Vào đầu Mùa Chay Phụng Vụ Giáo Hội thường cho chúng ta suy gẫm về 3 cuộc cám dỗ của Chúa Giê-su trong hoang địa (Mt 4,1-11;Mc 1,12-13; Lc 4,1-13). Đó thật sự là những cơn cám dỗ hết sức tinh vi và nguy hiểm vì nó đánh đúng vào ba nhu cầu thiết yếu của con người: nhu cầu hưởng thụ vật chất, quyền lực cai trị và cái tôi muốn đề cao mình của con người. Đó là 3 điều cơ bản mà mỗi con người với bản tính yếu đuối hay sa ngã đều hướng tới. Tuy nhiên, đó chưa phải là nhưng cơn cám dỗ gây cấn nhất trong cuộc đời Đức Giê-su. Bằng chứng cho thấy là Ngài đã vượt qua cách dễ dàng dứt khoát không một chút đắn đo do dự. Thế nhưng còn một cơn cám dỗ ghê gớm hơn nhiều mà ít ai để ý. Đó có thể coi như là cơn cám dỗ cuối cùng trong cuộc đời làm người của Đức Giê-su. Đó không phải là cơn cám dỗ của một mối tình lãng mạn với người đẹp Ma-đa-len-na như trong tiểu thuyết của tác giả Nilos Kazantzakis được dựng thành phim năm 1989. Đó cũng không phải là cơn cám dỗ đến từ thế lực của sự dữ. Nhưng đó là một cơn cám dỗ đến từ chính nội tâm con người. Đó là cơn cám dỗ trong Vường Cây Dầu.
Cũng như bao lần khác, Đức Giê-su vào nơi hoang vắng để gặp gỡ người Cha Thân Yêu của mình. Và cuộc gặp gỡ này không êm đềm như bao cuộc gặp gỡ khác bởi nỗi sợ hãi tột cùng đang bao trùm lấy Ngài. Kinh Thánh ghi lại cảm giác kinh hãi đến tột độ đến nỗi Ngài đỗ mồ hôi máu. Và trong cuộc đối thoại với Chúa Cha Đức Giê-su thật sự đối diện với nỗi sợ hãi khủng khiếp của mình. Ngài đối diện với chén mà Ngài sắp uống, Ngài bỗng thấy nặng nề quá sức. Và trong cơn sợ hãi ấy Ngài đã có lúc mặc cả với Chúa Cha: “Lậy Cha! Nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này” (Mt 26,39). Đây có thể được xem như là một cơn cám dỗ khủng khiếp nhất. Nó có nguy cơ làm cho Đức Giê-su tránh né chén Cha trao và tìm một phương thức khác dễ dàng hơn. Phản ứng của Đức Giê-su trong cơn cám dỗ này khác hẳn với những cơn cám dỗ trong hoang địa. Trong những cơn cám dỗ trong hoang địa Đức Giê-su chưa từng có một chút nhượng bộ nào dù chỉ là trong suy nghĩ. Nhưng trong cơn cám dỗ này thì khác. Dường như Đức Giê-su đã có chút nhượng bộ dẫn đến việc mặc cả với Cha. Mặc dù trước đó Ngài đã chuẩn bị rất lâu cho việc uống chén đắng này. Tin Mừng ghi lại ba lần Ngài nhắc lại việc Ngài phải chịu khổ hình, chịu đóng đinh vào thập giá. Trước đó ngài cũng đã từng tuyên bố dứt khoát cách mạnh mẽ với Phê-rô khi ông muốn can ngăn Ngài: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?" (Ga 18,11). Tất cả mọi sự đã được chuẩn bị cả về tư tưởng, tinh thần và thể xác. Thế mà trong giờ phút quyết định, giờ “G” Đức Giê-su lại dường như muốn rút lui.
Tất cả để nói lên rằng Đức Giê-su trong thân phận con người đã cảm giác đau khổ và sợ hãi đến mức nào trước cuộc khổ hình. Điều gì làm cho Ngài phải sầu khổ đến như vậy? Phải chăng là những đau đớn của thể xác ma Ngài sắp phải chịu? Có lẽ là không! Bởi lẽ lịch sử nhân loại đã chứng minh biết bao nhiêu vĩ nhân sẵn sàng chết vì một lý tưởng cao đẹp. Biết bao vị thánh tử đạo đã không hoảng sợ trước nhục hình và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì niềm tin. Thế thì chẳng lẽ Đức Giê-su – vị Thiên Chúa làm người – lại cảm thấy hoảng sợ trước những khổ hình và cái chết đến mức đổ mồ hôi máu và muốn thoái thác? Dĩ nhiên là không. Đức Giê-su hẳn đang phải đối diện với một cực hình đáng sợ hơn là những đau đớn thể xác. Vậy nỗi đau đó có thể là gì? Thưa đó chỉ có thể là sự cô đơn. Nỗi đau đáng sợ nhất của một vị thần tình yêu đó chính là nỗi cô đơn, một mình. Đức Giê-su đứng trước một sự lạnh lùng của tình người, tình thân, tình môn đệ và ngay cả tình Cha. Ngay giờ phút này, nơi này chỉ còn lại ba môn đệ thân tín đang ở bên cạnh. Trớ trêu thay họ đi canh thức với Thầy mà lại ngủ, đi cùng Thầy mà không biết một tý gì về việc Thầy đang suy nghĩ, không cảm nhận được một chút về sầu khổ Thầy đang chịu, và dĩ nhiên không thấu cảm được lòng Thầy. Hình ảnh ba môn đệ ngủ mê mệt trong Vườn cây dầu và khoảng cách khi Phê-rô theo Đức Giê-su trong cuộc thẩm tra (Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế), tượng trưng cho một khoảng cách quá sâu thẳm giữa Thầy và trò, giữa Đức Giê-su và người thân và giữa Thiên Chúa với dân Ngài và với nhân loại. Vâng! Cảm giác bị người thân bỏ rơi, bị môn đệ phản bội mặc cả với giá bằng giá một tên nô lệ (30 đồng), bị tông đồ trưởng chối bỏ. Phê-rô đã chối là không biết Thầy. Nhưng đó mới chính là lời tuyên xưng thật lòng nhất của Phê-rô và của tất cả các môn đệ vì quả thực Phê-rô vẫn không biết con người thật của Đức Giê-su và sứ mạng của Ngài. Ong chỉ biết rằng Đức Giê-s quyền uy và hay làm phép lạ. Còn Đức Giê-su chịu khổ hình thập giá thì quá xa lạ với ông. Dường như Đức Giê-su không còn một ai bên cạnh Ngài. Trước Thượng Hội Đồng Ngài bị cáo gian và không một ai đứng ra bênh vực cho Ngài. Cảm giác một mình giữa lòng đời thật đáng sợ biết bao. Có lẽ Ngài cũng cần một ai đó để hiểu cho Ngài, để thông cảm cho Ngài, để nâng đỡ Ngài nhưng trên hết Ngài cần con người đón nhận tình yêu của Ngài. Đáng tiếc thay, giờ này không một ai hiểu và đón nhận tình yêu của Ngài hết. Họ phủ nhận tất cả mọi nổ lực yêu thương của Ngài. Họ kinh tởm Ngài hơn một tên cướp. Họ khạc nhổ vào Ngài như khạc vào một đóng rác nhơ bẩn. Cảm giá bị tất cả mọi người loại bỏ và xỉ vả thật đáng sợ biết bao. Chính vì thế mà trên thập giá trước khi trút hơi thở Ngài đã thốt lên là “Ta khát” (Ga 19,28). Đó không đơn thuần là một cơn khát đến từ cỗ họng nhưng là một nỗi khát khao phát xuất từ cõi lòng từ một con tim khát mong được trao ban tình yêu cho nhân loại. Một nỗi khát mong nhân loại đón nhận tình yêu cứu độ của Ngài để họ được bình an vĩnh cửu. Và nổi cô đơn trở nên tột cùng khi Đức Giê-su cảm thấy dường như Chúa Cha đang bỏ rơi Ngài: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni", nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?" (Mt 27,46). B? nhân loại bỏ rơi Ngài chỉ còn lại một mình Cha thế mà Cha cũng để Ngài một mình. Đó là một sự cơn đau toàn thể cả thể xác, tinh thần và con tim.
Trước viễn cảnh như vậy Đức Giê-su dường như không muốn đi tiếp. Tuy vậy, có một điều giống với những cơn cám dỗ trong hoang địa. Đó là cuối cùng Đức Giê-su cũng chiến thắng. Ngài đã chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng chính cái tôi muốn tránh khỏi gánh nặng của nhục hình. "Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26, 39; Lc 22,42). Thật là một điều đáng cảm phục. Trong một tình huống khó khăn như vậy mà Đức Giê-su có thể từ bỏ ý riêng để vâng theo ý của Chúa Cha. Đó không chỉ là sức mạnh của một anh hùng trước phong ba bão táp của trận chiến sinh tử nhưng còn là một nét đẹp của tự do đích thực. Đức Giê-su đã thoát khỏi sự nô lệ ý muốn bản thân nơi A-đam củ để khi dùng tự do của mình mà vâng theo thánh ý Cha. “Trong mọi tất cả mọi chiến thắng thì chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình” (Platon). Và Đức Giê-su đã làm được điều đó để mang đến ơn cứu độ diệu kỳ cho nhân loại.
Cũng như bao lần khác, Đức Giê-su vào nơi hoang vắng để gặp gỡ người Cha Thân Yêu của mình. Và cuộc gặp gỡ này không êm đềm như bao cuộc gặp gỡ khác bởi nỗi sợ hãi tột cùng đang bao trùm lấy Ngài. Kinh Thánh ghi lại cảm giác kinh hãi đến tột độ đến nỗi Ngài đỗ mồ hôi máu. Và trong cuộc đối thoại với Chúa Cha Đức Giê-su thật sự đối diện với nỗi sợ hãi khủng khiếp của mình. Ngài đối diện với chén mà Ngài sắp uống, Ngài bỗng thấy nặng nề quá sức. Và trong cơn sợ hãi ấy Ngài đã có lúc mặc cả với Chúa Cha: “Lậy Cha! Nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này” (Mt 26,39). Đây có thể được xem như là một cơn cám dỗ khủng khiếp nhất. Nó có nguy cơ làm cho Đức Giê-su tránh né chén Cha trao và tìm một phương thức khác dễ dàng hơn. Phản ứng của Đức Giê-su trong cơn cám dỗ này khác hẳn với những cơn cám dỗ trong hoang địa. Trong những cơn cám dỗ trong hoang địa Đức Giê-su chưa từng có một chút nhượng bộ nào dù chỉ là trong suy nghĩ. Nhưng trong cơn cám dỗ này thì khác. Dường như Đức Giê-su đã có chút nhượng bộ dẫn đến việc mặc cả với Cha. Mặc dù trước đó Ngài đã chuẩn bị rất lâu cho việc uống chén đắng này. Tin Mừng ghi lại ba lần Ngài nhắc lại việc Ngài phải chịu khổ hình, chịu đóng đinh vào thập giá. Trước đó ngài cũng đã từng tuyên bố dứt khoát cách mạnh mẽ với Phê-rô khi ông muốn can ngăn Ngài: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?" (Ga 18,11). Tất cả mọi sự đã được chuẩn bị cả về tư tưởng, tinh thần và thể xác. Thế mà trong giờ phút quyết định, giờ “G” Đức Giê-su lại dường như muốn rút lui.
Tất cả để nói lên rằng Đức Giê-su trong thân phận con người đã cảm giác đau khổ và sợ hãi đến mức nào trước cuộc khổ hình. Điều gì làm cho Ngài phải sầu khổ đến như vậy? Phải chăng là những đau đớn của thể xác ma Ngài sắp phải chịu? Có lẽ là không! Bởi lẽ lịch sử nhân loại đã chứng minh biết bao nhiêu vĩ nhân sẵn sàng chết vì một lý tưởng cao đẹp. Biết bao vị thánh tử đạo đã không hoảng sợ trước nhục hình và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì niềm tin. Thế thì chẳng lẽ Đức Giê-su – vị Thiên Chúa làm người – lại cảm thấy hoảng sợ trước những khổ hình và cái chết đến mức đổ mồ hôi máu và muốn thoái thác? Dĩ nhiên là không. Đức Giê-su hẳn đang phải đối diện với một cực hình đáng sợ hơn là những đau đớn thể xác. Vậy nỗi đau đó có thể là gì? Thưa đó chỉ có thể là sự cô đơn. Nỗi đau đáng sợ nhất của một vị thần tình yêu đó chính là nỗi cô đơn, một mình. Đức Giê-su đứng trước một sự lạnh lùng của tình người, tình thân, tình môn đệ và ngay cả tình Cha. Ngay giờ phút này, nơi này chỉ còn lại ba môn đệ thân tín đang ở bên cạnh. Trớ trêu thay họ đi canh thức với Thầy mà lại ngủ, đi cùng Thầy mà không biết một tý gì về việc Thầy đang suy nghĩ, không cảm nhận được một chút về sầu khổ Thầy đang chịu, và dĩ nhiên không thấu cảm được lòng Thầy. Hình ảnh ba môn đệ ngủ mê mệt trong Vườn cây dầu và khoảng cách khi Phê-rô theo Đức Giê-su trong cuộc thẩm tra (Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế), tượng trưng cho một khoảng cách quá sâu thẳm giữa Thầy và trò, giữa Đức Giê-su và người thân và giữa Thiên Chúa với dân Ngài và với nhân loại. Vâng! Cảm giác bị người thân bỏ rơi, bị môn đệ phản bội mặc cả với giá bằng giá một tên nô lệ (30 đồng), bị tông đồ trưởng chối bỏ. Phê-rô đã chối là không biết Thầy. Nhưng đó mới chính là lời tuyên xưng thật lòng nhất của Phê-rô và của tất cả các môn đệ vì quả thực Phê-rô vẫn không biết con người thật của Đức Giê-su và sứ mạng của Ngài. Ong chỉ biết rằng Đức Giê-s quyền uy và hay làm phép lạ. Còn Đức Giê-su chịu khổ hình thập giá thì quá xa lạ với ông. Dường như Đức Giê-su không còn một ai bên cạnh Ngài. Trước Thượng Hội Đồng Ngài bị cáo gian và không một ai đứng ra bênh vực cho Ngài. Cảm giác một mình giữa lòng đời thật đáng sợ biết bao. Có lẽ Ngài cũng cần một ai đó để hiểu cho Ngài, để thông cảm cho Ngài, để nâng đỡ Ngài nhưng trên hết Ngài cần con người đón nhận tình yêu của Ngài. Đáng tiếc thay, giờ này không một ai hiểu và đón nhận tình yêu của Ngài hết. Họ phủ nhận tất cả mọi nổ lực yêu thương của Ngài. Họ kinh tởm Ngài hơn một tên cướp. Họ khạc nhổ vào Ngài như khạc vào một đóng rác nhơ bẩn. Cảm giá bị tất cả mọi người loại bỏ và xỉ vả thật đáng sợ biết bao. Chính vì thế mà trên thập giá trước khi trút hơi thở Ngài đã thốt lên là “Ta khát” (Ga 19,28). Đó không đơn thuần là một cơn khát đến từ cỗ họng nhưng là một nỗi khát khao phát xuất từ cõi lòng từ một con tim khát mong được trao ban tình yêu cho nhân loại. Một nỗi khát mong nhân loại đón nhận tình yêu cứu độ của Ngài để họ được bình an vĩnh cửu. Và nổi cô đơn trở nên tột cùng khi Đức Giê-su cảm thấy dường như Chúa Cha đang bỏ rơi Ngài: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni", nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?" (Mt 27,46). B? nhân loại bỏ rơi Ngài chỉ còn lại một mình Cha thế mà Cha cũng để Ngài một mình. Đó là một sự cơn đau toàn thể cả thể xác, tinh thần và con tim.
Trước viễn cảnh như vậy Đức Giê-su dường như không muốn đi tiếp. Tuy vậy, có một điều giống với những cơn cám dỗ trong hoang địa. Đó là cuối cùng Đức Giê-su cũng chiến thắng. Ngài đã chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng chính cái tôi muốn tránh khỏi gánh nặng của nhục hình. "Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26, 39; Lc 22,42). Thật là một điều đáng cảm phục. Trong một tình huống khó khăn như vậy mà Đức Giê-su có thể từ bỏ ý riêng để vâng theo ý của Chúa Cha. Đó không chỉ là sức mạnh của một anh hùng trước phong ba bão táp của trận chiến sinh tử nhưng còn là một nét đẹp của tự do đích thực. Đức Giê-su đã thoát khỏi sự nô lệ ý muốn bản thân nơi A-đam củ để khi dùng tự do của mình mà vâng theo thánh ý Cha. “Trong mọi tất cả mọi chiến thắng thì chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình” (Platon). Và Đức Giê-su đã làm được điều đó để mang đến ơn cứu độ diệu kỳ cho nhân loại.