HẠNH PHÚC

của

LINH MỤC



Em thân mến,

Trong những năm tháng dài giúp xứ cho cha Bố của anh (13 năm), anh chưa hề thấy ngài nổi giận với một giáo dân nào cả, ngay cả khi chuyện giáo dân muốn tranh đoạt đất của nhà thờ và dùng những lời lẽ xấc xược để chửi ngài, thì ngài cũng chỉ mĩm cười cho đó là chuyện không đáng gì, hoặc khi giáo dân vì quyền lợi của cá nhân mà chia bè chia nhóm, thì cha Bố của anh cũng mĩm cười “hề hề” như không có chuyện gì xảy ra, thế nhưng cách giải quyết hay nhất của ngài là đề cao vai trò giáo dân trong giáo xứ, đề cử những giáo dân có khả năng vào làm việc trong nhà thờ giáo xứ, thế là chuyện bè nhóm không còn nữa, mà tất cả chỉ có một mục đích duy nhất là vì Chúa, vì giáo xứ mà làm việc.

Anh vẫn còn nhớ cứ mỗi lần giáo dân mời cha Bố của anh đến nhà họ dùng cơm vào những ngày lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh hoặc là ngày đặc biệt của họ như bổn mạng, kỷ niệm ngày hôn phối, thì ngài luôn tới sớm và đem theo khi thì chai nước coca cola lớn, khi thì chai rượu, khi thì món quà.v.v…và ngài đi thẳng xuống nhà bếp, chào thăm và cám ơn những người nấu ăn rồi trao quà cho họ, sau đó mới lên phòng khách trò chuyện với mọi người. Cử chỉ đó làm cho mọi người thấy được lòng nhân hậu của người cha chung trong giáo xứ của mình, và anh cũng ghi nhớ trong lòng mình và tự nhủ, nếu sau này làm linh mục thì phải noi gương này của Bố. Và bây giờ anh cảm thấy hạnh phúc thật sự khi cầm một chai nước ngọt hoặc chai rượu đi xuống thẳng nhà bếp, để cám ơn chủ nhà đã mời mình và những người đã nấu cho mình bữa ăn ngon, trước khi trò chuyện với khách cùng được mời.

Hạnh phúc của linh mục chính là cám ơn và chúc phúc lành cho mọi người, cha Bố đã dạy anh điều đó khi ngài từng ngày thực hiện và làm gương –không những cho anh, mà còn cho mọi người nữa- khi anh còn là một chủng sinh ở bên cạnh cha Bố để tập tành giúp xứ.

Giờ đây, trong những ngày cuối “Năm Linh Mục” này, anh lại đem kinh nghiệm ấy để chia sẻ với em và những người muốn đi tu làm linh mục, để hy vọng em sẽ thấy đời sống linh mục là một hạnh phúc thật sự, chứ không giả tạo như một vài người nói. Anh cũng hy vọng em –sau khi cầu nguyện và quyết định đi tu- cũng sẽ là người hạnh phúc thật sự khi đang học trong chủng viện hay dòng tu, hoặc đang chuẩn bị chịu chức linh mục trong “Năm Linh Mục” này.

Xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn chúc lành cho em, và cũng nhớ cầu nguyện cho anh.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

---------------------------------------------------


HẠNH PHÚC CỦA LINH MỤC



Linh mục là người hạnh phúc nhất trong con cái loài người, nhưng cũng là người vô phúc nhất nếu các ngài không sống như lòng Chúa mong muốn, mà lòng Chúa mong muốn nơi các linh mục của Ngài là trở nên mục tử hiền hậu, mục tử yêu thương, mục tử phục vụ và chu toàn bổn phận thánh của mình trong cuộc sống hằng ngày.

Linh mục là người hạnh phúc nhất là bởi vì các ngài được Thiên Chúa tuyển chọn giữa con cái loài người, là con cóc xấu xí được chọn giữa bầy sư tử kiêu hùng, là con chim sẻ nhỏ được chọn giữa bầy phượng hoàng đẹp đẽ cao sang, do đó mà nói linh mục là người hạnh phúc nhất cũng không phải là lời nói điêu ngoa, mà là sự thật trăm phần trăm.

Không một ai nói linh mục là người bất hạnh cả, chỉ có những linh mục tự mình tách khỏi Giáo Hội, tách khỏi tình yêu của Thiên Chúa, sống trong tội lỗi mới là người bất hạnh nhất mà thôi, bởi vì “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan”, danh vọng thì đi liền với chức vụ, mà thiên chức linh mục càng đưa người linh mục lên cao trong danh vọng, tức là đưa các ngài lên cao tới tận cửa thiên đàng, nhưng nếu các ngài không trở nên chim phượng hoàng bay cao, thì sẽ trở nên con cóc xấu xí suôt đời lầm lũi trên mặt đất, trở thành nỗi buồn cho Giáo Hội, cho giáo dân, cho những người đặt tất cả hy vọng vào linh mục.

Hạnh phúc của linh mục được ví như đôi cánh mạnh mẻ của chim đại bàng, khi bay vút lên cao tận trời xanh, đó là đôi cánh cám ơn và chúc phúc.

Thật vậy, hạnh phúc chỉ có được khi chúng ta –linh mục- biết cám ơn mỗi giây phút trong cuộc sống, hạnh phúc chỉ có được khi chúng ta biết dùng bàn tay đã được xức dầu thánh hiến của mình để chúc phúc cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ, yếu đuối và cô đơn bất hạnh. Cuộc sống đầy cám ơn và hạnh phúc làm cho cuộc sống của người linh mục thêm phong phú và ý nghĩa hơn, thêm thi vị và dồi dào tình Chúa tình người hơn trong cuộc sống của mình và cho tha nhân.

CHIM ĐẠI BÀNG: CÁNH CÁM ƠN

a. Cám ơn Thiên Chúa.

Thánh Phao-lô tông đồ sau khi giải thích ý nghĩa của lý do việc bãi bỏ lề luật cũ giữa chức tư tế Lê-vi theo phẩm trật A-a-ron cha truyền con nối (Dt 7, 15-16), và đề cao chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê không cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt, như lời chứng nhận: “Con là thượng tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê” (Dt 7, 16-17), tuy rằng câu nói này chỉ về Chúa Giê-su là Đấng Thượng Tế đời đời, nhưng chức thượng tế này đã được Ngài trao cho các môn đệ của mình trong bữa ăn tối lễ Vượt Qua trước khi chịu nạn, Ngài cầm lấy bánh chúc tụng và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19-20).

Được tuyển chọn làm linh mục của Chúa Giê-su, tức là trở thành thượng tế đời đời theo phẩm hàm Men-ki-sê-đê, người linh mục phải là người hạnh phúc hơn tất cả mọi người, bởi vì chính các ngài đã là nguồn hạnh phúc cho mọi người, khi đưa tay chúc lành của Thiên Chúa trên đoàn dân của Ngài.

Hình tượng chim đại bàng bay vút lên trời cao với đôi cánh mạnh mẻ dang rộng giữa bầu trời, là hình ảnh người linh mục của Chúa Giê-su, đôi tay của các ngài được xức dầu và thánh hiến nên trở nên có thần lực của ân sủng, đưa các ngài bay vút lên cao trong đời sống thánh thiện đầy ân sủng của Thiên Chúa, chính đôi tay đã được xức dầu thánh hiến này sẽ cầm lấy Bánh Thánh tinh tuyền là Chúa Giê-su, và nâng cao cho mọi người thờ lạy sau khi truyền phép bánh miến và rượu nho trở thành Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su, do đó mà sự cám ơn của linh mục đối với Thiên Chúa thì vô cùng tận, bởi vì từ trong đống bùn nhơ Ngài đã chọn các ngài.

Thật vậy, chim đại bàng sẽ không thể bay vút lên trời cao nếu không có đôi cánh rộng và mạnh mẻ, nó cũng sẽ không thể vỗ cánh tung bay giữa trời cao lộng gió, nếu không có một sức mạnh kinh hồn từ trong mình nó. Cũng vậy, người linh mục của Chúa Giê-su cũng sẽ không thể trở thành người bảo vệ đức tin cho các giáo hữu, nếu các ngài không có đôi tay thánh hiến, miệng lưỡi khôn ngoan, hành vi thoát tục, để không những bảo vệ mà còn hướng dẫn đoàn chiên đi theo đường lối của Thiên Chúa chỉ dạy qua Hội Thánh của Ngài.

Cho nên, cám ơn Thiên Chúa là việc phải làm từng giây phút trong cuộc sống của người linh mục, bởi vì chính linh mục là người lãnh nhận quá nhiều hồng ân của Chúa hơn bất cứ người nào trên thế gian này, do đó mà thánh Gioan Maria Vianney linh mục đã nói: linh mục là Chúa Giê-su thứ hai (alter Christus), bởi vì chính ngài đã sống và đã cảm nghiệm được những ơn lành mà Chúa ban cho ngài qua thiên chức linh mục, cho nên phải biết cám ơn mỗi giây mỗi phút trong cuộc sống của mình, cám ơn Thiên Chúa đã chọn mình vào hàng công hầu khanh tướng của Ngài, không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và phục vụ chính là niềm hạnh phúc của người linh mục Chúa Giê-su, như chính Ngài đã đến để phục vụ chứ không phải đến để được người khác phục vụ.

b. Cám ơn mọi người.

“Cánh cám ơn” không chỉ dừng lại ở việc cám ơn Thiên Chúa, vì những ơn lành đặc biệt của Ngài đã ban cho người linh mục mà thôi, nhưng “cánh cám ơn” này đặc biệt phải được tỏ hiện với những người hảo tâm bằng vật chất hay bằng lời cầu nguyện, đã giúp đỡ mình trên con đường tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Nếu người linh mục không biết cám ơn những người đã làm ơn cho mình, thì chính các ngài sẽ không xứng đáng đón nhận những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho, bởi vì chính các linh mục hiểu rõ hơn ai hết, lòng biết ơn và cám ơn chính là điều căn bản tạo nên nhân cách trưởng thành của bản thân mình, và nguy hiểm hơn là: các linh mục sẽ không tìm được hạnh phúc trong đời sống linh mục và phục vụ của mình, nếu các ngài sống vô ơn với chính những người đã từng nâng đỡ mình trong hành trình đời tu đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa.

Từ ngày bước chân vào chủng viện, dòng tu, các linh mục tương lai đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của gia đình, bà con, bè bạn và giáo dân, họ, cách này hay cách khác, dùng tiền bạc vật chất hoặc lời cầu nguyện của mình để giúp sức, nâng đỡ các linh mục tương lai, những giúp đỡ ấy bao gồm cho Giáo Hội địa phương nói chung và cho các linh mục tương lai nói riêng.

Không một chủng sinh nào, không một linh mục nào có thể phủ nhận vai trò của giáo dân trong quá trình tu trì theo ơn gọi của mình, sự quảng đại và lòng yêu mến của giáo dân đối với Giáo Hội và đối với các linh mục thật to lớn, và với đức tin sâu sắc, họ -các giáo dân- không mong các linh mục đền đáp, nhưng sự đền đáp cao quý nhất mà các linh mục sẽ làm để cám ơn họ, đó chính là các linh mục sống trở thành những mục tử chân chính, những mục tử hiền lành thánh thiện như lòng Chúa mong muốn, và khi các linh mục đã sống đúng như thế thì các ngài đã bày tỏ lòng cám ơn của mình đối với họ rồi vậy.

Thật vậy, lòng biết ơn được tỏ hiện qua thái độ và hành động của người chịu ơn, đó chính là hai tiếng cám ơn ngắn ngủi, nhưng bao hàm cả một tấm lòng khiêm tốn và yêu thương của các linh mục đối với Thiên Chúa, Giáo Hội và giáo dân, chính “cánh cám ơn” này đã sinh ra rất nhiều những linh mục tương lai khác cho Giáo Hội...

Hạnh phúc của đời linh mục không chỉ là thành công trong công tác mục vụ, không chỉ là có những bài giảng hùng hồn thu hút nhiều người, nhưng chính là có tấm lòng biết ơn và cám ơn, được thể hiện qua cung cách sống khiêm tốn của các linh mục.

Có những linh mục giảng rất hùng hồn trên tòa giảng, nhưng ngài không hề đụng đến bốn chữ “uống nước nhớ nguồn” hoặc nói đến hai chữ “cám ơn”, bởi vì chính các ngài khi đã trở thành linh mục rồi thì không còn nhớ đến ai cả, chỉ nhớ đến bản thân mình và gia đình mình mà thôi, làm thế nào để xây được căn nhà cho cha mẹ, làm thế nào để có tiền mua xe đời mới cho “phù hợp” với chức linh mục của mình, để rồi các ngài trở thành ông chủ của giáo xứ, hạch họe những giáo dân chân lấm tay bùn đến gặp ngài để xin làm phép chuẩn hôn phối cho con mình, hoặc đến gặp ngài để xin giải tội.v.v...

Lòng cám ơn được thể hiện cách chân thành là ở đó, tiếp đón niềm nở các giáo dân đến với mình, vì chính họ -tuy là không có vật chất để giúp đỡ các linh mục tương lai- nhưng bằng lời cầu nguyện và những hy sinh của họ, thì hôm nay chúng ta –các linh mục- mới trở thành những mục tử của Chúa.

Hạnh phúc của linh mục là ở đó, và hạnh phúc của giáo dân cũng ở đó, họ rất hạnh phúc khi thấy, khi nghe các các linh mục của mình sống thánh thiện và nhiệt thành với bổn phận mục tử của mình.

CHIM ĐẠI BÀNG: CÁNH CHÚC PHÚC

Biết ơn người đã ban ơn cho mình, đó chính là căn bản của đạo làm người, bởi vì con người có một quả tim bằng thịt biết yêu thương và biết nhớ ơn, như lời thánh Phao-lô tông đồ đã nhắn nhủ với giáo dân của giáo đoàn Cô-rin-tô: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su” (1Cr 1, 4).

Nhưng chỉ có “cánh cám ơn” mà thôi thì chưa trọn vẹn, cần phải có thêm “cánh chúc phúc” nữa thì hạnh phúc của linh mục mới được trọn vẹn.

Trong thánh lễ thụ phong linh mục, đức giám mục đã dùng dầu thánh xức đầy tràn trên hai bàn tay của tiến chức và nói: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng mà Chúa Cha đã xức dầu bằng sức mạnh và Chúa Thánh Thần, gìn giữ con để thánh hóa giáo dân và hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa“. Thánh hóa giáo dân chính là linh mục dùng đôi bàn tay của mình, để chúc phúc lành của Thiên Chúa trên những giáo dân của mình.

“Gìn giữ con để thánh hóa giáo dân...”

Chúc phúc là thay mặt Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi tuôn đổ ơn lành của Ngài xuống trên người nhận, đó chính là chúc phúc và ban phúc lành cho giáo dân của mình. Linh mục là người được Chúa chúc phúc, và do đó mà linh mục phải đem phúc lành của Chúa đi chúc phúc cho người khác. Ai là người nhận được nhiều ơn lộc bởi trời và bởi những con người, đó không phải là những linh mục sao ? Chính các ngài chứ không ai khác, và có thể nói trên trần gian này không ai nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa và sự yêu thương của con người cho bằng các linh mục của Giáo Hội Công Giáo, do đó mà chính các linh mục phải đem những ơn lành này chia sẻ với mọi người, nhất là với những người bất hạnh trong xã hội.

Đôi bàn tay được xức dầu thánh hiến, trước hết là để thánh hóa con, tức là thánh hóa bản thân của người linh mục, để ngài trở thành một công cụ chúc phúc lành của Chúa trên đoàn dân của Ngài là những người Ki-tô hữu.

Phải thánh hóa mình trước rồi mới đến thánh hóa tha nhân, như lời của Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 31-32). Sự yếu đuối của người linh mục được Chúa Giê-su tiên liệu, nên Ngài đã nhắc nhở cho thánh Phê-rô biết, để khi nhìn thấy anh chị em sa ngã thì nâng đỡ giúp họ đứng lên, vì đó chính là kinh nghiệm của ngài, kinh nghiệm đó chính là biết thống hối sau khi phạm tội, biết đứng lên sau khi sa ngã, và quan trọng hơn, thánh thiêng hơn chính là biết mình đã phản bội tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Chúa Giê-su chỉ nhìn thánh Phê-rô một lần với ánh mắt buồn sầu, mà suốt đời ngài bị dằn vặt. Kinh nghiệm của thánh Phê-rô cũng chính là kinh nghiệm của các linh mục ngày hôm nay vậy.

Để mình thật sự trở thành con người hạnh phúc, thì linh mục phải trở thành người tôi tớ phục vụ tha nhân, trở thành người luôn chúc lành chứ không chúc dữ (chửi rủa, khinh bỉ, cao ngạo...), là người ban ơn lành của Chúa chứ không nhận sự bảo trợ ấm no của người đời, do đó mà các linh mục của Chúa cần phải thánh hóa mình trước sau đó mới đi thánh hóa người khác, cần phải sửa đổi cuộc sống của mình trước rồi dạy dỗ người khác sau, bởi vì khi trong tâm hồn không có sự bình an thì không thể chúc lành hoặc thánh hóa ai cả.

Thật vậy, đôi bàn tay đã được thánh hóa bằng việc xức dầu thánh của linh mục, đã làm cho các ngài trở thành Alter Christus –Chúa Ki-tô thứ hai- để trở thành những người ban phát ơn lành của Thiên Chúa cho nhân loại.

“Hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa”

Đôi tay của linh mục đã được xức dầu thánh hiến là để thánh hóa giáo dân và “hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa”, do đó mà ngoài linh mục ra, thì không một người nào trên trần gian này được cầm lấy bánh và rượu để hiến tế đọc lời truyền phép, để cho bánh rượu ấy được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa Giê-su, bởi vì sẽ không có linh mục thì sẽ không có Chúa Giê-su trên bàn thờ, và dĩ nhiên là không có của lễ hiến tế dâng lên Thiên Chúa.

Chúc phúc là dùng đôi bàn tay của mình đặt trên đầu của người được chúc phúc, đó là việc làm phổ thông của mọi người, nhưng đối với các linh mục, chúc phúc chính là dùng bàn tay đã được xức dầu thánh của mình, vẽ hình Thánh Giá trên người được chúc phúc nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi: “Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị em”.

Hiến dâng tế lễ lên Thiên Chúa, trước hết người linh mục phải hiến dâng toàn vẹn cuộc sống con người của mình cho Thiên Chúa, đó chính là những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống của mình, bởi vì một khi chưa cảm nghiệm được thế nào là hiến tế đời mình cho Thiên Chúa, thì người linh mục sẽ trở thành một công cụ vô hồn khi cử hành thánh lễ, hoặc khi chúc lành cho giáo dân của mình.

“Cánh chúc phúc” là đem người linh mục bay thẳng vào cung lòng yêu thương của Thiên Chúa, bởi vì ai ở trong tâm khảm của yêu thương, thì mới cảm nhận được tình yêu thương cao quý và cần thiết như thế nào. Chúc phúc không chỉ là đưa tay lên ban phép lành hay đặt tay trên đầu, nhưng còn là lôi kéo ơn Chúa xuống trên giáo dân, trên người được chúc lành, như lời Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ: “Vào nhà nào anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10, 12), chúc bình an chính là chúc phúc lành của Thiên Chúa cho họ, nhà nào người nào cũng cần đến đôi bàn tay của linh mục chúc phúc, chứ không chỉ có một vài người thân thiết ưu tiên, nhưng ưu tiên nhất chính là những người bất hạnh, đau khổ và bị người khác khinh rẻ. Do đó mà người giáo dân luôn kính trọng các linh mục bởi vì họ biết rằng, mọi ơn sủng của Thiên Chúa đều qua bàn tay của linh mục khi ngài cử hành hy tế Tạ Ơn (thánh lễ) và các bí tích thánh, và ngay trong cuộc sống đời thường, các ngài cũng đều có thể nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi chúc lành cho mọi người.

“Cánh chúc phúc” cũng chính là sự hiệp thông giữa con người linh mục với Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì khi tách lìa khỏi Thiên Chúa thì người linh mục sẽ là công cụ của ma quỷ, và trở thành đối đầu với ân sủng; bởi vì khi tách lìa khỏi Thiên Chúa thì người linh mục sẽ là một cái xác vô hồn, lạnh ngắt yêu thương, cứng đờ con tim, vô cảm trước những đau khổ của người khác, nhất là đau khổ của những giáo dân trong giáo xứ của mình, khi họ không thấy sự cảm thông và chúc lành của cha sở, mà chỉ thấy ngài chỉ biết dâng thánh lễ và nhận tiền lễ, chứ không thấy ngài tổ chức các đoàn thể sinh hoạt.

Qua sinh hoạt đoàn thể trong giáo xứ, người giáo dân mới nhận ra được ai là mục tử hết mình vì đàn chiên của mình, và ai là chủ nhân ông chỉ biết ra lệnh và hưởng thụ như người làm công, bởi vì chỉ là người làm công nên đàn chiên sợ hãi không dám đến gần chủ chiên, bởi vì chỉ là người làm công nên các ngài không lo cho việc nhà xứ được phát triển, mà chỉ lo cho bản thân mình no ấm là được rồi, thế là giáo dân không thấy ngài đưa tay ra bắt tay thăm hỏi giáo dân, vì thánh lễ vừa chấm dứt là ngài cũng biến luôn, có khi giáo dân không biết ngài đi đâu.

Linh mục là người hạnh phúc nhất, vì ngài được quyền tế lễ Thiên Chúa qua việc Truyền Phép bánh miến và rượu nho, để bánh miến và rượu nho ấy trở nên Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su, bởi vì các ngài được thông phần vào chức tư tế đời đời của Chúa Giê-su qua sự đặt tay của đức giám mục, cho nên, giáo dân rất mong muốn được linh mục chúc phúc lành của Chúa Giê-su cho họ, hạnh phúc của giáo dân cũng chính là hạnh phúc của linh mục vậy.

***

Hạnh phúc của linh mục chỉ đạt được khi các ngài thực sự hiểu được căn tính linh mục của mình, căn tính này được phát xuất từ Chúa Giê-su Ki-tô linh mục đời đời, căn tính đó chính là yêu thương và phục vụ, bởi vì chính Chúa Giê-su đã làm như thế khi Ngài công khai rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và đặc biệt trước khi vào bàn ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của mình, Chúa Giê-su sau khi đã rửa chân cho các môn đệ thì nói với các ông rằng: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà con rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15), đó chính là mẫu gương phục vụ của Chúa Giê-su với các môn đệ của mình.

Và trong bối cảnh tiệc Vượt Qua ấy, sau khi rửa chân xong, Chúa Giê-su đã ban cho các môn đệ giới luật mới, đó là luật yêu thương, Ngài nói:

“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết

anh em là môn đệ của Thầy:

là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).


Do đó mà chúng ta hiểu ra rằng, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giê-su đã có hành động rửa chân cho các môn đệ và ban giới luật yêu thương cho các ông, bởi vì yêu thương chính là chúc lành và phục vụ chính là cám ơn.

Yêu thương và phục vụ quan trọng trong đời sống tu đức của linh mục như thế nào, thì sự chúc lành và nói lời cám ơn, cũng quan trọng không kém trong cuộc sống đời thường của các ngài như thế, nó không thể tách rời khỏi linh mục bất cứ trong hoàn cảnh nào, bởi vì đó chính là hai nét căn bản làm nên đời sống tu đức của người linh mục.

KẾT



Đôi cánh “cám ơn và chúc phúc” là nhân tố chính đã làm nên hạnh phúc của người linh mục, tuy nhiên nếu chỉ có đôi cánh mà thôi, thì chim đại bàng sẽ không sãi cánh bay lượn trên không trung cách tự tại được, mà cần phải có sức khỏe, có lông cánh dài và có bầu trời rộng mênh mông. Cũng vậy, muốn hạnh phúc của linh mục được nên thêm màu tươi sắc thì cần phải có ba cái “tốt đẹp” sau:

1. Giữ lòng tốt đẹp.

2. Nói lời tốt đẹp.

3. Làm chuyện tốt đẹp.


Ba việc “tốt đẹp” cần làm trên đây, có lẽ không những các linh mục của chúng ta mà thôi, nhưng có một vài nơi người ta cũng khuyến khích mọi người nên làm như vậy, để cuộc sống giữa con người với nhau thêm thoải mái hạnh phúc.

1. Giữ lòng tốt đẹp.

Không một linh mục nào giữ trong lòng mình một tấm lòng xấu xa, nhưng các ngài luôn giữ một tâm hồn tốt lành thánh thiện, bởi vì công việc của linh mục chính là cứu sống và chúc lành, nếu không giữ cho mình một tấm lòng tốt đẹp, thì cuộc sống của các ngài chỉ là một gánh nặng cho Giáo Hội, là người làm thuê và là một tảng đá lớn cản đường giáo dân đến với Chúa mà thôi.

Giữ lòng tốt đẹp là chứa đựng những ý tưởng tốt và thánh thiện trong tâm hồn của mình, bởi vì khi một con người luôn giữ những điều tốt lành trong tâm của mình, thì cuộc sống của họ chắc chắn sẽ đầy hạnh phúc và tất cả những ai tiếp xúc với họ thì đều cảm thấy một niềm vui vẻ và hạnh phúc.

Linh mục là người ngập tràn tình yêu của Chúa Giê-su, cho nên tâm hồn của các ngài cũng luôn chan chứa những ý tưởng tốt lành thánh thiện, để:

- Qua bí tích Giải Tội, các ngài có những lời khuyên bảo thánh thiện cho các hối nhân.

- Qua bí tích Thánh Thể, các ngài đọc lời truyền phép cách trang trọng, thánh thiêng, chứ không đọc qua loa như đọc cho xong chuyện.

- Qua bài giảng (sau Phúc Âm), các ngài đem những tư tưởng thánh thiện sau khi đã suy tư cầu nguyện của mình để truyền đạt cho giáo dân, để giáo dân cũng cảm nghiệm được tình yêu và sức sống của ơn thánh Chúa.

- Qua cuộc sống thường ngày, các ngài đem những tư tưởng thánh thiện tốt lành chia sẻ với giáo dân, hoặc với người khác...


Một người luôn giữ những điều tốt đẹp trong tâm hồn, thì chắc chắn cuộc sống của họ sẽ hạnh phúc, nhất là người đó lại là linh mục của Chúa Giê-su.

2. Nói lời tốt đẹp.

Người ta thường thích nghe các linh mục hoặc các tu sĩ nam nữ nói chuyện với họ, bởi vì nơi các ngài –khi nói chuyện- toát lên một vẻ thánh thiện và những lời nói nghe ngọt ngào, bởi vì các ngài không nói chuyện để người khác phải ưu tư buồn phiền, bởi vì khi nói chuyện các ngài không phê phán chỉ trích một ai, nhưng các ngài luôn để ý xem lời nói của mình có làm phương hại đến tha nhân không, có làm cho người đối thoại với mình có cảm nhận được sự bằng an hay không, bởi vì lời nói tốt đẹp thì luôn đem lại sự thoải mái và vui vẻ cho người đối thoại.

Nói lời tốt đẹp không gì bằng nói lời của Thiên Chúa cho người khác nghe, mà lời của Thiên Chúa thì đầy dẫy trong Kinh Thánh, nhưng Kinh Thánh thì ít người đọc, mà nếu có đọc thì cũng không hiểu nhiều, do đó mà họ cần nghe những lời của Thiên Chúa từ miệng các linh mục của mình, và không lạ gì khi lời nói của linh mục được mọi người nghe và thực hành, bởi vì các ngài luôn giữ những lời tốt đẹp trong lòng mình, và khi có thể thì nói ra cho người khác nghe, đó chính là lời của Thiên Chúa vậy.

Con người ta –bất kỳ ai- cũng đều thích nghe những lời nói nhẹ nhàng, khiêm tốn và thành thật, bởi vì cuộc sống của họ có quá nhiều bon chen, tai họ nghe thật quá nhiều những lời lẽ khó nghe và những lời lẽ đầy hận thù do cuộc sống làm ăn, do đó mà họ thích nghe những lời nói nhẹ nhàng của các linh mục, khi buồn phiền vì cuộc sống thì họ cần nghe những lời an ủi chân thành từ miệng các linh mục, khi trong lòng đầy những bất an và lo âu thì họ cần nghe những lời chia sẻ tâm tình của linh mục, bởi vì chính những lời nói tốt đẹp không hề cau có giận dữ này, làm sinh ra những hiệu quả tốt lành không ngờ được:

- Nói lời tốt đẹp (không bỡn đớt đùa cợt, không nói ẩn ý xấu xa) khi tiếp xúc trò chuyện với mọi người, thì sẽ làm cho họ nhận ra linh mục chính là người của mọi người.

- Nói lời tốt đẹp (không làm bộ nghiêm trang, không ủy mị cợt nhã) khi người khác cần những lời khuyên bảo, thì sẽ làm cho tâm hồn họ nhận ra Chúa Giê-su đang nói chuyện với mình qua linh mục.

- Nói lời tốt đẹp (không nạt nộ, không đe dọa, không cố chấp) trong bí tích Giải Tội, thì hối nhân sẽ thực sự cảm nhận được tâm tình thống hối vì những tội mình đã phạm.


Nói lời tốt đẹp trong bất cứ hoàn cảnh nào thì đều làm cho phẩm giá linh mục được kính trọng hơn, bởi vì những lời nói tốt đẹp được phát xuất từ một tâm hồn chứa đựng những tư tưởng tốt đẹp, thì hiệu ứng sẽ phong phú và kỳ diệu hơn những lời nói hay mà trong lòng rỗng tuếch.

3. Làm việc tốt đẹp.

Chắc chắn các linh mục thì luôn làm những chuyện tốt đẹp cho mình và cho tha nhân, chuyện tốt đẹp mà các ngài thường làm cách cụ thể là: cầu nguyện cho mọi người và thực hành đức ái với tha nhân.

a. Cầu nguyện.

Cầu nguyện bao gồm việc dâng thánh lễ, phụng vụ các giờ kinh, lần chuỗi Mân Côi.v.v...đều là những việc tốt đẹp mà mỗi ngày linh mục phải làm như nhu cầu ăn uống cho thân xác vậy. Một linh mục không thích cầu nguyện hoặc cầu nguyện cách thờ ơ thì là dấu hiệu ơn gọi của ngài ngày càng sa sút, công tác mục vụ càng ngày càng thất bại, và đời sống thiêng liêng của ngài ngày càng nguội lạnh và chán nản hơn trong đời sống độc thân...

Cho nên, làm những công việc tốt đẹp, trước hết là vì bản thân mình và linh hồn của mình, sau nữa là vì lợi ích cho các linh hồn mà Chúa đã giao phó cho mình, nhất là các giáo dân trong giáo xứ của mình. Không một ai nói khi linh mục dâng thánh lễ là ngài làm gương mù gương xấu, nhưng người ta sẽ nói thà ngài đừng dâng thánh lễ thì hơn nếu ngài có cuộc sống gây gương mù gương xấu cho mọi người.

Làm việc tôt đẹp không phải là chỉ ga lăng với một số người quyền thế mà coi thường những người nghèo khổ, cũng không phải chỉ là ra tay giúp đỡ những người thường hay lui tới với mình, bởi vì Thiên Chúa đã làm cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt 5, 45).

Cầu nguyện là việc làm tốt đẹp của các linh mục, các ngài lãnh nhận thiên chức linh mục mục với đầy đủ ba nhiệm vụ là thánh hóa, cai quản và giảng dạy. Thánh hóa chính là cầu nguyện, mà các linh mục là những người đại diện toàn dân Chúa để cầu nguyện cho tất cả mọi người không phân biệt một ai, khi các ngài đắm mình trong cầu nguyện thì chính các ngài đã làm một công việc tốt đẹp không những đẹp lòng Thiên Chúa, mà còn đẹp lòng mọi người nữa; khi cầu nguyện là các linh mục trở thành đối tượng lôi kéo mọi người đến cùng Chúa, bởi vì qua cầu nguyện mà đoàn chiên nhận ra vị linh mục nào là mục tử chân chính dám hy sinh cho đoàn chiên của mình.

Dâng thánh lễ, chu toàn đọc Phụng Vụ các Giờ Kinh (kinh nhật tụng), lần chuỗi Mân Côi, là những việc làm không những tốt đẹp, mà còn là công việc thánh thiện của linh mục, đó cũng chính là cầu nguyện vậy.

b. Bác ái.

Bác ái cũng là việc làm tốt đẹp của linh mục, bởi vì không một linh mục nào mà không có tâm hồn yêu thương như Chúa Giê-su dạy, nhất là yêu thương những người nghèo khó, những con chiên lạc trong giáo xứ của mình.

Sống đời bác ái chính làm những công việc tốt đẹp trong cuộc sống của mình.

Tất cả các vị thánh trên thiên đàng đều làm những công việc tốt đẹp khi các ngài còn sống trên trần gian, việc tốt đẹp ấy chính là thực hành đức ái của Chúa Giê-su Ki-tô dạy. Có những vị thánh đi tu để được chia sẻ với những người bất hạnh, có những vị thánh đi tu để được an ủi Chúa Giê-su nơi các bệnh nhân, lại có những vị thánh đi tu làm linh mục là để có điều kiện phục vụ người nghèo hơn, hoặc là để dạy dỗ thanh thiếu niên –những trẻ em nghèo bất hạnh- bởi vì linh mục là những người được chọn để ban phát ơn lành của Chúa cho mọi người, và cũng là để các ngài –tự bản thân- biết chia sẻ những đau khổ của Chúa Giê-su Ki-tô nơi thân mình của các ngài qua việc phục vụ tha nhân.

Làm việc tốt lành chính là biểu hiện rõ ràng công khai lòng bác ái của vị mục tử chân chính đối với đàn chiên của mình, bởi vì thời nay có những vị mục tử chỉ biết làm việc tốt cho bản thân mình và gia đình mình, mà không biết chia sẻ với những con chiên ốm đau trong đàn chiên của mình, có những mục tử không hề biết an ủi những con chiên đau khổ bất hạnh của mình, mà trái lại, còn đem gánh nặng của mình (kiêu ngạo, nóng giận, quan liêu, hưởng thụ) chất lên đôi vai gầy mòn đau khổ của họ, để rồi đàn chiên ngày một tan nát, tản mát và chia rẻ nhau.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là linh mục đời đời,

khi dang tay tế lễ Chúa Cha trên cây thập tự

Chúa đã đem tất cả tội lỗi của nhân loại

cùng với những đau khổ trên thân xác

và trong tâm hồn của Chúa

trở thành hiến tế dâng lên Chúa Cha

xin Ngài tha tội cho nhân loại.

Trong bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ

Chúa đã trao ban một điều răn mới cho các ông,

là hãy yêu thương nhau,

và Chúa đã lập bí tích Thánh Thể

rồi chọn các môn đệ trở thành những linh mục

đời đời của Tân Ước.

để các môn đệ tiếp tục sứ mạng của Chúa

là ra đi rao giảng Tin Mừng và cứu độ muôn dân,

để họ cũng trở thành những môn đệ của Chúa.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô

bí tích Thánh Thể và giới luật Yêu Thương

là sự chúc lành và cám ơn của linh mục,

là đôi cánh hạnh phúc của các linh mục,

để các ngài trở thành một Chúa Ki-tô thứ hai

giữa cộng đoàn Dân Chúa,

và nhờ đôi cánh này

mà các ngài đưa đoàn Dân Chúa

bay cao, lên cao,

thoát những cuồng phong

của cám dỗ và tội lỗi,

để bay lên cao

giữa bầu trời đầy yêu thương và ân sủng.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô,

xin gìn giữ các linh mục của Chúa

là những người được chọn

không phải cho gia đình hay thân thuộc của họ,

không phải dành cho một nhóm nhỏ nào,

nhưng là được chọn cho mọi người,

vì mọi người

mà hy sinh để họ được sống

và sống dồi dào trong ân nghĩa của Chúa.

Xin Chúa gìn giữ các linh mục của Chúa,

để các ngài trở thành người hạnh phúc nhất

dù trong đau khổ hay thử thách,

bởi vì linh mục chính là

hạnh phúc khi yêu thương,

hạnh phúc khi phục vụ

và hạnh phúc khi biết tha thứ.


Taiwan, những ngày cuối “Năm Linh Mục”

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

----------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com