Thư Trong Nước (7): Món Nợ Máu (tiếp theo).
Nạn nhân thứ ba trong vùng bà không phải là người công giáo. Ông là một nhà giàu, một địa chủ, và là người bạn thân của chồng bà. Vợ ông là bạn thân với người vợ trước của chồng bà. Cái tài sản ngày nay của hai gia đình phần lớn do hai người đàn bà này tạo ra. Hai cặp vợ chồng này cũng từng là nông dân chân lấm tay bùn. Thấy nghề nông không khá lắm, hai bà bèn cố gắng dành dụm, xoay ra buôn bán. Vợ trước của chồng bà bắt đầu bằng một gánh hàng xén với những cây kim, cuốn chỉ, cái lược, cái kẹp tóc… những viên phấn, cây bút chì, lọ mực…. Vợ ông bạn trong khi đó bắt đầu khá hơn bằng một gánh hàng tấm với những tấm vải thô do dân địa phương kéo sợi và dệt bằng những khung cửi đơn sơ. Hai bà kẽo kẹt hai gánh hàng, lê la khắp các chợ trong vùng, họp năm ngày hai phiên tính theo ngày ta, mùng hai mùng năm, mùng bảy mùng mười, mười hai mười lăm,… Quả thực “vi thương bất phú”, hai bà đã tích lũy thêm thu nhập để mở quán tạp hóa và tiệm vải ở chợ huyện, rồi mua đất và trở thành chủ nông, rồi phú nông. Hai người đàn ông lúc này đã có phần thảnh thơi vì đất cho cấy rẽ, thu nhập tính theo tô, phần trăm cố định tính theo tổng số thu nhập của các vụ mùa. Họ là những địa chủ có lòng vì chính họ cũng từng là những nông dân cầy sâu cuốc bẫm, những năm thu nhập không đạt do thời tiết hay do sâu rầy, số tô được giảm cho các tá điền. Người vợ trước của chồng bà quá lao nhọc nên bị bệnh lao phổi và qua đời trước khi được hưởng cái công lao nhọc của mình.Thế nhưng chế độ mới của đất nước giờ đây không những kết tội chủ đất là giai cấp bóc lột mà buôn bán dưới hình thức nào cũng là giai cấp bóc lột vì không sản xuất mà chỉ làm trung gian hưởng lợi. Thế là hai gia đình đương nhiên trở thành giai cấp bóc lột đến hai lần. Và giờ đây họ đang phải trả giá cho cái tội bóc lột của họ.Người đàn bà nhớ lại sáng hôm đó đi chợ gặp người con gái của ông bà bạn. Cô đi lướt qua bà và nói đủ lớn để cho bà nghe “Bố cháu bị bắt chiều hôm qua”. Việc bắt bớ cũng được thực hiện bởi hai nhân vật quen thuôc. Ông bạn của gia đình bà không bao giờ trở về nữa. Kể từ hôm đó, gia đình bà đã chuẩn bị cho cái chén đắng này vì họ biết rằng sớm muộn cũng đến phiên họ. Hơn nữa, họ còn có thêm cái tội thứ ba, tội có đạo. Lý do địa phương chưa tới viếng chồng bà có lẽ chỉ vì gia đình bà không giàu bằng gia đình người bạn mà thôi. Giờ đây chén đắng đã tới mà bà thấy thật khó uống.
Người đàn bà nhẹ nhàng ngồi dậy. Bà nhìn đứa con trai lên tám tuổi, quá nhỏ so với tuổi của nó. Nó có tội tình gì mà cũng đang phải uống cái chén đắng này. Bà vén mùng ra ngồi ở mép giường, vài con muỗi vo ve bay tới, bà đâu có còn để ý gì. Ánh sáng từ bên ngoài lọt qua cái khung cửa ra vào. Ðã từ lâu, gia đình bà dẹp hết các cánh cửa với chủ ý để mọi người thấy rằng gia đình bà chẳng có gì hơn ngoài những thứ mà mọi người có thể trông thấy, rằng gia đình bà chẳng có gì để giấu diếm, và nhất là gia đình bà không hơn gì những dân làng khác. Sau ngày cách mạng bùng nổ, con cái riêng đã trưởng thành của chồng bà cũng tham gia các lớp bình dân học vụ và công việc tại địa phương của họ, người con trai lớn riêng của bà làm việc cho cơ quan tín dụng sản xuất, lo cho nông dân vay tiền để canh tác. Chính chồng bà cũng tham gia công việc địa phương và sau khi thấy tình hình có vẻ “thay đổi”, vợ chồng bà đã quyết định đem hết đất đai giao nộp cho địa phương, chỉ xin giữ lại vài mảnh đất đủ để canh tác lo cho gia đình. Thế mà giờ đây… Có lẽ cái căn nhà nửa gạch nửa tranh của gia đình bà chính là cái lý do đưa tới tai họa ngày hôm nay vì có lần bà nghe ai đó so sánh rằng “Cái mền của bà có rách cũng được làm bằng bông, tụi tôi suốt đời chỉ nằm ổ rơm, đắp chiếu”. Mắt bà lúc này đã quen với bóng đêm. Bà lờ mờ nhìn thấy kệ thờ gắn trên tường trước mặt bà, trên đó đặt hình Ðức Mẹ bồng Chúa Hài Ðồng, nhích hơn phía trên là thánh giá với hình Chúa Giê Su chịu nạn. Bà bước tới kệ thờ, quá nhỏ so với bàn thờ gia đình bà có trước cách mạng bùng nổ. Bà lâm râm cầu nguyện, xin được soi sáng để đáp ứng với nghịch cảnh, và xin sức mạnh để chịu đựng nghịch cảnh. Nước mắt tuôn rơi, bà biết rằng kệ thờ này tuy đã nhỏ nhưng cũng là một trong các nguyên nhân đưa tới tai họa cho gia đình bà. Những người chủ mới của đất nước dư hiểu rằng ngoài một số nhỏ chối đạo, đức tin nủa người công giáo lớn hơn những cái bàn thờ hay kệ thờ bội phần, không thể nào tẩy sạch được. Bà không biết đã đứng trước kệ thờ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Mấy con muỗi đêm nay được bữa no nê vì bà dường như không còn cảm giác gì. Bà gục đầu vào tường một lúc rồi làm dấu thánh giá, xoay người bước ra ngoài sân.
Bà chợt nhớ ra, cái sân lát gạch để dễ phơi lúa này cũng khác với những cái sân nện đất của hầu hết dân làng. Bà ngước nhìn trời như cố gắng tìm một phép lạ giữa muôn vàn vì sao đang lấp lánh trên nền trời xa tắp. Bà biết chỉ có phép lạ mới cứu được chồng bà mà thôi. Qua cái sân, bà bước ra cầu ao. Cái ao khá vuông vức này mỗi chiều chừng hơn hai trăm mét, được mười gia đình sử dụng, rửa ráy cũng nó, tắm giặt cũng nó, nhưng nó được thả cá và vài năm lại tát nước bắt cá một lần nên không đến nỗi dơ dáy lắm. Bà khỏa đám bèo tây giạt vào cầu ao rồi khoát nước rửa mặt. Nước ao lạnh giúp bà tỉnh táo hơn. Bà đứng dậy, xoay người, đứng nhìn căn nhà của gia đình bà như chưa bao giờ bà được trông thấy nó cả. Căn nhà hình chữ L, phần bên trái hoàn toàn bằng gạch, lợp ngói, dựa lưng vào con đê khá lớn để chặn lũ trong những ngày nước sông phía bên kia quá lớn. Chỉ trừ mấy gia đình sử dụng cái ao này, hầu hết dân làng sống sâu phía bên trong con đê. Phần chữ L trước mặt bà được xây dựng sơ sài hơn, tuy cũng tường gạch nhưng lợp tranh, một phần của nó, phía tay phải của bà, được dùng để xay lúa, giã gạo, và nấu nướng, bên hông là lối đi ra cổng về phía sau. Cái cổng này giờ đây cũng rắc rối cho gia đình bà, nó được xây bằng gạch, có mái che, và có then cài. Thực ra, nó chỉ là cái biểu tượng của sự khá giả, chứ nó chẳng thể giữ được kẻ trộm, vì cái hàng rào quanh nhà một phần là những cây tre, một phần là hàng cây dâm bụt. Bà bước tới cây rơm hình tháp tròn gần đó, rút một ôm rơm, đem vào bếp. Bà lấy một cái rổ và một cái giá, tới hai cái vại trong góc bếp, lường khoảng nửa lon gạo và mấy nắm khoai lang khô, rồi ra ao vo gạo. “Vậy là đủ cho hai mẹ con trong ngày rồi,” bà nghĩ bụng. Trở vào bếp, bà lường nước giếng vào cái nồi đất rồi đặt nó lên cái bếp bằng ba viên gạch dựng đứng theo hình tam giác. Bà móc bao diêm trong túi áo, bỏ một nắm rơm vào bếp, và nhóm lửa. Bà cầm một cành cây nhỏ, gạt tàn rơm qua một bên. Tiếng nổ lách tách của những hạt lúa còn sót lại trong rơm gợi cho bà một điều gì tiếc nuối. Bà linh cảm rằng có thể đây là lần sau cùng bà được ngồi nấu cơm trong căn nhà của chính gia đình bà. Nước sôi, bà đổ gạo vào nồi. Một lát sau cơm cạn, bà bỏ khoai lang khô vào nồi rồi nhấc nó xuống cạnh bếp, vùi vào đống tro nóng, đốt thêm rơm trên nắp nồi, rồi ngồi đợi. Bà đang miên man suy nghĩ thì nghe có tiếng đập cổng và tiếng người ơi ới. Bà chạy vội ra kéo then cổng. Trời chưa sáng rõ nhưng bà cũng nhận ra anh du kích đã điệu chồng bà đi vào buổi chiều.
- Bảy giờ rưỡi bà và thằng bé ra đình trình diện. Nghe rõ chưa?
- Dạ rõ. Nhưng bây giờ là mấy giờ rồi, thưa anh?
- Bây giờ khoảng bốn giờ rưỡi.
Trở vào nhà, bà lẩm bẩm “Chắc họ sợ mình trốn nên mới tới sớm như vậy”.
(còn tiếp)
Nạn nhân thứ ba trong vùng bà không phải là người công giáo. Ông là một nhà giàu, một địa chủ, và là người bạn thân của chồng bà. Vợ ông là bạn thân với người vợ trước của chồng bà. Cái tài sản ngày nay của hai gia đình phần lớn do hai người đàn bà này tạo ra. Hai cặp vợ chồng này cũng từng là nông dân chân lấm tay bùn. Thấy nghề nông không khá lắm, hai bà bèn cố gắng dành dụm, xoay ra buôn bán. Vợ trước của chồng bà bắt đầu bằng một gánh hàng xén với những cây kim, cuốn chỉ, cái lược, cái kẹp tóc… những viên phấn, cây bút chì, lọ mực…. Vợ ông bạn trong khi đó bắt đầu khá hơn bằng một gánh hàng tấm với những tấm vải thô do dân địa phương kéo sợi và dệt bằng những khung cửi đơn sơ. Hai bà kẽo kẹt hai gánh hàng, lê la khắp các chợ trong vùng, họp năm ngày hai phiên tính theo ngày ta, mùng hai mùng năm, mùng bảy mùng mười, mười hai mười lăm,… Quả thực “vi thương bất phú”, hai bà đã tích lũy thêm thu nhập để mở quán tạp hóa và tiệm vải ở chợ huyện, rồi mua đất và trở thành chủ nông, rồi phú nông. Hai người đàn ông lúc này đã có phần thảnh thơi vì đất cho cấy rẽ, thu nhập tính theo tô, phần trăm cố định tính theo tổng số thu nhập của các vụ mùa. Họ là những địa chủ có lòng vì chính họ cũng từng là những nông dân cầy sâu cuốc bẫm, những năm thu nhập không đạt do thời tiết hay do sâu rầy, số tô được giảm cho các tá điền. Người vợ trước của chồng bà quá lao nhọc nên bị bệnh lao phổi và qua đời trước khi được hưởng cái công lao nhọc của mình.Thế nhưng chế độ mới của đất nước giờ đây không những kết tội chủ đất là giai cấp bóc lột mà buôn bán dưới hình thức nào cũng là giai cấp bóc lột vì không sản xuất mà chỉ làm trung gian hưởng lợi. Thế là hai gia đình đương nhiên trở thành giai cấp bóc lột đến hai lần. Và giờ đây họ đang phải trả giá cho cái tội bóc lột của họ.Người đàn bà nhớ lại sáng hôm đó đi chợ gặp người con gái của ông bà bạn. Cô đi lướt qua bà và nói đủ lớn để cho bà nghe “Bố cháu bị bắt chiều hôm qua”. Việc bắt bớ cũng được thực hiện bởi hai nhân vật quen thuôc. Ông bạn của gia đình bà không bao giờ trở về nữa. Kể từ hôm đó, gia đình bà đã chuẩn bị cho cái chén đắng này vì họ biết rằng sớm muộn cũng đến phiên họ. Hơn nữa, họ còn có thêm cái tội thứ ba, tội có đạo. Lý do địa phương chưa tới viếng chồng bà có lẽ chỉ vì gia đình bà không giàu bằng gia đình người bạn mà thôi. Giờ đây chén đắng đã tới mà bà thấy thật khó uống.
Người đàn bà nhẹ nhàng ngồi dậy. Bà nhìn đứa con trai lên tám tuổi, quá nhỏ so với tuổi của nó. Nó có tội tình gì mà cũng đang phải uống cái chén đắng này. Bà vén mùng ra ngồi ở mép giường, vài con muỗi vo ve bay tới, bà đâu có còn để ý gì. Ánh sáng từ bên ngoài lọt qua cái khung cửa ra vào. Ðã từ lâu, gia đình bà dẹp hết các cánh cửa với chủ ý để mọi người thấy rằng gia đình bà chẳng có gì hơn ngoài những thứ mà mọi người có thể trông thấy, rằng gia đình bà chẳng có gì để giấu diếm, và nhất là gia đình bà không hơn gì những dân làng khác. Sau ngày cách mạng bùng nổ, con cái riêng đã trưởng thành của chồng bà cũng tham gia các lớp bình dân học vụ và công việc tại địa phương của họ, người con trai lớn riêng của bà làm việc cho cơ quan tín dụng sản xuất, lo cho nông dân vay tiền để canh tác. Chính chồng bà cũng tham gia công việc địa phương và sau khi thấy tình hình có vẻ “thay đổi”, vợ chồng bà đã quyết định đem hết đất đai giao nộp cho địa phương, chỉ xin giữ lại vài mảnh đất đủ để canh tác lo cho gia đình. Thế mà giờ đây… Có lẽ cái căn nhà nửa gạch nửa tranh của gia đình bà chính là cái lý do đưa tới tai họa ngày hôm nay vì có lần bà nghe ai đó so sánh rằng “Cái mền của bà có rách cũng được làm bằng bông, tụi tôi suốt đời chỉ nằm ổ rơm, đắp chiếu”. Mắt bà lúc này đã quen với bóng đêm. Bà lờ mờ nhìn thấy kệ thờ gắn trên tường trước mặt bà, trên đó đặt hình Ðức Mẹ bồng Chúa Hài Ðồng, nhích hơn phía trên là thánh giá với hình Chúa Giê Su chịu nạn. Bà bước tới kệ thờ, quá nhỏ so với bàn thờ gia đình bà có trước cách mạng bùng nổ. Bà lâm râm cầu nguyện, xin được soi sáng để đáp ứng với nghịch cảnh, và xin sức mạnh để chịu đựng nghịch cảnh. Nước mắt tuôn rơi, bà biết rằng kệ thờ này tuy đã nhỏ nhưng cũng là một trong các nguyên nhân đưa tới tai họa cho gia đình bà. Những người chủ mới của đất nước dư hiểu rằng ngoài một số nhỏ chối đạo, đức tin nủa người công giáo lớn hơn những cái bàn thờ hay kệ thờ bội phần, không thể nào tẩy sạch được. Bà không biết đã đứng trước kệ thờ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Mấy con muỗi đêm nay được bữa no nê vì bà dường như không còn cảm giác gì. Bà gục đầu vào tường một lúc rồi làm dấu thánh giá, xoay người bước ra ngoài sân.
Bà chợt nhớ ra, cái sân lát gạch để dễ phơi lúa này cũng khác với những cái sân nện đất của hầu hết dân làng. Bà ngước nhìn trời như cố gắng tìm một phép lạ giữa muôn vàn vì sao đang lấp lánh trên nền trời xa tắp. Bà biết chỉ có phép lạ mới cứu được chồng bà mà thôi. Qua cái sân, bà bước ra cầu ao. Cái ao khá vuông vức này mỗi chiều chừng hơn hai trăm mét, được mười gia đình sử dụng, rửa ráy cũng nó, tắm giặt cũng nó, nhưng nó được thả cá và vài năm lại tát nước bắt cá một lần nên không đến nỗi dơ dáy lắm. Bà khỏa đám bèo tây giạt vào cầu ao rồi khoát nước rửa mặt. Nước ao lạnh giúp bà tỉnh táo hơn. Bà đứng dậy, xoay người, đứng nhìn căn nhà của gia đình bà như chưa bao giờ bà được trông thấy nó cả. Căn nhà hình chữ L, phần bên trái hoàn toàn bằng gạch, lợp ngói, dựa lưng vào con đê khá lớn để chặn lũ trong những ngày nước sông phía bên kia quá lớn. Chỉ trừ mấy gia đình sử dụng cái ao này, hầu hết dân làng sống sâu phía bên trong con đê. Phần chữ L trước mặt bà được xây dựng sơ sài hơn, tuy cũng tường gạch nhưng lợp tranh, một phần của nó, phía tay phải của bà, được dùng để xay lúa, giã gạo, và nấu nướng, bên hông là lối đi ra cổng về phía sau. Cái cổng này giờ đây cũng rắc rối cho gia đình bà, nó được xây bằng gạch, có mái che, và có then cài. Thực ra, nó chỉ là cái biểu tượng của sự khá giả, chứ nó chẳng thể giữ được kẻ trộm, vì cái hàng rào quanh nhà một phần là những cây tre, một phần là hàng cây dâm bụt. Bà bước tới cây rơm hình tháp tròn gần đó, rút một ôm rơm, đem vào bếp. Bà lấy một cái rổ và một cái giá, tới hai cái vại trong góc bếp, lường khoảng nửa lon gạo và mấy nắm khoai lang khô, rồi ra ao vo gạo. “Vậy là đủ cho hai mẹ con trong ngày rồi,” bà nghĩ bụng. Trở vào bếp, bà lường nước giếng vào cái nồi đất rồi đặt nó lên cái bếp bằng ba viên gạch dựng đứng theo hình tam giác. Bà móc bao diêm trong túi áo, bỏ một nắm rơm vào bếp, và nhóm lửa. Bà cầm một cành cây nhỏ, gạt tàn rơm qua một bên. Tiếng nổ lách tách của những hạt lúa còn sót lại trong rơm gợi cho bà một điều gì tiếc nuối. Bà linh cảm rằng có thể đây là lần sau cùng bà được ngồi nấu cơm trong căn nhà của chính gia đình bà. Nước sôi, bà đổ gạo vào nồi. Một lát sau cơm cạn, bà bỏ khoai lang khô vào nồi rồi nhấc nó xuống cạnh bếp, vùi vào đống tro nóng, đốt thêm rơm trên nắp nồi, rồi ngồi đợi. Bà đang miên man suy nghĩ thì nghe có tiếng đập cổng và tiếng người ơi ới. Bà chạy vội ra kéo then cổng. Trời chưa sáng rõ nhưng bà cũng nhận ra anh du kích đã điệu chồng bà đi vào buổi chiều.
- Bảy giờ rưỡi bà và thằng bé ra đình trình diện. Nghe rõ chưa?
- Dạ rõ. Nhưng bây giờ là mấy giờ rồi, thưa anh?
- Bây giờ khoảng bốn giờ rưỡi.
Trở vào nhà, bà lẩm bẩm “Chắc họ sợ mình trốn nên mới tới sớm như vậy”.
(còn tiếp)