tự do tôn giáo vốn là di sản của cuộc tranh chấp trong thế kỷ 19 giữa Giáo Hội và ý thức hệ duy tục (laicist) thoát thai từ Phong Trào Ánh Sáng và cuộc Cách Mạng Pháp. Một cách ngắn gọn, Giáo Hội ngày nay vẫn cần phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ “đặt lương tâm ra ngoài luật lệ”, là ý thức hệ quả quyết rằng lương tâm con người không bị trói buộc bởi bất cứ thiên luật nào, mà chỉ bị trói buộc bởi các qui luật do chính nó tạo ra cho chính nó một cách cá thể.
Một lần nữa, Giáo Hội ngày nay vẫn phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ dửng dưng tôn giáo, nghĩa là, trên quan niệm cho rằng mọi tôn giáo đều chân thực như nhau, hay sai lạc như nhau. Hơn nữa, Giáo Hội ngày nay vẫn cần phải bác bỏ ý niệm tự do tôn giáo đặt căn bản trên ý thức hệ duy tương đối về lý thuyết, nghĩa là, trên ý niệm triết học này: không hề có tiêu chuẩn khách quan cho chân lý.
Các ý thức hệ của thế kỷ 19 trên đây, cách này hay cách khác vẫn còn hiện hữu giữa chúng ta, đã làm sai lạc ý niệm tự do tôn giáo chỉ vì chúng quan niệm không đúng về phẩm giá con người. Con người không phải là Thiên Chúa; họ chỉ là hình ảnh của Người. Chí có Thiên Chúa mới là Chúa mà thôi. Phẩm giá yếu tính con người hệ ở sự lệ thuộc của họ vào một mình Thiên Chúa; tự do trong yếu tính con người đòi hỏi họ nhiên hậu phải được cai quản bởi một mình thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Với quan điểm này, ý niệm tự do tôn giáo đích thực mới xuất hiện được.
Vì phẩm giá bản thân của mình, con người, khi đi tìm Thiên Chúa, có quyền được tự do, không bị bất cứ cưỡng chế nào từ người khác, từ các định chế xã hội hay định chế chính trị, hay từ quyền lực luật pháp nhân bản. Con người phải được tự do đi tìm Thiên Chúa, họ phải được tự do gắn bó với sự thật của Thiên Chúa. Đó chính là một thiên luật, được khắc ghi vào bản nhiên con người, và càng được ghi rõ hơn vào tin mừng của Chúa Kitô. Bởi thế, về phương diện tiêu cực, tự do tôn giáo đích thực hệ ở việc miễn nhiễm con người khỏi mọi cưỡng chế trong mọi điều liên quan tới liên hệ bản thân của họ với Thiên Chúa; còn về phương diện tích cực, nó hệ ở việc được tự do thi hành tôn giáo giữa lòng xã hội dân sự.
Đó là quan niệm tự do tôn giáo trong bản văn của công đồng và được Bản Tường Trình khai triển. Cha Murray thú thực rằng quan niệm này chưa thỏa đáng bao nhiêu, dù đúng sự thật. Theo ngài, nhiệm vụ của Công Đồng là phải thiết lập công thức “tự do tôn giáo” bên trong tự vựng Kitô Giáo, phải định nghĩa hay mô tả chiều hướng và ý nghĩa đầy đủ của nó, và phải làm điều này cách sao đó để ít nhất cũng có được sự nhất trí tổng quát giữa mọi Kitô hữu, bất luận là Công Giáo hay không, liên quan tới nội dung chủ yếu của công thức này. Bởi thế ngài hy vọng trong diễn trình thảo luận tại Công Đồng, ý niệm này sẽ được chi tiết hóa đầy đủ hơn nữa.
Ý định của sắc lệnh có tính mục vụ và đại kết. Bởi thế, nó chỉ đảm nhận việc xác định ra thái độ để người Công Giáo duy trì và biểu lộ với các Kitô hữu đồng đạo và với mọi con người khác. Thái độ này đặt căn bản trên học lý Công Giáo liên quan tới sự tự do cần thiết trong hành vi đức tin Kitô Giáo. Chúa Cha qua Chúa Kitô, Chúa chúng ta, đã tự ý nói Lời Cứu Rỗi của Người cho loài người, đó chính là lời sự thật và yêu thương, là lời mời gọi ta bước vào mối liên hệ liên bản ngã giữa con người và Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật vốn là Cha, Con và Thánh Thần. Lời Thiên Chúa đã được tự do nói ra; con người có nhiệm vụ đáp trả lời ấy cách tự do. Lời đáp trả này, bất luận là chấp thuận hay bác bỏ, phải là trách nhiệm bản thân. Không ai được thoái thác trách nhệm này. Không ai được lãnh trách nhiệm này cho người khác, mà chỉ lãnh nó cho chính mình mà thôi.
Quyết định, bất luận là theo hay chống Thiên Chúa, phải là quyết định bản thân. Thành thử, không ai, và chắc chắn không Kitô hữu nào, được tròng bất cứ hình thức cưỡng chế nào, dù là thể lý, hay luân lý hoặc luật pháp, lên một người khác. Làm thế là vi phạm lề luật chủ yếu trong nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, một nhiệm cục dạy rằng con người phải tiếp nhận hồng phúc ơn thánh một cách tự do, hoặc không tiếp nhận gì cả. Bởi thế, thần học về hành vi đức tin buộc các Kitô hữu phải có thái độ tôn trọng và tôn kính đối với những người không cùng đức tin với họ. Đây không hẳn là chủ nghĩa dửng dưng tôn giáo. Vì ở đây, ta không hề quả quyết rằng sự thật và sai lầm đều như nhau trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, ta phải quả quyết phẩm giá của con người nhân bản và sự tự do trong các quyết định bản thân của họ về tôn giáo.
Tất cả mọi điều trên đều rõ ràng. Nhưng sắc lệnh và Bản Tường Trình còn đưa ta vào một lãnh vực khác, hết sức khó khăn. Tự do tôn giáo còn là một quyền cần được thi hành trong xã hội nữa, trong một xã hội dân sự vốn được tổ chức về phương diện chính trị, một xã hội nhận được cơ cấu của nó từ một trật tự pháp chế và được cai trị bởi một thẩm quyền chính trị hợp pháp. Khó khăn là ở chỗ đó. Trong một xã hội có tổ chức, không nhân quyền nào, ngay cả quyền tự do tôn giáo, là vô giới hạn khi đem ra thi hành cả. Bởi thế, câu hỏi chủ yếu là: đâu là các nguyên tắc theo đó, việc thực thi tự do tôn giáo trong xã hội có thể bị giới hạn một cách chính đáng và hợp pháp? Hay, xét theo một tầm nhìn khác, đâu là thẩm quyền của chính phủ dân sự đối với việc thi hành quyền tự do tôn giáo trong xã hội? Nói một cách cụ thể, đâu là qui định mà pháp chế cần đưa ra để kiểm soát việc sử dụng luật pháp để cưỡng chế trong phạm vi hết sức tế nhị và nhạy cảm này? Các câu hỏi này khó có câu trả lời. Nhưng ta lại không thể tránh né chúng. Tự do tôn giáo không đơn giản chỉ là vấn đề đạo đức hay luân lý. Nó còn là vấn đề hiến định nữa. Ta gặp vấn đề này với tính cụ thể trọn vẹn nhất của nó trong lãnh vực luật pháp và cai trị.
Theo ý kiến Cha Murray, sắc lệnh chưa rõ ràng và minh nhiên đủ khi đề cập tới vấn đề giới hạn quyền tự do tôn giáo về phương diện xã hội và luật lệ. Nó quả đúng, khi xác nhận nguyên tắc, mà cũng là một sự kiện, rằng vì diễn ra công khai và diễn ra trong xã hội, việc thi hành quyền tự do tôn giáo phải chịu một số giới hạn hợp pháp. Nó cho rằng các giới hạn này có thể được áp đặt nhân danh ích chung hay nhân danh quyền lợi người khác. Tất cả các điều này đều đúng. Nhưng theo Cha Murray, chúng quá mơ hồ. Nại tới ích chung làm cơ sở cho các giới hạn luật pháp đối với tự do tôn giáo cũng không khác gì nại tới lý do nhà nước, thẩy đều là những học thuyết nguy hiểm. Hơn nữa, nại tới quyền người khác làm cơ sở để hạn chế tự do tôn giáo cũng chẳng khác gì việc trá hình nại tới quyền của đa số, vốn cũng là một học thuyết nguy hiểm.
Bản Tường Trình xem ra có phần thỏa đáng hơn. Nó rõ ràng tiếp nhận quan niệm pháp chế về nhà nước từng được Đức Piô XII khai triển, và được Đức Gioan XXIII nhấn mạnh hơn nữa trong Pacem in Terris. Hai vị giáo hoàng này để qua một bên quan niệm có tính Aristốt và đạo đức nhiều hơn về nhà nước vốn tìm thấy nơi Đức Lêô XIII. Do đó, Bản Tường Trình minh xác rằng yếu tố đệ nhất đẳng trong ích chung hệ ở việc dùng luật pháp để bảo vệ và cổ vũ trọn bộ trật tự các quyền và tự do, vốn thuộc con người nhân bản đúng nghĩa. Bởi thế, Bản Tường Trình cũng minh xác rằng không thể biện minh được việc vị phạm quyền bản thân của con người, nhất là quyền tự do tôn giáo, chỉ bằng cách nại tới ích chung. Một vi phạm như thế vào quyền lợi bản thân chính là vi phạm vào chính ích chung. Đây quả là một triết học và pháp chế học chính trị rất tốt.
Tuy nhiên, Cha Murray vẫn cho rằng ta cần tiến thêm bước nữa, ít nhất theo quan điểm Hoa Kỳ, theo truyền thống chính trị, luật lệ và pháp chế Anh Mỹ. Hệ thống hiến pháp của Hoa Kỳ đặt căn bản trọn vẹn trên hai nguyên tắc căn bản sau đây: Thứ nhất, con người được Tạo Hóa phú ban cho một số quyền bất khả nhượng; thứ hai, chính phủ và trật tự pháp luật có đó chủ yếu để bảo vệ và cổ vũ các quyền này. Các nguyên tắc này đã được Đức Piô XII và Gioan XXIII quả quyết cách rõ ràng. Tuy thế, hệ thống Hoa Kỳ cũng còn đề cao một nguyên tắc khác, đó là chính phủ không có thẩm quyền làm chánh án hay trọng tài trong lãnh vực sự thật tôn giáo, cũng như trong các lãnh vực nghệ thuật và khoa học.
Chính phủ là một quyền bính thế tục; thẩm quyền của nó bị giới hạn vào các vụ việc trần thế của những con người cần sống với nhau trong công lý, hòa bình và tự do. Cho nên, chính phủ sẽ hành động ultra vires (quá thẩm quyền của mình) nếu nó phải đảm nhiệm việc phê phán tôn giáo này đúng tôn giáo kia sai. Chính phủ còn hành động quá thẩm quyền hơn nữa nếu áp đặt lên công dân, bằng phương tiện luật pháp, bất cứ loại phê phán thần học nào; nghĩa là, nếu nó sử dụng luật pháp để quả quyết một tôn giáo đặc thù nào đó, như Đạo Công Giáo chẳng hạn, là tôn giáo của cả cộng đồng dân tộc.
Nguyên tắc này, tức nguyên tắc cho rằng quyền bính chính trị thế tục không có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo, đã bén rễ rất sâu vào truyền thống chính trị chân thực của Phương Tây Kitô Giáo. Nó cũng được khẳng định trong truyền thống thần học của Giáo Hội. Đức Lêô XIII, chẳng hạn, minh xác rõ ràng rằng quyền bính chính trị không dự bất cứ phần nào vào việc săn sóc các linh hồn (cura animarum) hay trong việc kiểm soát tâm tư con người (regimen animorum). Dĩ nhiên, đúng là nguyên tắc chính trị này từng bị lu mờ ở Âu Châu trong nhiều thế kỷ, phần lớn do việc xuất hiện của chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối và cái gọi là “Sự Hợp Nhất Giữa Ngai Vàng Và Bàn Thờ” gây ra. Tuy nhiên, truyền thống đích thực thì vẫn được duy trì trong hệ thống hiến pháp Hoa Kỳ. Chủ nghĩa quân chủ tuyệt đối chưa bao giờ đặt chân lên Hoa Kỳ, cả Giáo Hội lẫn nhân dân Hoa Kỳ đều hân hoan vì sự kiện này. Vì vậy, cha Murray cũng như các đồng bào của ngài, cả Công Giáo lẫn không Công Giáo, mong muốn thấy nguyên tắc này được quả quyết trong bản văn sau cùng của Công Đồng về tự do tôn giáo. Ví nó rất chủ yếu cho việc thi hành tự do tôn giáo trong xã hội. Nó bổ túc các luận điểm thần học bằng cách thêm vào đó một luận điểm chính trị vững chắc. Và nguyên tắc chính trị này, tức nguyên tắc cho rằng quyền bính chính trị không có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo, cần được đặc biệt nêu ra khi có vấn đề áp đặt các luật lệ hạn chế lên việc tự do thực hành tôn giáo trong xã hội.
Bản Tường Trình đề cập khá đầy đủ một vấn đề khác nữa thuộc phạm vi này. Đó là một vấn đề thần học. Sự kiện là, thoạt nhìn, các quả quyết trong Pacem in Terris liên quan tới tự do tôn giáo và liên quan tới các hậu quả pháp lý của quyền này xem ra mâu thuẫn với các tuyên bố của Giáo Hội trong thế kỷ 19, là các tuyên bố xem ra bác bỏ quyền này. Bản Tường Trình xử lý vấn đề này theo cách duy nhất nó có thể xử lý được là coi đây như một khai triển chân chính và chân thực, cả trong học lý lẫn trong quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với phẩm giá và tự do của con người.
Để kết luận, cha Murray ghi nhận hai vấn đề chủ yếu đang được đặt ra cho Giáo Hội. Vấn đề thứ nhất có tính mục vụ và đại kết. Giáo Hội luôn chiến đấu cho tự do và cho tự do của con cái mình. Vấn đề ngày nay là Giáo Hội có nên mở rộng quan tâm mục vụ của mình quá bên kia biên giới hay không để đảm nhận việc tích cực bảo trợ cho tự do của con người nhân bản, vốn được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người, vốn được máu Chúa Kitô cứu chuộc, và hiện đang chịu nhiều đe dọa lớn lao đối với nhân phẩm và tự do bản thân. Vấn đề thứ hai có tính cách lý thuyết. Liệu việc đảm nhiệm trách vụ mục vụ phổ quát này có được chứng thực hay không? Nó có được đặt cơ sở trên truyền thống học lý của Giáo Hội liên quan tới nhân phẩm và nhân quyền hay không? Cha Murray nghĩ rằng câu trả lời cẩn ở thể khẳng định, nếu ta chịu hiểu truyền thống Giáo Hội theo nghĩa chân thực của nó, nghĩa là một truyền thống mỗi ngày một lớn thêm để hiểu sự thật đầy đù hơn.
Mấy dòng lịch sử
Thiển nghĩ nhân dịp này cũng nên duyệt lại một số dữ kiện lịch sử liên quan tới vấn đề tự do tôn giáo trong Giáo Hội.
Trước khi cha Murray được đề cử làm chuyên viên Công Đồng, tự do tôn giáo, tuy không phải là một vấn đề lớn, nhưng đã được Công Đồng quyết định đem ra bàn trong một chương thuộc sơ đồ “Unitatis Redintegratio” tức “Sắc Lệnh Về Đại Kết”. Mùa hè 1962, trước khi Công Đồng nhóm họp, Đức Gioan XXIII đã chấp nhận các tuyên bố sơ khởi về tự do tôn giáo từ hai nguồn: Ủy Ban Thần Học do Đức HY Ottaviani đứng đầu, lúc ấy là Phó Bộ Trưởng Văn Phòng Thánh, và Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo do Đức HY Augustin Bea, người Đức, đứng đầu. Đức Gioan XXIII đề cử một ủy ban đặc nhiệm để hoà hợp hai bản văn này, nhưng tới tháng Tám 1962, các cuộc thảo luận lâm vào bế tắc.
Đức TGM Shehan của Maryland, Mỹ, có viết thư và gửi cho cha Murray bản sao hai văn kiện trên và yêu cầu cha bình luận. Cha Murray sợ rằng Công Đồng sẽ dừng lại ở phương thức hoàn toàn thực tiễn khiến cho đa số người Công Giáo sẽ phải sống trong trạng huống giả thuyết. Thành thử, trong thư trả lời, cha Murray cho hay: không hài lòng với hai văn kiện vì chúng không sẵn sàng đương đầu với vấn đề trong mọi khía cạnh cụ thể của nó, trong đó, bắt buộc phải bàn tới các khía cạnh lý thuyết của nó nữa, những khía cạnh hết sức quan trọng.
Ngày 4 tháng Tư năm 1963, Đức HY Francis Spellman của New York mời cha Murray tới Công Đồng Vatican II làm chuyên viên, khi thấy rõ Công Đồng sẽ dành một số lượng thời gian đáng kể để bàn tới chủ đề tự do tôn giáo. Tuy nhiên, khi tới họp, cha Murray mới biết cuộc thảo luận về tự do tôn giáo đã bị gạch bỏ khỏi nghị trình, nên ngài gửi một tờ trình 4 trang cho mọi giám mục Hoa Kỳ, thúc giục các ngài xin đem nó trở lại bàn thảo luận. Đức HY Spellman bèn thảo một lá thư xin cho tự do tôn giáo được đem ra thảo luận, một bản của tờ trình được đệ lên Đức Giáo Hoàng. Bởi thế, Đức Gioan XXIII đã yêu cầu Đức HY Ottaviani tổ chức các buổi họp để thảo luận “Sắc Lệnh về Đại Kết” trong đó có chương nói về tự do tôn giáo.
Sau khóa hai của Công Đồng, cha Murray có viết một bài trên tờ America, tờ tuần báo có ảnh hưởng của các cha Dòng Tên, về tự do tôn giáo, đang là chủ đề có tầm quan trọng bậc nhất đối với các giám mục Hoa Kỳ. Cha cũng tường trình nhiều phương cách lén lút mà cha tin sẽ khiến cho cuộc thảo luận bị bế tắc. Cuối mùa hè đó, cha nhận được một thông báo của tòa khâm sứ tại Hoa Kỳ nhắc cha nhớ bổn phận của chuyên viên trong đó có khoản không được vận động ý kiến công chúng liên quan tới các vấn đề đang được thảo luận tại Công Đồng.
Giữa khoá hai và khóa ba, Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo chỉ định cha Murray viết một tờ trình nhằm giải thích hai quan điểm đang thịnh hành và chống đối nhau lúc ấy về tự do tôn giáo. Cha Murray tránh không gọi hai quan điểm ấy là bảo thủ và cấp tiến, nhưng gọi quan điểm duy truyền thống là “quan điểm thứ nhất” và quan điềm của riêng ngài là “quan điểm thứ hai”. Bản giải thích này được nồng hậu tiếp nhận và bắt đầu từ khóa ba, cha được ủy nhiệm làm “ký lục thứ nhất” (first Scribe) để soạn thảo điều nay đã trở thành quá quan trọng đến không còn là một chương trong Sắc Lệnh về Đại Kết nữa, mà hy vọng sẽ đứng riêng thành “Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo”.
Ủy Ban Chuẩn Bị Thần Học được Đức Giáo Hoàng chỉ định xem sét các khía cạnh thần học trong nghị trình của Công Đồng vốn là một ủy ban về phe với Giáo Triều và coi mình là người “gìn giữ chính thống”. Đức Hồng Y Ottaviani lúc đó là Phó Bộ Trưởng Văn Phòng Thánh (tiền thân của Bộ Tin Lý sau này) dĩ nhiên cũng về phe Giáo Triều. Nhưng rất may, Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo được chỉ định giám sát diễn trình khai triển “Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo”.
Đến cuối khoá ba, cùng với nhiều chuyên viên khác, cha Murray viết xong một sơ đồ, hay dự thảo đề nghị, cho “Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo”. Đáng lẽ Công Đồng đã bỏ phiếu cho sơ đồ này rồi, nhưng cuộc bỏ phiếu bị đình lại cho tới đầu khóa bốn vì có sự chống đối của phe duy truyền thống lẫn và các bất đồng ngay trong những người ủng hộ “quan điểm thứ hai”. Công việc đối với sơ đồ không kết thúc ở đấy: Văn Phòng tiếp tục thu lượm các nhận định và đến tháng Sáu, 1965, tức giữa khóa ba và khóa bốn, đã gửi đi một dự thảo sửa đổi. Trong các tháng trước khóa bốn, cha Murray vẫn tiếp xúc với các giám mục có ảnh hưởng để xin các ngài ủng hộ dự thảo.
Ngày 14 tháng Chín, 1965, 7 ngày sau khoá bốn và phiên họp cuối cùng của Vatican II, các nghị phụ đã bỏ phiếu cho sơ đồ và chấp thuận bước tiến đầy cảm kích của nó dưới sự hướng dẫn của Văn Phòng Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo. Quả thế, việc thảo luận tuyên ngôn này là điều đầu tiên được ghi vào nghị trình của khóa bốn. Bất hạnh thay, cha Murray bị đau phổi, đã không thể đóng góp được gì vào dự thảo cuối cùng, một dự thảo được chấp thuận vào ngày cuối cùng của Vatican II, tức ngày 7 tháng Mười Hai, 1965, với 2,308 phiếu thuận, 70 phiếu chống và 8 phiếu bất hợp lệ.
“Dignitatis Humanae” hay Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo là một văn kiện khai phá, xét về nhiều mặt. Nó cổ vũ để nguyên tắc tự do tôn giáo được coi như một dân quyền và buộc các chính phủ phải bảo vệ nó. Nó nhìn nhận rằng chủ trương trước đây của Giáo Hội về vấn đề này không hẳn công chính. Công Đồng còn tuyên bố rằng quyền tự do tôn giáo có nền tảng trong phẩm giá con người nhân bản, một phẩm giá được biết đến nhờ Lời mạc khải của Thiên Chúa và cả nhờ vào lý trí nữa.