Chuyện Phiếm Đạo Đời - Suy Tư Lời Chúa Xuyên Qua Cuộc Sống

“Gọi thầm tên em,”

Khi nắng chiều nhạt ngoài sân

(Đức Huy – Để Quên Con Tim)

(Mt 28: 19-20a/Ga 6: 18))

Đã gọi thầm, thì có là tên em hay tên của ai đi chăng nữa, “khi nắng chiều nhạt ngoài sân”, sao còn bảo: “anh đã để quên con tim”. Thật rõ chán! Ấy chết, nói “chán” đây là chán cái cung cách những gọi và nói của người nghệ sĩ đã một thời chuyên viết nhạc trẻ. Và làm thơ. Chứ chẳng phải chán đời hay chán người hay chán cả người tu đâu, hỡi bà con. Nghệ sĩ đời, có gọi tên em hay tên ai đi nữa, cũng chỉ muốn nói rằng mình vừa “để quên (mất) con tim”, thôi. Với nhà Đạo, thì tên em/tên anh có bị réo gọi to cách mấy đi nữa, cũng hãy xem người gọi mình là ai? Gọi ai? Gọi mà làm gì?

Về chữ “gọi”, kể ra cũng khá ư lẩm cẩm.. Ấy quên. Lỉnh kỉnh, mới đúng chứ không lẩm cẩm đâu. Bởi, nếu người gọi lại là Đấng Thánh-Hiền-ở-Bên-Trên, thì lời gọi ấy cũng chẳng là “lời gọi chân mây”, của ai đó chốn thơ và nhạc, mà đích thị là lời gọi, rất “ơn gọi”, của mọi thời. Trên đời.

Nói dông nói dài, chỉ để nói lại rằng: lâu nay bà con thuộc diện giáo dân hạng thứ như bần đạo, cứ là hay hiểu nhầm (í quên) hiểu lầm ba chữ “ơn kêu gọi”, lắm lắm. “Ơn Kêu Gọi” là ơn gì vậy? Gọi thầm tên Em, sao lại cứ bảo đó là “ơn”? Mà không là “huệ”? Thôi thì, “ơn” hay “huệ” cũng là huệ ân/ân huệ của Bề Trên, rất nên nghe. Nên hiện thực.

Nói tắt một lời, là cốt nói rằng: muốn gọi đó là “ơn” hay “huệ”, những lời gọi từ trên cao hay nhà Đạo, vẫn là lời “thì thầm” như ca từ của bài hát, rất ở trên, rằng:



“Gọi thầm tên em,

khi nắng chiều nhạt ngoài sân,

Trở về Cali,

anh nghe nhớ nhung giăng sầu

Từ ngày xa em,

anh bỗng trở thành lặng câm,

Ngày rời Paris,

anh hứa sẽ quay trở lại.”

(Đức Huy – bđd)



Rời Paris, thì bần đạo đây cũng đã rời tới hai lần. Nhưng, đâu có hẹn và cũng chẳng hứa điều gì, đâu. Chí ít, là những hứa và hẹn với người “Em” không nhỏ, ở quê người. Thật ra, thì một khi đã đặt chân đến Paris rồi, mà lại hứa hẹn điều gì, thì đánh chết người ấy cũng sẽ quay trở lại, thôi. Bởi, Paris đẹp thật! Đẹp, đến độ không quay về cũng chẳng xong. Thế nhưng, những hứa và hẹn với nhà Đạo, cũng đẹp chẳng thua gì Paris, mà sao nhiều người vẫn đâu quay về chốn cũ, rất đời tu! Đó là vấn đề. Rất nên phiếm ở đây. Hôm nay.

Nếy vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta mạnh dạn đi thẳng vào vấn đề, để phiếm. Chữ “gọi/mời”.

Ấy chết. (Lại chết chóc gì nữa đây?) Ấy, chỉ cái tội là: trước khi đi vào vấn đề, theo thói quen, bần đạo vẫn mời bạn mời tôi, ta ngâm nga hát đôi vần thi ca, tức: vừa thi vừa ca, giòng nhạc nhẹ:



“Anh đi về anh nhớ

bóng dáng ở lại.

Paris em yêu ơi.

Anh nhớ Em thật nhiều.

Anh nhớ Em thật nhiều,

người yêu ơi.”

(Đức Huy – bđd)



Bần đạo đây, chẳng có tài ăn nói hoặc hát ca gì ráo trọi. Dù khi xưa cũng có hát ở nhà thờ nhà thánh, nhưng rất dở. Cứ cái tật là chỉ hát nhại hoặc hát nhái, rồi đề nghị đổi lời, cho khang khác,thế thôi. Và hôm nay, nếu bần đạo đề nghị đổi chữ Paris và/hoặc “Em” thành Hội thánh, thì người người sẽ thấy nhà Đạo mình, nghe thầm gọi cũng rất nhiều, nhưng nào có nhớ người “Em”/Hội thánh, những là Paris, Luân Đôn, Niu Yọc, là “người yêu” đâu đấy nhỉ? Bởi nếu không, chắc sẽ khác!

Thật ra, có khác chăng, cũng đề nghị bạn và tôi, ta hát nốt câu thơ người nghệ sĩ viết như sau:



“Buổi chiều sông Seine,

có gió lạnh về lập đông.

Buổi chiều Cali,

cô đơn từng cơn rã rời.

Từ ngày xa Em,

thao thức trằn trọc từng đêm.

Ngày rời Paris,

Anh đã để quên con tim.”

(Đức Huy – bđd)



Với người đời, “Ngày rời Paris” còn có nghĩa, là: “từ ngày xa Em, (anh) thao thức trằn trọc từng đêm”. Với nhà Đạo, lời mời gọi như thế, cũng ý nói: cả anh và “Em” sẽ mãi mãi “để quên con tim”, đầy nhung nhớ. Tiếc nuối. Ân hận. Bằng chứng ư? Đây, mời bạn mời tôi, ta thử nghe lập luận, Ngài vẫn bảo:



“Vậy anh em hãy đi

và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ…

(Mt 28: 19)



Thời đại này, những ơn và huệ ở ca từ “thầm gọi tên Em”, không chỉ là lời xưa cũ, của thánh sử, những là: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít” (Mt 9: 37). Thì hôm nay, “gọi thầm” ấy, lại là lời: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(Mt 28: 19) Làm môn đệ, đây đâu chỉ là linh mục/tu sĩ, thôi. Nhưng còn “để con tim” ở lại với Paris. Luân Đôn. Với, Hội thánh khắp năm châu, bốn bể, tức toàn thể nhà Đạo. Của Chúa tể tình thương yêu. Vỗ về. Chiều chuộng.

Nhà Đạo hôm nay, có những lời “thầm gọi tên Em” vào giở Lễ, nay cũng đổi. Thay và đổi, để thích hợp với văn bản tiếng Latinh xưa cổ, của sách lễ. Bởi thế nên, “thầm gọi tên Em” lại được đấng bậc và giáo dân hỏi/đáp rất kỹ như sau:



“Hôm nay con muốn đề cập đến một trong các khía cạnh của bản dịch mới trong thánh lễ, mà con thấy “hơi lạ” ở câu đáp lại lời vị linh mục chủ tế chúc: Chúa ở cùng anh chị em”, nay được giáo dân đáp lại là: “Và ở cùng Thần khí cha/thày”. Sao ta lại sử dụng cụm từ nghe không mấy quen tại bằng câu “và ở cùng cha/thày”, như trước đây.”



Quả tình, đấng bậc vị vọng thuộc giống giòng Opus Dei rất “Công trình của Đức Chúa”, nay lại méo mó nghề nghiệp quan chức chủ trì rất chễm chệ ở trên cao, bằng những phán đoán “rất bênh nhau”, như sau:



“Thành ngữ này, thật ra có cả quá trình lịch sử rất dài dòng, được nhắc đi nhắc lại những 5 lần khác nhau trong thánh lễ. Ở đầu lễ, trước khi đọc Phúc Âm, trước kinh Tiền Tụng, lúc dâng chúc Bình an cho nhau và trước khi ra về.



Các cụ cha bác thuộc lớp tuổi cao niên hẳn còn nhớ thời xưa khi thánh lễ đọc bằng tiếng La tinh, vị chủ tế có lời chúc bổn đạo rằng: “Dominus vobiscum” (tức là: Chúa ở cùng anh chị em), thì mọi người đều trả lời là “et cum spiritu tuo” (tức: và ở cùng thần khí Cha). Rồi sau Công Đồng Vatican II, khi thánh lễ tiếng La tinh được dịch ra ngôn ngữ của mỗi dân tộc bản xứ, thì hầu hết đều theo đúng nghĩa bên tiếng La tinh, ngoại trừ một vài văn bản tiếng như tiếng Anh và/hoặc tiếng Việt, còn thì mọi thứ tiếng đều cùng ý hướng đó. Nay thì các ngôn ngữ trên thế giới rồi cũng sẽ theo sát nghĩa từ bản gốc tiếng La tinh, thôi.



Thế nhưng, hỏi rằng sao lại có thành ngữ không mấy thông dụng như thế? Thì câu trả lời hay nhất ta nên về với các bản văn thời Cựu Ước như ở sách Ruth, Boa nói với thợ gặt bằng lời chúc: Đức Chúa ở cùng bà con anh em”. Nghe vậy, họ liền thưa: “Đức Chúa chúc lành cho chị.” Đây là lời chúc mang tính cách thiêng liêng, lời chúc mừng là Chúa sẽ ở với người khác.



Tại thủ phủ Bavaria, nước Đức, dân chúng có thói quen chào hỏi chúc mừng nhau ngay ngoài đường bằng cụm từ “Grũss Gott”, nếu dịch từng chữ sẽ là “Chúc tụng Chúa”, hoặc “Chúa mừng chúc anh/chị”. Lời cầu chúc ấy mang tính cách linh đạo hơn chỉ mỗi tiếng “Hello” hoặc “G’day” bên tiếng Anh.



Còn thành ngữ “Và ở cùng thần khí ngài” còn gặp thấy ở một số thư do thánh Phaolô viết, chẳng hạn như: “Chúa ở cùng thần khí anh em” (2Tm 4: 22) và ở thư khác thánh nhân viết cho giáo đoàn Galata, thánh nhân cũng lại kết thúc bằng lời chúc: “Hỡi anh chị em, ân sủng của Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô, ở cùng thần khí anh chị em.” (Ga 6: 18)



Rõ ràng là, các giáo dân thời tiên khởi cũng đã sử dụng thành ngữ này. Chẳng hạn như, ở bài đọc 2 lễ Vọng Phục Sinh, Phụng Vụ Giờ thánh cũng được trích từ bài giảng mô tả Đức Kitô đến với các tổ phụ, trong đó có nói đến cả Ađam, khi Ngài nói: “Đức Chúa ngự đến với tất cả mọi người.” Và Đức Giêsu cũng đáp lại: “Và ở cùng thần khí Ngài.”



Cụm từ “Và ở cùng thần khí Ngài” được qui về linh đạo, để từ đó công nhận rằng con người không chỉ là bản thể vật chất nhưng còn có thần linh, tức linh hồn bất diệt. Đó là điều chứng thực phẩm cách của nhân vị được dựng nên theo theo hình ảnh giống Thiên Chúa. Và, đó còn là lời chúc mừng có Chúa ở trong hồn của người kia.



Khi ta sử dụng lời chúc như thế trong thánh lễ, là ta nhận rằng ta đang hiệp thông làm một với Hội thánh vào thời tiên khởi. Ta rời nơi chốn và thời gian mình đang sống để đi vào chốn không có thời gian là Phụng vụ thánh, ở đó ta hoà mình cùng thần thánh với thiên thần trên thiên cung mà phụng thờ Chúa.



Mặc dù cụm từ “Và ở cùng thần khí ngài” có thể hướng về bất cứ ai, như đã thấy trong các thư do thánh Phaolô viết và trong lời đáp của Đức Kitô với Ađam, vào thời tiên khởi, các thánh tổ phụ trong Giáo hội cũng áp dũng chuyện đó với ơn lành của Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện nơi thừa tác viên bằng cách giơ tay đặt lên trên người ấy.



Chính vì thế, thánh Chrisostom ở thế kỷ thứ tư có nói trong một bài giảng của ngài rằng: “Giả như Chúa Thánh Thần không ở với các Giám mục khi các ngài rời cung thánh xuống, thì anh chị em cũng chẳng thể nào cùng nhau đáp lại bằng lời chúc tụng: Và ở cùng thần khí ngài” . Đây chính là lý do khiến anh chị em đáp lại bằng thành ngữ này không phải chỉ khi ngài rời cung thánh xuống mà thôi, cũng không phải chỉ khi ngài giảng cho anh chị em nghe, cũng chẳng vào lúc ngài cầu nguyện cho anh chị em, nhưng là khi ngài đứng trên bàn thờ mà dâng của lễ thánh hiến này. Anh chị em không san sẻ việc dâng tiến lễ cho đến khi ngài đọc lời nguyện để cho anh chị em nhận được ơn thánh từ Đức Chúa, và khi ấy anh chị em sẽ đáp lại bằng câu: Và ở cùng thần khí ngài”, là để nhắc anh chị em nhớ rằng qua lời đáp như thế ngài không có mặt ở đó chẳng làm điều gì theo uy lực của chính ngài; cũng chẳng để dâng lễ vật là hoa quả công việc làm của người phàm, mà là ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần đang hiện diện nơi đó và đang lơ lững trên mọi sự vật được chuẩn bị cho công việc thánh tiến đầy mầu nhiệm ấy.” (Bài Giảng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).



Chính vì lý do này mà từ thế kỷ đầu thời tiên khởi, chỉ các thừa tác viên có chức thánh -như giám mục, linh mục và phó tế- mới được có lời chúc gửi đến giáo dân bằng lời cầu chúc nói rất rõ: “Chúa ở cùng anh chị em”.



Để đáp lại lời cầu và chúc của thừa tác viên, chúc mừng thần dân là Đức Chúa sẽ ở với họ, thì khi ấy tất cả sẽ đáp lại bằng lời chúc tụng cũng như thế. Đáp lại, là cách thức ngay lúc ấy mình tuyên xưng niềm tin theo cung cách ân huệ đặc biệt do Chúa Thánh Thần ban cho mình nhận được vào nghi lễ truyền chức cho thừa tác viên thành người của Chúa.



Thành thử, điều mà tôi nói ở đây là chuỗi dài lịch sử gồm tóm đầy đủ ý nghĩa chỉ trong lời chúc mừng giản đơn như câu: “Và ở cùng thần khí ngài.” (x. John Flader, Question time, The Catholic Weekly 10/7/2011, tr. 10)



Bên tiếng Việt, ta không có và không cần có thay đổi nào để hợp với lệnh của Thánh bộ Phụng Vụ Toà thánh La Mã, như bên tiếng Anh. Nhưng nếu có, chắc bà con mình cũng lúng túng không ít khi phải thưa “Và ở cùng Cha/Thầy” hoặc “Và ở cùng thần khí Thầy/Cha, Đức Cha”, vv… Thế mới biết, ngôn ngữ con người càng dồi dào càng rắc rối. Lắm chuyện. Khiến cả người nói lẫn người thưa đều thấy ngại. Ngại hơn nữa, nếu một mai Hội thánh cho phép nữ giới được làm phó tế, linh mục như bên Anh Giáo, thì lúc ấy không biết thưa thớt với cô Sáu, chị Sáu hay bà Sáu/Linh mục như thế nào đây.

Thưa gì thì thưa, tưởng cũng nên thưa và hát như ca từ ở bài hát trích bên trfên mà rằng:



“Anh đi về thương nhớ bóng dáng người ở lại,

Paris em yêu ơi.

Anh nhớ em thật nhiều,

Anh nhớ em thật nhiều,

Người yêu ơi!”

(Đức huy – bđd)



Đấy, với một thị thành vật chất rất sự vật thôi mà nghệ sĩ đã dám gọi những nào “Anh anh/em em” cứ là ngọt sớt. Nói gì đến các ngài cụ sáu hay thầy cả, cả đến đấng bậc chủ quản một giáo phận mà hát câu này, chắc cũng lúng túng không ít?

Theo thói thường, mỗi khi phiếm chuyện gì hơi nghiêm túc, cứng đọng, là bần đạo hay đề nghị bạn bè nghe đôi ba truyện kể nhè nhẹ để mà nhớ. Nhớ rằng, cũng có lần người người từng kể cho nhau nghe những chuyện rất ư là tình cảm, dù tầm phào. Không ướt át. Chỉ để vui. Và quên sự đời, nhiều rắc rối. Vậy thì, mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một câu truyện chỉ để kể, như sau:



“Truyện rằng:

Chiều hôm ấy, người nữ phụ cao niên ngổi nhâm nhi ly rượu trắng trong mùi nho chín, cạnh ông chồng cũng cao niên không kém nhưng hiền từ lại ít nói. Hai cụ ngồi hồi lâu bên khung trời mở ngỏ, có làn gió hiu hiu tươi mát ru hồn người vào cõi tiên, chẳng nói nên lời. Bỗng, cụ bà nổi hứng hôn vào ly rượu nhiều nụ hôn nồng, rồi thì thào nói:

-Tôi yêu Bạn mình biết chừng nào. Cứ ở mãi bên nhau nhé bạn mình. Bỏ bạn mình, tôi nào sống nổi…

-Này, thế nghĩa là miệng bà nói ra điều đó, hay rượu nói thế?

-Chính đó là tôi, đang nói với hồn thiêng sông núi, là rượu mùi, thân thương của tôi mà!



Rượu, mà cũng thân thương, đòi ở cùng và ở với mãi làm sao hiểu nổi! Huống hồ là tình tự của người được Chúa thương yêu, nay thấy mến chuộng nên luôn miệng chúc mừng có Chúa ở cùng.

Ở cùng hay ở với, vẫn là tâm tình mà người người sống ở Nước Trời cần biểu tỏ, hơn bao giờ. Tâm tình ấy. Biểu tỏ này, muốn diễn tả hoặc dịch cho thoát hay dịch cho sát, vẫn là vấn đề của tôi, của bạn. Của Hội thánh, ở khắp nơi. Muôn đời.



Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chỉ muốn diễn tả

Bằng tâm tình từ tâm can

chứ không bằng lời dịch thuật.

Suy niệm Chúa Nhật thứ 28 thường niên năm A 9.10.2011

“Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?”

“với những mâm cau phủ lụa điều?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)



Mt 22: 1-14

Xe cưới ngời hoa trắng, nào thấy ai bước vào. Mâm cau phủ lụa điều, người dự nào thấy vui. Không vào dự, là nỗi niềm của dân con ngưòi Do thái đuợc kể ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử kể một loạt 4 dụ ngôn: có truyện của hai người con hành xử rất khác biệt. Có, tá điền quái ác giết cả Chủ Vườn. Nay, đến tiệc cưới được mời cũng không người đến dự. Dụ ngôn nào, cũng biểu tỏ một bài học bóng bảy về luân lý. Và, dụ ngôn cũng biểu lộ phong thái phóng khoáng của Chủ Tiệc. Bởi thế nên, ta đừng hiểu ý/lời ở truyện kể theo nghĩa rất đen. Nhất là khi Vua quan sai quân hầu quở trách đám thực khách, xong rồi còn tống họ vào chốn tối tăm khóc lóc vì “áo xống” không đúng qui cách.

Hãy nên xét kỹ dụng ý mà người kể muốn con dân hiểu rõ khi đọc truyện. Truyện dụ ngôn, còn trưng “lời mời” Chủ tiệc cho gửi đi rất sớm để người được mời kịp mà nhận lời đến dự theo đúng ‘nguyên tắc’ mà người Do thái vẫn có. Nguyên tắc đây, là thói quen lịch thiệp mà Chủ tiệc muốn khích lệ mọi người hãy nhanh chóng nhận lời mời. Nhận lời, mà xử thế hệt như thể người bệnh đến gặp bác sĩ chuyên khoa như đã hẹn.

Nhận lời mời ở đây, là hành động cần thực hiện nhất thứ là khi Chủ tiệc lại là Vua quan quyền thế chốn gian trần muốn dân con mình vui hưởng an lạc. Nhận lời mời, không chỉ cổ võ người được mời tìm chốn an vui mừng lễ. Nhưng, còn để diễn bày lệnh truyền từ Chủ tiệc. Bởi thế nên, dân con nào từ chối lời mời của vua quan Chủ yến tiệc chắc chắn là hành động có ý bạo phản. Như thế, hậu quả sẽ nghiêm trọng.

Cũng may là ở dụ ngôn, người được mời chỉ là phó thường dân hiền hoà vẫn cư xử theo qui cách của xã hội thời bấy giờ. Họ, là đám dân dã luôn thực hiện công tác xã hội theo qui cách chân phương, hiền lành. Tuy nhiên, ở trình thuật, người khuớc từ lời mời đến dự tiệc không giải thích lý do tại sao mình từ chối. Lại cũng chẳng đưa ra lời cáo lỗi nào, như khuôn phép mà người lịch sự vẫn hay làm.

Làm như thế, là bởi vì: họ vốn là những người suốt ngày “bận rộn” với đủ thứ công việc, không thể dự đến dự tiệc như lòng mong muốn. Có thể là, họ bận vui chơi. Bận trông nom con cái. Bận dọn dẹp nhà cửa. Nấu nướng; hoặc trả biên lai tiền điện/nước, cắt cỏ, bởi thế nên không coi chuyện dự tiệc là việc ưu tiên “cần làm ngay”. Thời buổi này, người người thường lấy lý do sinh kế, hoặc chăm sóc gia đình để thoái thác mọi lời mời. Cũng may, trình thuật không coi việc nhận lời ở đây chuyện “cần làm” ngay tức thì.

Tuy nhiên, Vua quan lại coi việc khước từ lời mời dự tiệc là hành xử khiếm lễ, nên đã sai quân hầu đi khắp chốn mời cho hết mọi người tốt/xấu, để thay thế. Giới thẩm quyền người Do thái xưa không cho phép những ai có vấn đề tâm thần hoặc tật bệnh đến hội đường. Cả những kẻ lôi thôi quần áo không chỉnh, cũng như đám người hôi hám, bẩn dơ được phép xuất hiện chốn liên hoan, tế tự. Bởi vào thời đó, làm gì ra có chương trình thanh lọc, rà soát, dõi theo như bây giờ!

Đọc đến đây, hẳn có người sẽ đưa ra thắc mắc về ý của người viết trình thuật là gì?

Quả là, trình thuật muốn đem đến cho người đọc một số các điểm chính mà tác giả muốn nói đến. Đó, là lược sử quá trình ơn cứu độ gửi đến với dân con mọi người. Vua quan là chính Chúa. Người được mời là dân Do thái. Sứ giả là các ngôn sứ. Người Con là Đức Giêsu. “Thành bị phá huỷ” là Đền thờ Giêrusalem bị sụp đổ -hồi năm 70 khi thánh Mát-thêu viết trình thuật này. Mọi chi tiết trong trình thuật là vấn đề tranh cãi khá nghiêm trọng trong cộng đoàn Mát-thêu vào thời đó. Lúc mọi người đều thấy bối rối không biết rằng kế hoạch cứu độ của Chúa thực sự diễn tiến như thế nào.

Đoạn cuối trình thuật tiếp tục câu truyện dụ ngôn về “áo xống” mặc ở tiệc cưới. Có vị đến dự lại chẳng ăn vận cho phải phép. Dụ ngôn không nói những người đến dự có được ban phát “áo xống” này hay không. Chủ Tiệc có cung cấp cho họ không. Chắc chắn là không! Thiên Chúa là Chủ tiệc có khi nào lại ấn định luật lệ về “áo xống” như thế?

Về với thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôsê trong đó có đoạn ghi: “Theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn và yêu mến, anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn, chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng...” (Cô 3: 12). Mỗi lần nói đến tín hữu đã được thanh tẩy, thánh Phaolô vẫn cứ bảo: Hãy mặc lấy Đức Kitô, như thứ áo xống cần thiết. Xem như thế, đây chính là thứ “áo xống” cần mặc ở tiệc cưới.

“Áo xống”, là thái độ sống trong đời. Là, cung cách người tín hữu Đức Kitô cần có để sống đích thực là con cái Chúa. Cũng có thể, đây là ý chính mà lược sử ơn cứu độ muốn nói đến. Ơn cứu độ, là ơn sản sinh ra con người sống như thế. Dù, họ đến từ đâu. Dù, họ có thuộc về Hội thánh nào, hoặc nhóm hội/đoàn thể nào, cũng thế.

Cuối trình thuật, thánh Mátthêu còn đưa ra cho người đọc một chân lý hiển nhiên được thánh nhân nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.” (22: 14) Ở bản 70 Hy Lạp, đây là câu thơ hạp vận: nhiều người được gọi (kletoi), nhưng được chọn lại ít (ekletoi). Danh từ thần học của ta có cụm từ “chiết trung”. Người có tính “chiết trung” là người không phù hợp với mẫu mực đời sống ở quanh mình. Là, người mặc lấy cho mình thái độ sống từ nhiều nơi khác.

Thánh Phaolô nói với những người hồi hướng trở về với cộng đoàn Hội thánh rằng họ là những người thực sự được chọn, nên phải sống đúng thực với quà tặng “nhưng-không” đặc biệt ấy. Thánh Mátthêu viết theo cung cách khác. Thánh nhân yêu cầu người đọc thực hiện lối sống đảm bảo họ là dân được chọn và được tặng ban đường lối sống khác biệt. Thánh nhân khích lệ người đọc tỏ ra mình khác biệt, vì được gọi theo cung cách mình là người của Chúa. Thánh nhân không tìm cách khiến họ lo sợ qua con số thống kê hoặc tỷ lệ những người được cứu. Thánh nhân hoàn toàn lạc quan về chuyện này.

Vấn đề là nay ta tự hỏi: ta làm gì được với dụ ngôn và chân lý ấy. Lệnh truyền: “Hãy đi ra các ngã đường…" (Mt 22: 9) làm người đọc nhớ đến câu nói của thánh Phaolô, khi thánh nhân rời Tiểu Á qua ngõ nhỏ để đi Châu Âu. Thị trấn đầu tiên thánh nhân đặt chân tới, là thị trấn Philiphê. Philiphê, một “ngã đường” trên chính lộ được mọi người biết. Thánh Phaolô cũng được gửi đi tới đó. Thoạt khi vừa đặt chân lên nơi đó, thánh Phaolô biết ngay là dân chúng nay chán ngấy cuộc sống dưới trướng của đế quốc La Mã. Và, họ cũng muốn về với Giavê Chúa của người Do thái, nhưng lại không muốn dấn bước trở thành người như họ. Thành thử, ta gọi họ là những người ‘rất chung chung’ luôn kiếm tìm. Những người rất “chiết trung”, được ghi nhận. Và, thánh Phaolô kêu mời họ để đưa về với tiệc Lời Chúa cũng là tiệc Thánh Thể.

Vấn đề là: ngày nay đâu là giao lộ để ta đi? Ai là người rất “chiết trung” của ta?

Thiết tưởng, họ vẫn là người luôn ưa chuộng lòng hào hiệp/chính trực hơn tôn giáo lớp lang, qui củ. Họ nhận ra rằng: sự xấu tự nó cũng bén rễ sâu như lòng hào hiệp. Và, họ cũng là người thấy được rằng chính lòng hào hiệp sẽ phá đổ được sự xấu để tiến tới. Họ, còn là người nhận thức biết rằng hư vô, lố bịch và cả đến cái chết cũng không là yếu tố nói lên được lời cuối cùng cho bất cứ một ai. Là người nhận ra hương vị của hạnh phúc, nhưng họ lại đánh mất hạnh phúc làm nơi nương náu.

Những người như họ cũng biết chiêm ngưỡng/thán phục sự tốt đẹp lành thánh mà vui hưởng. Họ vẫn mong chờ mọi sự tốt đẹp đến với mình và khao khát đạt điều tốt đẹp như thế. Là, người kiếm tìm đất sống tốt đẹp mà không có sự khuynh loát, chiếm đoạt. Nơi, mà mọi người có tự do trở thành người tốt lành, biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

Tuyệt diệu thay, khi ta và mọi người đều nhân danh Chúa mà ra giao lộ để kiếm tìm mọi người và mọi sự tốt lành. Kiếm và tìm, để rồi sẽ đưa những người chiết trung mà mình vừa gặp mặt, được về với cộng đoàn tình thương, rất tốt lành, chuyên chăm lo, giùm giúp. Nếu được thế, cộng đoàn dân Chúa sẽ là Tiệc Cưới tuyệt diệu. Tiệc Thánh Thể đích thực, đúng ý của Chủ Tiệc vẫn mong đợi mọi người dự.

Trong tâm tình đó, cũng đề nghị mọi người ngâm tiếp vần thơ còn để ngỏ. Ngâm rằng:



“Chiều nay…thương nhớ nhất chiều nay,

Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy.

Tôi uống cả em và uống cả

một trời quan tái, uống cho say.”

(Nguyễn Bính – Một Trời Quan Tái)



Trời Quan Tái, là cõi trời mở ngỏ với mọi người. Trời Quan Tái, nay là cộng đoàn Nước Trời ở nơi đó ta vẫn sống mà uống cho say tình thương yêu tuyệt diệu, tốt lành. Rất Thánh Thể.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh - Mai Tá lược dịch.