NGÔN SỨ, ÔNG LÀ AI?
Từ lâu nay, người Công giáo Việt Nam quen dùng chữ Tiên Tri thay vì Ngôn Sứ để dịch chữ Prophet, có gốc từ chữ Hi-Lạp Aprophetes. Người ta hay gọi tiên tri Isaia, chứ ít người gọi ông là ngôn sứ Isaia. Tuy nhiên, định nghĩa sau đây cho thấy chữ ngôn sứ xem ra có vẻ chính xác hơn. Theo ngữ nguyên học, chữ Hi Lạp kể trên được tổng hợp bằng hai chữ Apheni là người nói, và Apro: cho (người khác.) Người khác trong trường hợp này chính là Thiên Chúa. Người Do Thái (Hebrew) đã dùng chữ Anabi, kẻ được Chúa gọi để ám chỉ một tiên tri. Chữ này theo nghĩa rộng, cũng có thể hiểu là phát ngôn nhân của Chúa. Nếu nhìn vào toàn bộ lịch sử của các tiên tri trong Kinh Thánh, người ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiên tri, hay ngôn sứ là những vị đã đem lời của Chúa đến cho kẻ khác. Lời của Chúa, đôi khi là sự loan báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai.
Các tiên tri trong Cựu Ước được chia ra thành bốn Ðại Tiên Tri: Isaia, Jeremia, Ezechiel, và Daniel; cùng với 12 Tiểu Tiên Tri: Osee, Joel, Amos, Abdia, Jona, Michea, Nahum, Habacuc, Sophonia, Aggai, Zacharia, và Malachia. Việc phân chia này không hệ tại trên tầm quan trọng của mỗi tiên tri hay sứ điệp họ truyền đạt; nhưng một cách đơn giản, chỉ vì Sách Thánh đã nói đến những vị đó nhiều hơn. Các tiên tri đã không viết những sách tiên tri mà ngày nay chúng ta có trong bộ Kinh Thánh. Lời của các ngài đã được gìn giữ trong truyền thống khẩu truyền rồi sau này được ghi lại thành sách. Cũng cần nên biết là ngoài 16 tiên tri đã được kể tên và chính thức công nhận - những tiên tri được viết đến; vẫn còn những vị khác đã xuất hiện trong lịch sử dân Do Thái như Elia (Elijah) và Elisae (Elisha) đã công bố lời của Chúa, nhưng những lời ấy đã không được truyền tụng hay ghi chép lại đầy đủ. Một vài vị thuộc nữ giới cũng được gọi là Nữ Tiên Tri như bà Mariam, chị ông Môi-Sê (Moses) và bà Debora.
Những đoạn Cựu Ước căn bản nói lên căn tính của một tiên tri là Is. 6:1-13; Jer. 1:4-19; Ez. 1:1-3, 21; và Am. 3:7-8; 7:14-16. Cộng thêm với một số đoạn Kinh Thánh khác, người ta có thể nhận ra thêm những vai trò của một tiên tri. Ông là người được ủy thác nói thay cho Ðức Gia-vê (Yahweh) (Is.6:8-9; Jer. 1:9); ông bị bắt buộc phải lãnh trách nhiệm cho dù không muốn hay tự nhận là thiếu khả năng (Am 3:7-8; Jer. 1:7-8); Chúa truyền đạt lời của Ngài cho các tiên tri (Is. 6:9; Jer. 1:7-9; Ez. 2:8-3:3); việc truyền đạt này bao gồm cả hai việc thấy (vision) và nghe (audition), tình trạng tương tự như những người được gọi là các nhà huyền nhiệm học (mystics) sau này.
Tóm lại: Tiên tri hay ngôn sứ trong Kinh Thánh là người được nghe tiếng Chúa gọi và đem lời của Ngài đến cho nhân loại. Như vậy tiên tri là một phát ngôn nhân (speaker) được Chúa linh ứng.
Tiên tri qua các thời đại
Những nhà lãnh đạo tinh thần lâu đời nhất đôi khi cũng được gọi là tiên tri như tổ phụ Abraham (Gn. 20:7) và ông Môi-Sê (Dt. 34:10), nhưng đây chỉ là cách diễn giải của những người thuộc các thế hệ về sau. Các tiên tri chỉ xuất hiện vào cuối thời đại của các Quan Án (Judges) và bắt đầu thời đại của các vua. Vào thời kỳ sơ khai đó, các tiên tri được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Người của Chúa. (1Sm. 9:6), người được thị kiến (1Sm. 9:9), và Tiên Tri (1Sm. 10:10). Ðôi khi các tên khác nhau được gọi tùy theo những hiện tượng tiên tri khác biệt dù rằng tất cả đều là phát ngôn nhân của Chúa. Sự kiện họ được mạc khải lời của Chúa là điều quan trọng hơn cả việc tiên đoán hay khiển trách. Chính sự hiệu nghiệm đã đem lại sức mạnh cho những lời tiên tri. Nhưng đôi khi sự hiệu nghiệm đó đã đem lại hậu quả xấu cho các tiên tri, vì họ đã tiên đoán những sự dữ và bị cáo buộc phải chịu trách nhiệm về những sự dữ đó (3Kg. 18:17; 22:8)
“Người được thị kiến” (the Seer - roeh, hozeh) là một trong những tên dành cho các tiên tri sớm nhất mà Samuel là thí dụ điển hình. Ông đã được nhận những mạc khải (revelations) của Thiên Chúa qua những thị kiến và trong giấc mộng (1Sm. 9:15; 3:10-14) từ những việc nhỏ đến những việc trọng đại, liên hệ đến vận mệnh của cả một triều đại hay quốc gia. Ông đã chọn để xức dầu tấn phong Saolê (Saul) làm vua (1Sm. 9:15-17), nhưng về sau ông đã cho Saolê biết rằng Thiên Chúa đã phế loại ông ta để chọn một dòng vua khác (13:11-14). Như vậy, người được thị kiến đã hành động như phát ngôn nhân của Chúa, can thiệp vào những việc quan trọng của hoàng gia. Sự kiện này cũng đã xảy ra trong triều đại của nhiều dòng vua kế tiếp, như giữa vua David và ông Gad, người được thị kiến.
Những tiên tri ngất trí (ecstatic) được ghi nhận qua những hành động, cử chỉ bất thường. Tâm trí của họ dường như đã được chiếm ngự và tác động bởi thánh linh của Ðức Giavê (1Sm. 10:6; 4Kgs. 2:16) như đã xảy ra cho chính vua Saolê. Ông Nathan, trong triều đại của vua David đã chính thức được gọi là tiên tri hay ngôn sứ (Nabi.) Nathan đã hành động một mình và sự ngất trí đã không xảy ra cho ông. Trong giấc mộng, Thiên Chúa đã loan báo cho ông rằng triều đại của vua David sẽ được tiếp tục (2Sm. 7); nhưng ông cũng thẳng thắn lên án khi vua phạm lỗi (2Sm. 12); đồng thời ông đã trực tiếp can thiệp để hoàng tử Salomon được kế vị David (3Kgs. 1). Những điều này, hiển nhiên đã mang tính cách chính trị. Từ đó, các tiên tri đã liên hệ mật thiết với các triều đại, làm cố vấn cho những hoàng đế ở cả hai vương quốc Israel và Juda.
Những tiên tri được viết đến (các tiểu, đại tiên tri được chính thức chấp nhận trong Kinh Thánh) đã xuất hiện trước thời lưu đày, khoảng thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giáng Sinh (BC). Hành động của họ đã không nhất thiết phải xảy ra ở những thời điểm lịch sử của các vương quốc, và thông điệp của họ chính là Lời của Chúa truyền đạt tới dân chúng.
Thần học về những lời tiên tri
Vào thế kỷ đầu của thời đại Tân Ước, một số người đã được chia sẻ Thánh Linh tiên tri của Chúa Kitô (Eph. 4:7-14; 1Cor. 12:28; Acts 11:27, 13:1 v.v...), trong khi những người khác được chia sẻ ơn thiêng này một cách tổng quát hơn. Ðã có nhiều dấu hiệu cho thấy sự tiếp tục của Thánh Linh tiên tri vào thời sơ khai của giáo hội (Didache 11-13; Ascension of Isaia 3:25-27; Justin, Dial. 87; Irenaeus, Haer. 2.32.4; 4.33.15...) Theo Didache, các tiên tri được kính trọng hơn cả giám mục và thày sáu. Họ thực hiện những hành động tế lễ tương tự như hàng gíao sĩ (15:1-2; 10:7; 13:3). Ðiều họ nói trong Thánh Linh đã được chấp nhận (11:7). Một số vị thuộc hàng giáo phẩm (Hiearchy) cũng được hưởng ơn này trong một cách đặc biệt (Ignatius of Antioch Philad. 7:2; Polyc. 1:3, 2:2) và (Polycarp of Smyrna M. Polyc. 16:2). Tuy nhiên, đã có những tiên tri giả, những người không có đường lối của Chúa trong họ (Didache 11:8). Hermas đã cảnh cáo về những tiên tri giả vì họ không giống như Chúa (Mand. 11:7-10.) Thánh Justin qui kết lời của họ là tổng hợp tư tưởng của bè rối Gnostic và những huyền thoại Hi-Lạp (Dial. 82:1, 35:3, 51:2, 87-88...) Thánh Iranaeus kết án tư tưởng của bè rối (tiên tri giả) Montanus, nhưng ngài cũng đả phá Alogi là người không chấp nhận những tiên tri (Haer 3.11.9; cf. 2.49.3)
Sau kinh nghiệm về bè rối Montanism, vai trò của tiên tri đã giảm sút trong giáo hội. Những ơn tiên tri đã được chia thành hai khuynh hướng: Trước hết, truyền thống mầu nhiệm (mystical) hay ngất trí (ecstatic), ảnh hưởng rất nhiều bởi những truyền thống Hi-Lạp và Do Thái. Thánh Augustine đã trình bày lý thuyết về thị kiến và tiên tri trong Gen. Ad litt. 12, một phần do ảnh hưởng của những tư tưởng tân-Platonic. Ðến thế kỷ thứ XIII, thánh Thomas Aquinas (Tôma Aquinô) xử dụng một chút những dòng tư tưởng về tiên tri của Do Thái và Ả-rập. Kế đến là truyền thống diễn giải hữu lý, coi tiên tri như một nhà diễn giải thông điệp của Chúa. Ðiều này đã xảy ra qua quan hệ giữa hai ông Aaron và Môi-Sê trong thời Xuất Hành (Ex. 4:16; 7:1.) Vào thời Tân Ước, theo truyền thống này, chính Chúa Kitô là người diễn giải những lời tiên tri khó hiểu trong Cựu Ước (Lk. 24:27; 44-45.) Sau thời của thánh Thomas, các thần học gia đã nghiêng hẳn về khuynh hướng truyền thống mầu nhiệm. Việc chú giải bộ Summa của các thần học gia dòng Ða-Minh như Cajetan, Cano, Soto, và của dòng Tên như Salmeron, Suarez, và De Lugo đã tiếp tục truyền thống này.
Những tiên tri đặc biệt sau này đã minh chứng sự tiếp tục của ơn tiên tri trong giáo hội, như các thánh Catherine of Siena, Teresa of Avila, Margaret Mary, Catherine LaBouré...
Thời cận đại, đôi khi giáo hội vẫn phải bảo vệ cá tính, giáo điều và sự ưu việt của mạc khải trước những tấn công của phe theo chủ nghĩa tân thời (Modernism.) Những nghiên cứu của các nhà thần học Y. M. Congar, K. Rahner, C. Journet... đã đề cao vai trò tiên tri của Chúa Kitô trong hội thánh. Hiến chế tín lý về giáo hội (Lumen Gentium) của Công Ðồng Vatican II đã trình bày cách rộng rãi về bản chất của tiên tri (12, 35 Acts 57 (1965) 16-17, 40-41.) Theo hiến chế nói trên, mọi thành phần dân Chúa đều được chia sẻ thiên chức tiên tri của Chúa Kitô qua việc họ được Chúa Thánh Linh xức dầu (1Jn. 2:20, 27)
Hàng giáo phẩm tiếp tục thiên chức tiên tri của Chúa Kitô qua việc giảng dạy nhân danh Ngài và bằng quyền bính của Ngài. Hơn nữa, việc biện giải về cá tính nguyên tuyền và việc cẩn thận xử dụng ơn riêng này thuộc về hàng giáo phẩm. Các ngài không dập tắt Thánh Linh nhưng thử nghiệm tất cả và gìn giữ những gì là chân thật và tốt lành. Thiên chức tiên tri của các tín hữu là nên nhân chứng một cách xã hội (Eph. 6:12.) Ðời sống và lời chứng của họ, đặc biệt trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, mang một sức mạnh đặc biệt cho cuộc đời bình thường xung quanh họ. Do mục đích này, Chúa đã ban cho họ ơn hiểu biết đức tin (sensus fidei) và sự hấp dẫn trong lời nói (Acts 2:17-18.) Vì vậy, họ phải hợp tác trong việc truyền bá bên ngoài và sự tăng trưởng mạnh mẽ của giáo hội. Ðể hoàn thành sứ mệnh này, người tín hữu giáo dân nên cố gắng nhận lãnh cách hoàn hảo chân lý mạc khải và năng cầu nguyện để xin được ơn khôn ngoan.
Tiên tri trong cộng đồng giáo hữu và hàng giáo phẩm
Như đã trình bày, ơn tiên tri được chia sẻ bởi mọi thành phần dân Chúa, giáo dân cũng như giáo sĩ. Về những việc tiên tri cá nhân, sự linh ứng (inspiration) và mạc khải (revelation) của Chúa, dù là tư (private) hay công (public) vẫn theo chiều hướng cộng đồng hay giáo hội. Người ta không dễ dàng lượng định được tầm ảnh hưởng của lời tiên tri, qua việc linh ứng và mạc khải phổ quát hơn, trên cộng đồng dân Chúa. Những tiên tri hay ngôn sứ được hưởng ở mức độ nào đó tư cách phát ngôn nhân đại diện sự hiểu biết và thái độ chung hoặc nhu cầu của dân Chúa.
Trách nhiệm của hàng giáo phẩm là bảo vệ đức tin và biện giải Thánh Linh tiên tri. Trong khi hàng giáo phẩm được ơn biện giải, nhưng các ngài không được dập tắt Thánh Linh. Ðó là một bổn phận, chứ không phải là một sự khiêm nhường, khi hàng giáo phẩm lắng nghe những lời đề nghị của dân Chúa một khi điều đó không đi ngược với Thánh Linh. Giáo hội vừa là một ân thiêng vừa là một tổ chức (Eph. 2:20), đi quá trớn về bất cứ bên nào đều làm lệch lạc bản chất của giáo hội. Phải hiểu rằng Thánh Linh tiên tri cần thiết trong việc tự biểu lộ cách hòa hợp với cả hàng giáo phẩm và cộng đồng.
Trước sự kiện một người tự nhận là tiên tri hay ngôn sứ (thường là mạc khải tư), vị bề trên trực tiếp của đương sự bắt buộc phải mở cuộc điều tra. Trong trường hợp tìm thấy sự kiện tiên tri đó là có thật, do chính vị giám mục bản quyền công bố, giáo hội đã không dùng quyền bất khả ngộ (infallibility), nhưng tự nhận rằng một mạc khải như vậy xứng đáng với đức tin của con người. Vì mạc khải tư thiếu ơn quan phòng an toàn của mạc khải công, vị ngôn sứ thường không biểu lộ hết được kinh nghiệm ơn sủng (grace-experience.) Ngay cả các thánh và á thánh, đôi khi cũng đã truyền đạt những sự kiện sai lầm về thần học hay lịch sử (K. Rahner, Visions and Prophetics, trang 64-65.) Vì vậy, người có bổn phận điều tra sự kiện, do vị giám mục bản quyền chỉ định, phải là người thông hiểu về tiên tri. Các việc tiên tri thật đều không phải là: (1) ảo thuật, (2) bán tâm lý (parapsychological), (3) ảnh hưởng bởi chính quyền, (4) truyền đạt những lời tiên tri tạo hoẹt, không liên hệ tới mạc khải. Những tiên tri siêu nhiên không biểu dương điều gì mới lạ, đi ra ngoài giáo huấn của Kinh Thánh, nhưng chỉ có Chúa là Thiên Chúa của lịch sử. Sự thật của việc tiên tri còn hệ tại ở cá nhân vị ngôn sứ như đời sống đạo đức, tư cách cá nhân, và tình trạng sức khỏe về tâm thần cũng như thể chất.
Nếu cuộc điều tra cho thấy sự kiện tiên tri là có thật, vị bề trên bản quyền bắt buộc phải yểm trợ vị ngôn sứ, cho dù điều đó đi ngược với ước muốn riêng của mình. Một lần nữa, hàng giáo phẩm có bổn phận phải gìn giữ đức tin, nhưng, ở mặt khác, các ngài cũng không được dập tắt Thánh Linh.
Từ lâu nay, người Công giáo Việt Nam quen dùng chữ Tiên Tri thay vì Ngôn Sứ để dịch chữ Prophet, có gốc từ chữ Hi-Lạp Aprophetes. Người ta hay gọi tiên tri Isaia, chứ ít người gọi ông là ngôn sứ Isaia. Tuy nhiên, định nghĩa sau đây cho thấy chữ ngôn sứ xem ra có vẻ chính xác hơn. Theo ngữ nguyên học, chữ Hi Lạp kể trên được tổng hợp bằng hai chữ Apheni là người nói, và Apro: cho (người khác.) Người khác trong trường hợp này chính là Thiên Chúa. Người Do Thái (Hebrew) đã dùng chữ Anabi, kẻ được Chúa gọi để ám chỉ một tiên tri. Chữ này theo nghĩa rộng, cũng có thể hiểu là phát ngôn nhân của Chúa. Nếu nhìn vào toàn bộ lịch sử của các tiên tri trong Kinh Thánh, người ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng tiên tri, hay ngôn sứ là những vị đã đem lời của Chúa đến cho kẻ khác. Lời của Chúa, đôi khi là sự loan báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai.
Các tiên tri trong Cựu Ước được chia ra thành bốn Ðại Tiên Tri: Isaia, Jeremia, Ezechiel, và Daniel; cùng với 12 Tiểu Tiên Tri: Osee, Joel, Amos, Abdia, Jona, Michea, Nahum, Habacuc, Sophonia, Aggai, Zacharia, và Malachia. Việc phân chia này không hệ tại trên tầm quan trọng của mỗi tiên tri hay sứ điệp họ truyền đạt; nhưng một cách đơn giản, chỉ vì Sách Thánh đã nói đến những vị đó nhiều hơn. Các tiên tri đã không viết những sách tiên tri mà ngày nay chúng ta có trong bộ Kinh Thánh. Lời của các ngài đã được gìn giữ trong truyền thống khẩu truyền rồi sau này được ghi lại thành sách. Cũng cần nên biết là ngoài 16 tiên tri đã được kể tên và chính thức công nhận - những tiên tri được viết đến; vẫn còn những vị khác đã xuất hiện trong lịch sử dân Do Thái như Elia (Elijah) và Elisae (Elisha) đã công bố lời của Chúa, nhưng những lời ấy đã không được truyền tụng hay ghi chép lại đầy đủ. Một vài vị thuộc nữ giới cũng được gọi là Nữ Tiên Tri như bà Mariam, chị ông Môi-Sê (Moses) và bà Debora.
Những đoạn Cựu Ước căn bản nói lên căn tính của một tiên tri là Is. 6:1-13; Jer. 1:4-19; Ez. 1:1-3, 21; và Am. 3:7-8; 7:14-16. Cộng thêm với một số đoạn Kinh Thánh khác, người ta có thể nhận ra thêm những vai trò của một tiên tri. Ông là người được ủy thác nói thay cho Ðức Gia-vê (Yahweh) (Is.6:8-9; Jer. 1:9); ông bị bắt buộc phải lãnh trách nhiệm cho dù không muốn hay tự nhận là thiếu khả năng (Am 3:7-8; Jer. 1:7-8); Chúa truyền đạt lời của Ngài cho các tiên tri (Is. 6:9; Jer. 1:7-9; Ez. 2:8-3:3); việc truyền đạt này bao gồm cả hai việc thấy (vision) và nghe (audition), tình trạng tương tự như những người được gọi là các nhà huyền nhiệm học (mystics) sau này.
Tóm lại: Tiên tri hay ngôn sứ trong Kinh Thánh là người được nghe tiếng Chúa gọi và đem lời của Ngài đến cho nhân loại. Như vậy tiên tri là một phát ngôn nhân (speaker) được Chúa linh ứng.
Tiên tri qua các thời đại
Những nhà lãnh đạo tinh thần lâu đời nhất đôi khi cũng được gọi là tiên tri như tổ phụ Abraham (Gn. 20:7) và ông Môi-Sê (Dt. 34:10), nhưng đây chỉ là cách diễn giải của những người thuộc các thế hệ về sau. Các tiên tri chỉ xuất hiện vào cuối thời đại của các Quan Án (Judges) và bắt đầu thời đại của các vua. Vào thời kỳ sơ khai đó, các tiên tri được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Người của Chúa. (1Sm. 9:6), người được thị kiến (1Sm. 9:9), và Tiên Tri (1Sm. 10:10). Ðôi khi các tên khác nhau được gọi tùy theo những hiện tượng tiên tri khác biệt dù rằng tất cả đều là phát ngôn nhân của Chúa. Sự kiện họ được mạc khải lời của Chúa là điều quan trọng hơn cả việc tiên đoán hay khiển trách. Chính sự hiệu nghiệm đã đem lại sức mạnh cho những lời tiên tri. Nhưng đôi khi sự hiệu nghiệm đó đã đem lại hậu quả xấu cho các tiên tri, vì họ đã tiên đoán những sự dữ và bị cáo buộc phải chịu trách nhiệm về những sự dữ đó (3Kg. 18:17; 22:8)
“Người được thị kiến” (the Seer - roeh, hozeh) là một trong những tên dành cho các tiên tri sớm nhất mà Samuel là thí dụ điển hình. Ông đã được nhận những mạc khải (revelations) của Thiên Chúa qua những thị kiến và trong giấc mộng (1Sm. 9:15; 3:10-14) từ những việc nhỏ đến những việc trọng đại, liên hệ đến vận mệnh của cả một triều đại hay quốc gia. Ông đã chọn để xức dầu tấn phong Saolê (Saul) làm vua (1Sm. 9:15-17), nhưng về sau ông đã cho Saolê biết rằng Thiên Chúa đã phế loại ông ta để chọn một dòng vua khác (13:11-14). Như vậy, người được thị kiến đã hành động như phát ngôn nhân của Chúa, can thiệp vào những việc quan trọng của hoàng gia. Sự kiện này cũng đã xảy ra trong triều đại của nhiều dòng vua kế tiếp, như giữa vua David và ông Gad, người được thị kiến.
Những tiên tri ngất trí (ecstatic) được ghi nhận qua những hành động, cử chỉ bất thường. Tâm trí của họ dường như đã được chiếm ngự và tác động bởi thánh linh của Ðức Giavê (1Sm. 10:6; 4Kgs. 2:16) như đã xảy ra cho chính vua Saolê. Ông Nathan, trong triều đại của vua David đã chính thức được gọi là tiên tri hay ngôn sứ (Nabi.) Nathan đã hành động một mình và sự ngất trí đã không xảy ra cho ông. Trong giấc mộng, Thiên Chúa đã loan báo cho ông rằng triều đại của vua David sẽ được tiếp tục (2Sm. 7); nhưng ông cũng thẳng thắn lên án khi vua phạm lỗi (2Sm. 12); đồng thời ông đã trực tiếp can thiệp để hoàng tử Salomon được kế vị David (3Kgs. 1). Những điều này, hiển nhiên đã mang tính cách chính trị. Từ đó, các tiên tri đã liên hệ mật thiết với các triều đại, làm cố vấn cho những hoàng đế ở cả hai vương quốc Israel và Juda.
Những tiên tri được viết đến (các tiểu, đại tiên tri được chính thức chấp nhận trong Kinh Thánh) đã xuất hiện trước thời lưu đày, khoảng thế kỷ thứ VIII trước Chúa Giáng Sinh (BC). Hành động của họ đã không nhất thiết phải xảy ra ở những thời điểm lịch sử của các vương quốc, và thông điệp của họ chính là Lời của Chúa truyền đạt tới dân chúng.
Thần học về những lời tiên tri
Vào thế kỷ đầu của thời đại Tân Ước, một số người đã được chia sẻ Thánh Linh tiên tri của Chúa Kitô (Eph. 4:7-14; 1Cor. 12:28; Acts 11:27, 13:1 v.v...), trong khi những người khác được chia sẻ ơn thiêng này một cách tổng quát hơn. Ðã có nhiều dấu hiệu cho thấy sự tiếp tục của Thánh Linh tiên tri vào thời sơ khai của giáo hội (Didache 11-13; Ascension of Isaia 3:25-27; Justin, Dial. 87; Irenaeus, Haer. 2.32.4; 4.33.15...) Theo Didache, các tiên tri được kính trọng hơn cả giám mục và thày sáu. Họ thực hiện những hành động tế lễ tương tự như hàng gíao sĩ (15:1-2; 10:7; 13:3). Ðiều họ nói trong Thánh Linh đã được chấp nhận (11:7). Một số vị thuộc hàng giáo phẩm (Hiearchy) cũng được hưởng ơn này trong một cách đặc biệt (Ignatius of Antioch Philad. 7:2; Polyc. 1:3, 2:2) và (Polycarp of Smyrna M. Polyc. 16:2). Tuy nhiên, đã có những tiên tri giả, những người không có đường lối của Chúa trong họ (Didache 11:8). Hermas đã cảnh cáo về những tiên tri giả vì họ không giống như Chúa (Mand. 11:7-10.) Thánh Justin qui kết lời của họ là tổng hợp tư tưởng của bè rối Gnostic và những huyền thoại Hi-Lạp (Dial. 82:1, 35:3, 51:2, 87-88...) Thánh Iranaeus kết án tư tưởng của bè rối (tiên tri giả) Montanus, nhưng ngài cũng đả phá Alogi là người không chấp nhận những tiên tri (Haer 3.11.9; cf. 2.49.3)
Sau kinh nghiệm về bè rối Montanism, vai trò của tiên tri đã giảm sút trong giáo hội. Những ơn tiên tri đã được chia thành hai khuynh hướng: Trước hết, truyền thống mầu nhiệm (mystical) hay ngất trí (ecstatic), ảnh hưởng rất nhiều bởi những truyền thống Hi-Lạp và Do Thái. Thánh Augustine đã trình bày lý thuyết về thị kiến và tiên tri trong Gen. Ad litt. 12, một phần do ảnh hưởng của những tư tưởng tân-Platonic. Ðến thế kỷ thứ XIII, thánh Thomas Aquinas (Tôma Aquinô) xử dụng một chút những dòng tư tưởng về tiên tri của Do Thái và Ả-rập. Kế đến là truyền thống diễn giải hữu lý, coi tiên tri như một nhà diễn giải thông điệp của Chúa. Ðiều này đã xảy ra qua quan hệ giữa hai ông Aaron và Môi-Sê trong thời Xuất Hành (Ex. 4:16; 7:1.) Vào thời Tân Ước, theo truyền thống này, chính Chúa Kitô là người diễn giải những lời tiên tri khó hiểu trong Cựu Ước (Lk. 24:27; 44-45.) Sau thời của thánh Thomas, các thần học gia đã nghiêng hẳn về khuynh hướng truyền thống mầu nhiệm. Việc chú giải bộ Summa của các thần học gia dòng Ða-Minh như Cajetan, Cano, Soto, và của dòng Tên như Salmeron, Suarez, và De Lugo đã tiếp tục truyền thống này.
Những tiên tri đặc biệt sau này đã minh chứng sự tiếp tục của ơn tiên tri trong giáo hội, như các thánh Catherine of Siena, Teresa of Avila, Margaret Mary, Catherine LaBouré...
Thời cận đại, đôi khi giáo hội vẫn phải bảo vệ cá tính, giáo điều và sự ưu việt của mạc khải trước những tấn công của phe theo chủ nghĩa tân thời (Modernism.) Những nghiên cứu của các nhà thần học Y. M. Congar, K. Rahner, C. Journet... đã đề cao vai trò tiên tri của Chúa Kitô trong hội thánh. Hiến chế tín lý về giáo hội (Lumen Gentium) của Công Ðồng Vatican II đã trình bày cách rộng rãi về bản chất của tiên tri (12, 35 Acts 57 (1965) 16-17, 40-41.) Theo hiến chế nói trên, mọi thành phần dân Chúa đều được chia sẻ thiên chức tiên tri của Chúa Kitô qua việc họ được Chúa Thánh Linh xức dầu (1Jn. 2:20, 27)
Hàng giáo phẩm tiếp tục thiên chức tiên tri của Chúa Kitô qua việc giảng dạy nhân danh Ngài và bằng quyền bính của Ngài. Hơn nữa, việc biện giải về cá tính nguyên tuyền và việc cẩn thận xử dụng ơn riêng này thuộc về hàng giáo phẩm. Các ngài không dập tắt Thánh Linh nhưng thử nghiệm tất cả và gìn giữ những gì là chân thật và tốt lành. Thiên chức tiên tri của các tín hữu là nên nhân chứng một cách xã hội (Eph. 6:12.) Ðời sống và lời chứng của họ, đặc biệt trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, mang một sức mạnh đặc biệt cho cuộc đời bình thường xung quanh họ. Do mục đích này, Chúa đã ban cho họ ơn hiểu biết đức tin (sensus fidei) và sự hấp dẫn trong lời nói (Acts 2:17-18.) Vì vậy, họ phải hợp tác trong việc truyền bá bên ngoài và sự tăng trưởng mạnh mẽ của giáo hội. Ðể hoàn thành sứ mệnh này, người tín hữu giáo dân nên cố gắng nhận lãnh cách hoàn hảo chân lý mạc khải và năng cầu nguyện để xin được ơn khôn ngoan.
Tiên tri trong cộng đồng giáo hữu và hàng giáo phẩm
Như đã trình bày, ơn tiên tri được chia sẻ bởi mọi thành phần dân Chúa, giáo dân cũng như giáo sĩ. Về những việc tiên tri cá nhân, sự linh ứng (inspiration) và mạc khải (revelation) của Chúa, dù là tư (private) hay công (public) vẫn theo chiều hướng cộng đồng hay giáo hội. Người ta không dễ dàng lượng định được tầm ảnh hưởng của lời tiên tri, qua việc linh ứng và mạc khải phổ quát hơn, trên cộng đồng dân Chúa. Những tiên tri hay ngôn sứ được hưởng ở mức độ nào đó tư cách phát ngôn nhân đại diện sự hiểu biết và thái độ chung hoặc nhu cầu của dân Chúa.
Trách nhiệm của hàng giáo phẩm là bảo vệ đức tin và biện giải Thánh Linh tiên tri. Trong khi hàng giáo phẩm được ơn biện giải, nhưng các ngài không được dập tắt Thánh Linh. Ðó là một bổn phận, chứ không phải là một sự khiêm nhường, khi hàng giáo phẩm lắng nghe những lời đề nghị của dân Chúa một khi điều đó không đi ngược với Thánh Linh. Giáo hội vừa là một ân thiêng vừa là một tổ chức (Eph. 2:20), đi quá trớn về bất cứ bên nào đều làm lệch lạc bản chất của giáo hội. Phải hiểu rằng Thánh Linh tiên tri cần thiết trong việc tự biểu lộ cách hòa hợp với cả hàng giáo phẩm và cộng đồng.
Trước sự kiện một người tự nhận là tiên tri hay ngôn sứ (thường là mạc khải tư), vị bề trên trực tiếp của đương sự bắt buộc phải mở cuộc điều tra. Trong trường hợp tìm thấy sự kiện tiên tri đó là có thật, do chính vị giám mục bản quyền công bố, giáo hội đã không dùng quyền bất khả ngộ (infallibility), nhưng tự nhận rằng một mạc khải như vậy xứng đáng với đức tin của con người. Vì mạc khải tư thiếu ơn quan phòng an toàn của mạc khải công, vị ngôn sứ thường không biểu lộ hết được kinh nghiệm ơn sủng (grace-experience.) Ngay cả các thánh và á thánh, đôi khi cũng đã truyền đạt những sự kiện sai lầm về thần học hay lịch sử (K. Rahner, Visions and Prophetics, trang 64-65.) Vì vậy, người có bổn phận điều tra sự kiện, do vị giám mục bản quyền chỉ định, phải là người thông hiểu về tiên tri. Các việc tiên tri thật đều không phải là: (1) ảo thuật, (2) bán tâm lý (parapsychological), (3) ảnh hưởng bởi chính quyền, (4) truyền đạt những lời tiên tri tạo hoẹt, không liên hệ tới mạc khải. Những tiên tri siêu nhiên không biểu dương điều gì mới lạ, đi ra ngoài giáo huấn của Kinh Thánh, nhưng chỉ có Chúa là Thiên Chúa của lịch sử. Sự thật của việc tiên tri còn hệ tại ở cá nhân vị ngôn sứ như đời sống đạo đức, tư cách cá nhân, và tình trạng sức khỏe về tâm thần cũng như thể chất.
Nếu cuộc điều tra cho thấy sự kiện tiên tri là có thật, vị bề trên bản quyền bắt buộc phải yểm trợ vị ngôn sứ, cho dù điều đó đi ngược với ước muốn riêng của mình. Một lần nữa, hàng giáo phẩm có bổn phận phải gìn giữ đức tin, nhưng, ở mặt khác, các ngài cũng không được dập tắt Thánh Linh.