SAIGÒN - Hằng năm, vào ngày Chúa nhật thứ nhất hoặc thứ hai của năm mới âm lịch, người làng Bùi Chu thường tổ chức họp mặt đồng hương ở Hoa Kỳ, Biên Hòa (Đồng Nai) và Sài Gòn, như một lời hẹn của những người có cùng dòng họ.

Xem hình ảnh

Năm nay, Ban Đại Diện đồng hương Bùi Chu miền Sài Gòn tổ chức thánh lễ cầu cho tiên nhân vào sáng Chúa nhật, ngày 13/2/2011 tại giáo xứ Bùi Phát, Sài Gòn.

Nhân dịp này, xin được trích từ quyển “Hệ phả làng Bùi Chu” của ông Đỗ Văn Ban biên soạn, phát hành năm 2005, về quá trình hình thành làng Bùi Chu và nguồn gốc của họ ĐỖ và họ VŨ.

Hình thành làng Bùi Chu

Theo dòng chảycủa sông Hồng đến Mom Rô (Hành Thiện), sông lớn tách ra sông nhỏ, chảy uốn khúc quanh về miền quê, mà theo tục truyền: cách đây khoảng 800 năm, tức là vào thế kỷ XII-XIII, tại khu đất bồi hoang vắng bên tả ngạn sông Ninh Cơ, thuộc vùng đất Tả Thanh, có hai chi họ đến đây tìm kế sinh nhai mang họ Đỗ và họ Vũ. Các vị này thấy vùng đất đầy phù sa màu mỡ nên hai chi họ kết thân, cùng giúp đỡ nhau khẩn hoang, cày cấy để sinh sống và chuẩn bị cuộc sống lâu dài cho con cháu tại đây.

Kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, vua Lê thực hành chính sách “vừa cày ruộng, vừa đánh giặc”, chăm lo việc mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế, nên đê ở hai bờ sông Ninh Cơ ngày càng được đắp thêm cao, vững chắc.

Theo sử liệu, làng Bùi Chu có từ thời Lý – Trần cùng với các làng ở phía Bắc như Hành Cung (Hành Thiện), Kiên Lao, Trà Lũ (Phú Nhai)…

Họ Đỗ và họ Vũ

Theo “Cổ Lôi Ngọc Phả truyền thư” và “Bách Việt tộc phả”, họ Đỗ có từ trước Công nguyên, xếp vào hàng thứ 10, là họ có số đông dân ở nước ta (trong 191 họ).

Phát tích sinh tụ họ Đỗ cùng với thời phát tích sinh tụ người Việt Cổ, địa bàn là ở vùng Hà Tây hiện nay, tập trung nhiều ở chân núi Ba Vì và từ chân núi trải dài về phía đông nam. Dải đất này hình thành đầu tiên châu thổ sông Hồng của nước ta.Thủy tổ được phát sinh tính từ cụ bà Đỗ Quí Thị và 8 người anh em trai: Đỗ Xương (hiệu là Thánh Trừ), Đỗ Tiêu (Tích Độc), Đỗ Kỳ (Hoàng Tùy), Đỗ Cương (Bạch Tịnh), Đỗ Chương (Xích Thanh), Đỗ Dũng (Đinh Trừ), Đỗ Bích (Từ Hiền) và Đỗ Trọng (Đại Thần). Những vị này được táng ờ gò Thiềm Thứ, vùng Bá La, thị xã Hà Đông. Đến nay, miếu thờ các vị này bằng bia đá vẫn còn đứng bên bờ sông Nhuệ, làng Cự Đà, Cự Khê, Thanh Oai, tỉnh Hà Tây; trên bia đá có bốn câu chữ Hán:

Phương phần bảo vật – vạn cổ nghiễm nhiên
Chỉ hạng lưu hương - thiên thu thường tại

được dịch là:
Lối cũ dấu thơm – nghìn xưa vẫn đó
Cây to báu vật – muôn thuở còn đây

Từ nơi họ Đỗ phát tích, nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay trên nhiều vùng khác nhau của đất Việt và bằng nhiều hình thức khác nhau đã tích cực xây dựng cho quê hương, đất nước.

Họ Vũ – Võ là một trong những dòng họ lớn của dân tộc Việt; là dòng họ có chung một thủy tổ là Vũ Hồn, vốn là một danh nhân nhà Đường, sang Việt Nam dựng nghiệp từ năm 825 sau Công Nguyên. Chi nhánh họ Vũ trên đất Bắc di chuyển vào đất phương Nam đã chuyển là Võ do phải kiêng tên Chúa Nguyễn là Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Dòng họ Võ đầu tiên đặt chân vào lục tỉnh Nam Kỳ chính là phò mã Hoài Quốc Công Võ Tánh, danh tướng của Gia Long. Trong chữ Hán, Vũ – Võ đều là một. Sau khi cụ Vũ Hồn mất (853), gia phả dòng họ Vũ bị thất tán trong thời gian 373 năm. Cho đến đời Trần (1226) mới chính thức nối lại gia phả từ Viễn Tổ Đông Giang hầu Tả tướng quân Vũ Nạp (tức Vũ Vị Phủ), là người tiến sĩ đầu tiên của dòng họ ở Mộ Trạch, có tên trong những danh nhân khoa bảng đầu tiên của nước Việt Nam. Từ đấy, họ chia làm năm chi: Tiền ngũ chi và Bát phái. Sau đời thứ 9, từ cụ Vũ Quốc Sỹ đến đời thứ 10 lại chia tiếp thành Hậu ngũ chi và phân nhánh cho đến nay đã được 775 năm…

Từ đất sáng lập là thôn Khả Mộ, họ Vũ như vết dầu loang có mặt ở khắp đất Việt với gần 100 chi họ Vũ. Từ xa xưa đến những năm 50 của thế kỷ XX, dân cư của làng Bùi Chu chỉ có hai họ Đỗ, Vũ mà không có họ nào sống chen vào phạm vi điền thổ của làng. Những trai tráng nơi khác đến lấy con gái làng Bùi Chu làm vợ, muốn ở lại sinh sống, phải được sự đồng thuận của các vị Hương chức đạo- đời, đồng thời phải bỏ họ cũ của mình mà chọn họ Đỗ hoặc họ Vũ theo tục lệ của làng. Những người được nuôi dưỡng trong nhà mồ côi ở làng, khi trưởng thành cũng nhận một trong hai họ trên làm họ của mình dù có đi nơi khác, sống độc thân hay ở lại phục vụ các cơ sở tôn giáo, xã hội cũng vậy.

Việc nhận họ cũng theo thời, người xin nhập làng gặp lúc vị Lý trưởng hoặc người đỡ đầu mang họ nào thì phải nhận họ đó (Đỗ hoặc Vũ). Khi đã nhận họ nhập làng rồi thì người này chính thức là dân làng Bùi Chu, từ đó trách nhiệm đồng chia, quyền lợi đồng hưởng.

Tục lệ hiếm có này của làng Bùi Chu đã nhiều người, nhiều nơi biết đến. Đức cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám mục địa phận Bùi Chu (1936-1948) đã ở cùng và linh hướng cho dân làng nhiều năm, thấy phong tục tốt đẹp này gắn liền với tình đoàn kết yêu thương nhau nên đã tặng hai câu thơ vui cho dân làng:

“Thứ nhất thì có Thiên Đàng
Thứ nhì lịch sử có làng Bùi Chu”


Truyền thống họp mặt, dâng thánh lễ cầu nguyện cho ông bà tổ tiên hằng năm của đồng hương Bùi Chu như một lời hẹn truyền thống tốt đẹp của hai họ Đỗ và Vũ.