VI. Tin Vui Hy Vọng (Mc 16:1-8)

Đoàn quân của Napoleon chỉ còn cách Feldkirch, một thị trấn Áo, 6 dặm. Ông ta chuẩn bị tấn công thị trấn vào sáng hôm sau. Thị trấn vốn không được bảo vệ, nếu viện binh không tới cấp cứu, chắc chắn sẽ bị tràn ngập. Dân thị trấn tụ họp cầu nguyện trong ngôi thánh đường giữa trung tâm thị trấn. Hôm đó là đêm trước lễ Phục sinh năm 1805. Sáng hôm sau, chuông thánh đường bắt đầu đổ, vọng tới tai Napoleon. Ông tướng này không bao giờ có ý niệm hôm đó là hôm Phục Sinh. Nên nghe tiếng chuông, ông tưởng đó là tiếng chuông chào mừng đoàn quân Áo. Lập tức ông hủy bỏ kế hoạch tấn công Feldkirch và ra lệnh cho đoàn quân của mình rút qua ngả khác. Feldkirch thoát nguy, nhờ kẻ địch nghe tiếng chuông Phục Sinh. Cuối phúc âm Máccô, ta cũng được nghe chuông Phục Sinh hân hoan reo vang và kẻ thù xưa của ta là Thần Chết cũng đang rút lui.

1. Từ Thất Vọng Đến Khoái Chí

1.1 Tia hy vọng đã vươn lên trong thế giới tràn trề thất vọng. Đó là chủ đề chương 16 phúc âm Máccô. Xem Mc 16: 1-8. Hết ngày Sa-bát, 3 phụ nữ đem dầu thơm tính xức xác Chúa Giêsu. Đến nơi, đá chắn mồ đã được lăn qua một bên, còn xác Người thì không thấy. Chỉ thấy một thanh niên vận áo trắng lên tiếng: Người đã sống lại, không còn ở đây. Mấy người đàn bà ra khỏi mồ, không nói với ai điều gì. Nhiều người cho Phúc âm Máccô chấm dứt ở đấy ở câu 16:8. Vì thủ bản Hy Lạp cổ xưa nhất và cũng đáng tin cậy nhất không có các câu từ 9 đến 20 và hầu như chắc chắn Máccô không viết các câu từ 9 đến 20 này. Tuy nhiên, tạ ơn Chúa, câu 9 đến 20 đã có trong phúc âm của ngài. Ta sẽ xem sét việc này trong bài sau.

1.2 Trình thuật phục sinh của Máccô bắt đầu bằng câu “Hết ngày Sa-bát”. Phúc âm Luca không nhắc đến ngày Sa-bát (Thứ Bẩy). Có thể vì ngày đó gợi lại sự thảm sầu của niềm hy vọng tả tơi, của giấc mộng tan vỡ, của mặc cảm tội lỗi, của xấu hổ, của đớn đau sợ hãi. Một ngày xem ra tương lai như bức tường trống rỗng, sạch bách hy vọng và khả thể. Cần gì tiếp tục? Cần chi ráng sống? Chúa của họ đã chết, và các môn đệ của Người đã bỏ Người mà tháo chạy. Hết cả vương quốc, vua quan. Còn chăng chỉ là mặc cảm bỏ thầy giầy vò tâm can họ. Ấy thế nhưng Thiên Chúa đang biến Thứ Bẩy buồn thành Chúa Nhật vui. Chiếc mồ trống của bạn đang xuất hiện. Phúc âm Máccô nhắc đến ngày Sa-bát, cái Thứ Bẩy buồn ấy. Và cũng chỉ nhắc qua có thế, chứ không nhắc gì thêm. Điều ấy cho thấy khi ngồi xuống viết ra các phúc âm, các phúc âm gia quá vui mừng trước ngày Chúa Nhật vui đến quên khuấy, hay gần như quên khuấy, cả Thứ Bẩy buồn.

1.3 Máccô chương 16 bắt đầu bằng ngày thảm sầu nhất trong lịch sử con người, nhưng kết thúc với việc tìm ra ngôi mồ trống. Mấy người đàn bà tìm ra ngôi mồ trống, bước ra hân hoan đến không nói nên lời. Ta nên xem kỹ hai mệnh đề (16:8) trong đoạn này: Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía (Tiếng Hy lạp: ekstasis). Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi (tiếng Hy Lạp, phobeo)”. Các bản dịch Thánh Kinh đều dịch đại cương như thế. Thiết tưởng nên chú ý đến các từ ngữ Hy Lạp được chua trên đây. Dịch phobeo là sợ hãi không hẳn sai, vì động từ này quả có nghĩa là sợ hãi. Nhưng nó cũng có nghĩa như kính sợ, kinh ngạc (awe, amazement) theo nghĩa tôn giáo của cung kính, thờ kính và kính phục (reverence, worship and pious obedience). Câu trước cũng vậy dịch là “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” không hẳn đã chỉnh. Run thì có, nhưng lẩy bẩy là thứ run tiêu cực quá. Còn hết hồn hết vía để dịch chữ ekstasis thì không hẳn đúng, vì từ ekstasis ta có ecstasy của tiếng Anh, có nghĩa mạnh nhất chỉ tình trạng quá vui đến xuất thần, quên cả thực tại chung quanh, nhẹ nhất cũng là kinh ngạc (amazed), một tình trạng tích cực chứ không tiêu cực chút nào. Mấy người đàn bà này làm sao sợ hãi cho được khi họ khám phá ra điều kỳ diệu: Chúa Giêsu đã sống lại! Sự thật ấy chỉ có thể làm họ vui ngất! Dĩ nhiên, đây cũng chỉ là một lối đọc phúc âm Máccô. Bản Phổ Thông cũng như Tân Phổ Thông (Nova Vulgata) đều theo nghĩa tiêu cực: Et exeuntes fugerunt de monumento; invaserat enim eas tremor and pavor, et nemini quidquam dixerunt, timebant enim. Tuy nhiên, phúc âm Mátthêu (28:8) thì cho hay: “Các bà vội vã rời khỏi mộ, vừa sợ hãi vừa rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay”. Chú giải phúc âm Mátthêu, Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ cho hay: “sự sợ hãi của các bà phải coi như là một phản ứng có ý nghĩa thần học hơn là tâm lý: một cảm nghiệm siêu nhiên về cuộc thần hiện, một sự gặp gỡ Thiên Chúa” (Bốn Sách Tin Mừng, tr.129). Thiển nghĩ ta nên lấy cái ớn lạnh và run sợ của Hàn Mạc Tử mà hiểu cái run sợ của các phụ nữ trong Máccô: “Maria linh hồn tôi ớn lạnh, run như run thần tử thấy tôn nhan, run như run hơi thở chạm tơ vàng, nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến!". Người em ruột của thi sĩ là Nguyễn Bá Tín cho rằng khi viết những câu thơ bất hủ này, Hàn Mạc Tử còn rùng mình nghĩ tới biến cố “súyt chết” của mình bên bãi biển Qui Nhơn mà ông vốn coi là nhờ Đức Mẹ mà ông sống thoát (coi Hàn Mặc Tử Anh Tôi). Rất có thể người em này hiểu anh ruột hơn ai hết, nhưng nếu “linh hồn tôi ớn lạnh” có hơi hướm đôi chút tiêu cực, thì câu sau “run như run thần tử thấy long nhan” và nhất là “run như run hơi thở chạm tơ vàng” không hề có nét nào tiêu cực mà chỉ là cái run sung sướng của một thần tử thấy long nhan, một Đấng Nữ Vương ông “thấm nhuần ơn trìu mến”, nhưng chỉ sợ Ngài biến mất, hay không xứng đáng với Ngài như hơi thở chạm tơ vàng. Thiển nghĩ không còn chiêm niệm thần bí nào cao siêu hơn thế, một chiêm niệm thần bí trong truyền thống Máccô!. Hãy tiếp tục đọc trình thuật Máccô để thấy lối đọc tích cực không hẳn là sai, và tìm ra nhờ đâu những người đàn bà kia đã đột nhiên tiến từ thất vọng ê chề qua cái vui ngất run rẩy khi thấy ngôi mồ trống.

2. Ngôi Mộ và Khăn Liệm

2.1 Trước nhất hãy xem tảng đá chắn mộ (16:1-4). Khi tới mộ, mấy người đàn bà thấy tảng đá đã được lăn qua một bên. Bạn hãy đi thăm Ngôi Mộ Trong Vườn ở Giêrusalem mà các học giả tin là mộ của Chúa Giêsu. Tảng đá nói trên không còn nữa, nhưng đường rãnh nhỏ đục vào đá trước cửa mồ thì còn đó. Khối đá chắn mồ được lăn khít vào đường rãnh này để mở ra đóng vào. Căn cứ vào đó thì tảng đá phải nặng đến ngàn cân Anh. Bởi thế, mấy người đàn bà mới lo âu không biết nhờ ai lăn nó ra. Nhưng khi tới nơi, nó đã được lăn ra rồi. Mồ đã mở sẵn. Phúc âm Mátthêu (28:2) nói rõ chính một thiên thần lăn tảng đá đó ra. Sắc diện thiên thần sáng láng đến làm lính canh sợ hãi chết ngất. Chắc sau đó bọn chúng bỏ trốn hết. Vì khi các phụ nữ tới, không thấy ai ngoài cửa mồ.

2.2 Ngôi mồ trống từng cung cấp câu trả lời cho những kẻ hoài nghi suốt hơn hai mươi thế kỷ qua. Không ai từng giải thích được nó. Mỗi thế hệ đều đã cố gắng. Như Hugh Schonfield trong The Passover Plot, được phụ ghi là A New Interpretation of the Life and Death of Jesus, có lối giải thích xưa nhất. Ông cho rằng không có sống lại, dựa vào lời dối trá được phổ biến trong binh lính La Mã thế kỷ thứ nhất, theo đó, xác của Chúa bị đánh cắp. Nhưng cả Schonfiled cũng không giải thích truyện đánh cắp ấy xẩy ra cách nào. Nếu kẻ thù của Kitô giáo đánh cắp thì họ đã đem ra làm bằng chứng để chối phắt việc Chúa sống lại. Còn môn đệ của Người thì làm sao cướp được xác khi lính canh La Mã ở đó và mồ thì được đóng kín.

2.3 Sự kiện lạ lùng nhất đối với các bà là khăn liệm. Xác thì mất, nhưng khăn liệm còn kia. Luca 24:12 và Gioan 20:6-8 miêu tả kỹ về khăn liệm này. Khăn che đầu được gấp ngay ngắn và để tách khỏi băng vải liệm, là tấm khăn không bị mở ra, vẫn nguyên hình như lúc liệm, làm người ta có cảm giác như thân xác Người biến khỏi từ bên trong. Các phúc âm kia cho hay: các phụ nữ về kể cho các môn đệ, và Phêrô cùng Gioan chạy ra mồ. Khi họ thấy khăn liệm, họ tin chắc Chúa đã sống lại. Sự hiện diện của vải liệm và cách thức chúng được sắp xếp chưa bao giờ được giải thích.

2.4 Sức mạnh của chứng cớ, kể cả chứng cớ ngôi mộ trống là một trong những lý do giúp Kitô giáo truyền bá rất nhanh. Ai cũng có thể đến đó để kiểm chứng, để thấy tận mắt chứng cớ vật lý hiển nhiên cho các lời giảng của các Tông Đồ. Chính vì thế, sử gia Do Thái là Flavius Josephus, một sử gia có uy tín, chắc chắn đã dựa vào các nhân chứng tận mắt mà viết ra những giòng như sau:

“Bây giờ xin nói về thời gian Ông Giêsu, một hiền nhân, nếu được phép gọi ông là một con người, vì ông là người làm nhiều việc lạ lùng, một bậc thầy của những người tiếp nhận chân lý một cách hân hoan. Ông lôi kéo nhiều người Do Thái, và Dân Ngoại. Ông là Đấng Kitô; và khi Philatô, theo gợi ý của những người chủ chốt giữa chúng ta, kết án ông chịu thập giá, những người kính yêu ông nhất định không từ bỏ ông, vì ông hiện ra với họ vào ngày thứ ba như các thánh tiên tri đã tiên đoán những điều ấy và hàng chục ngàn những điều lạ lùng khác về ông; còn chi tộc Kitô giáo, được gọi theo tên ông, ngày nay vẫn chưa bị diệt” (Josephus, The Antiquities of the Jews 18.3.3, trích trong The Works of Josephus, do William Whiston (Peabody, Mass.: Hendrickson, 1987) dịch).

Phục sinh vì thế không phải là chuyện huyền thoại mà là sự kiện chính trong lịch sử con người.

3. Sứ Điệp Của Thiên Thần

3.1 Thế là Chúa Giêsu không có trong mồ. Máccô ghi thêm (16:5-7): Bước vào mồ, các bà thấy một thanh niên vận đồ trắng, nên sợ. Nhưng thanh niên ấy bảo các bà đừng sợ. Vì Chúa đã sống lại và sẽ đến Galilê gặp gỡ mọi người. Sứ điệp của thiên thần nhằm nói với những kẻ hoài nghi suốt hơn 20 thế kỷ qua. “Các bà đi tìm Giêsu Nadarét, đấng bị đóng đinh”. Những kẻ hoài nghi phục sinh nói rằng các phụ nữ vào lầm mồ. Nhiều người khác bảo: các tông đồ làm giả một Chúa Giêsu khác khi huyền thoại phục sinh đổ bể. Rồi: Chúa Giêsu không chết, chỉ bất tỉnh thôi, và điều kiện lành lạnh trong mồ đã làm Người thức dậy. Tất cả lý thuyết ấy làm sao phù hợp với lời thiên thần trong đoạn này khi xác nhận ông Giêsu Nadarét, từng bị đóng đinh, nay đã sống lại rồi. Căn cước của người nằm trong mồ ấy được long trọng xác nhận.

3.2 Thiên thần cũng cho hay: “Người đã sống lại, Người không còn ở đây”. Chúa Giêsu sống lại không phải là một linh thể không xác (disembodied spirit). Phục sinh không phải là một phục sinh linh thể mà là phục sinh xác thể. Thân xác Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Nhiều nhóm giáo phái cho rằng chỉ có tinh thần Đức Giêsu chỗi dậy, và do đó hiện sống như một hữu thể thuần linh. Thánh Kinh không cho phép một giải thích như thế.

3.3 Hơn nữa, thiên thần cho hay Người sẽ đến Galilê gặp gỡ các tông đồ. Thiên thần chỉ định rõ cả khu vực địa dư làm nơi người ta sẽ gặp Đức Giêsu trên mặt đất. Ngoài khía cạnh xác nhận tính cách “thể xác” của phục sinh trong mấy câu này, ta còn thấy cả một dư âm thân tình âu yếm nhắn gửi tới tông đồ Phêrô, người dân chài trở thành môn đệ hàng đầu. Lần cuối cùng ta gặp Phêrô là lúc ông đang đứng sưởi ấm trong sân dinh thầy cả thượng phẩm, run sợ cả những tên tớ gái thầy cả đến phải chối phéng Thầy. Nhưng giờ đây: “Hãy nói với các môn đệ và Phêrô”! Chỉ có ông được nêu đích danh trong lời nhắn gửi. Chẳng lạ gì sau này ông hân hoan khi người ta hành hạ ông vì danh Người và chịu đóng đinh ngược vì Người bị ông chối phéng nhưng vẫn thương ông.

Qua trình thuật này, ta thấy Chúa Giêsu lưu tâm đến từng cá nhân, chứ không hẳn chỉ có nhóm hay tổ chức hay phong trào hay giáo hội hay thế giới mà thôi. Chúa lưu tâm tới Phêrô, đến cá nhân, đến tôi đến bạn. Sự quan tâm có tính bản vị của Người đối với các cá nhân đã trở thành dấu kiểm tra (hallmark) Kitô giáo từ đấy. Mỗi người trong chúng ta có thể biết Người cách tư riêng và thân thiết, chứ không phải chỉ như một nhân vật lịch sử, hay một vị quân vương, một lãnh tụ tôn giáo mà là trong một hiệp thông một gặp một và tình bằng hữu thân mật.

4. Tin Vui Loan Truyền

4.1 Mồ trống, khăn liệm trống và sứ điệp của thiên thần đã gây tác động lớn trên các phụ nữ. Chúng đổ đầy tâm hồn họ niềm hy vọng, niềm vui, niềm phấn khích. Trong khoảnh khắc, họ được chuyên chở từ lũng sâu chán chường thất vọng tới nỗi vui ngất quá sức tưởng tượng. Bởi thế, họ hân hoan ra đi bắt đầu loan truyền tin vui hy vọng kia, như các thiên thần nhắn gửi, một tin vui lâu bền duy nhất thế gian chưa bao giờ biết đến.

4.2 Tin vui trên được củng cố bởi nhiều lần hiện ra với hết nhân chứng này đến nhân chứng khác. Trước nhất là Maria Mađalêna. Phúc âm Gioan (20:11-18) cho hay: sau khi các phụ nữ kia ra về, Maria Mađalêna rán ở lại và được gặp Chúa Giêsu. Bà lầm tưởng đó là người làm vườn, nhưng khi nghe Người gọi đúng tên mình, bà biết ngay đó chính là Chúa. Như thế, Maria là người đầu tiên gặp Chúa phục sinh. Và nhờ báo tin của bà, mà Phêrô và Gioan, tuy chỉ thấy mồ và khăn liệm trống, nhưng đã tin chắc Người đã sống lại.

4.3 Trong phúc âm Luca (24:13-35), vào buổi chiều hôm đó, Người cũng xuất hiện với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Trong cuộc kỳ ngộ này, Người dùng Thánh Kinh mà nói về chính Người với họ. Lạ một điều, họ không nhận ra Người, cho đến mãi khuya, lúc Người bẻ bánh với họ, họ mới nhận ra Người. Cũng là lúc, Người biến mất. Lòng chúng ta chẳng lửa bập bùng lúc Người giảng Thánh Kinh cho ta đó sao?

4.4 Phúc âm Gioan (20:19-25) tiếp tục cho hay chiều Chúa Nhật thứ nhất Phục Sinh, các môn đệ họp nhau tại Phòng Trên Lầu. Bỗng nhiên, Chúa Giêsu xuất hiện giữa các ông và cho họ thấy Người đang sống. Một tuần sau, Chúa trở lại căn phòng ấy lần nữa và cho Tôma hoài nghi thấy các thương tích của Người, để Tôma thấy mà tin.

4.5 Gioan chương 21 cho thấy, đúng như lời thiên thần loan báo cho các phụ nữ, Chúa Giêsu xuất hiện tại Galilê, ở biển hồ Tibêria (tên khác của hồ Galilê), đang khi phần lớn các môn đệ đang đánh cá ở đó. Hết mộng “chài người” rồi chăng, nay trở về nhà cũ làm… chài cho xong! Lòng vẫn còn áy náy chả hiểu Chúa Giêsu muốn họ, và nhất là riêng ông, ông Phêrô, làm gì. Vâng, có Phêrô trong số này. Ông tin Người sống lại, nhưng vẫn đi đánh cá. Chả lẽ mắc hội chứng kiểu Seven-Year Itch? Không một ai nhận ra Người, phải đợi đến lúc được mẻ cá lớn nhờ “mách nước” của Người, mới có người nhận ra Người. Người ấy không phải là Phêrô, nhưng rất may là người cùng vào mồ trống với ông, tức Gioan. “Chúa đó”. Điều hay là không phải Gioan nhẩy xuống nước, mà là Phêrô. Ông nóng lòng gặp thầy đến không thể chờ thuyền vào tới bến. Và tất cả các ông chắc mẩm về Chúa đến độ không ai lên tiếng hỏi “ngài là ai?”.

Cũng chính trên bãi biển này, sau bữa sáng với nhau, Chúa hỏi Phêrô một câu ba lần. Con có yêu thầy không? Làm ông thấy “hơi quá”! Với mỗi câu trả lời: có của Phêrô, Chúa lại bảo ông: “hãy chăn dắt chiên của thầy”. Không đâu rõ bằng ở chỗ này: Phêrô được phục hồi hoàn toàn. Và nhiệm vụ ông thật rõ như ban ngày. Có đủ cả job description nữa. Không còn chài người hay chài cá gì cả, anh là mục tử, chăn dắt đoàn chiên Thầy. Chính bởi vậy, thiên thần mới nhắn đích tên ông, để ông tới Galilê nhận bài sai.

4.6 Theo thánh Phaolô (1 Cor 15:6), Chúa còn xuất hiện một lần nữa với hơn 500 người trên núi Galilê. Phúc âm Luca (24:50-53) kể lại biến cố sau cùng, lúc Chúa xuất hiện với các môn đệ và dẫn các ông tới gần làng Bêtania, nơi Người về trời.

5. Tin Là Thấy

5.1 Ấn tượng mạnh mẽ phúc âm Máccô để lại cho ta từ trình thuật phục sinh là: các phụ nữ tin, dù không thấy Chúa Phục Sinh. Họ chỉ thấy ngôi mồ trống. và khăn liệm trống. Họ vui ngất vì họ tin. Dĩ nhiên, như đã thấy, Maria rán lại thêm và đã đích thân được thấy Chúa Sống Lại. Còn các phụ nữ kia tin dù không thấy Chúa. Có thể sau này, khi hiện diện tại Phòng Trên Lầu, họ sẽ được thấy Chúa. Nhưng họ đã tin rồi, dù chưa thấy. Đối với họ, tin là thấy rồi.

5.2 Tất nhiên thấy Chúa Phục Sinh quả là tuyệt diệu. Những người có diễm phúc ấy được cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi nhìn với lòng kính trọng thật cao. Phần lớn cộng đoàn này không được diễm phúc ấy. Tuy nhiên, lúc xuất hiện với Tôma, Người cho biết: con tin vì con thấy, phúc cho ai không thấy mà tin (Ga 20:29). Nói cách khác: con nghĩ thấy là tin. Con lầm rồi, tin là thấy. Nói câu này, Người quả đã nhìn thấu qua muôn thế hệ đến sau, kể cả thế hệ chúng ta. Người nhìn thấu muôn triệu tín hữu, gồm bạn gồm tôi, và Người khẳng định rằng ta yêu Người và tin vào Người, dù ta chưa bao giờ thấy Người.

5.3 Phêrô là người đã ba bốn cái “cùng” với Người: cùng sống, cùng đi, cùng nói cùng ăn với Người, nhưng ông vẫn muốn cho ta hay: tin là thấy. Ông viết: “Dù bạn không thấy Người, bạn vẫn yêu Người; và dù bạn không thấy Người bây giờ, bạn vẫn tin Người và lòng bạn tràn ngập niềm vui vinh quang, không thể diễn tả được (1 Pr 1:8). Đó là cảm nghiệm của muôn triệu tín hữu từ những ngày đầu đến tận ngày nay. Ta không thấy Chúa Phục Sinh vì Người đã ra khỏi lãnh vực hữu hình lâu rồi. Nhưng ta có chứng tá, có chứng cớ. Thánh Luca viết trong Cv 1:3: “Người tỏ mình cho những người này và ban nhiều chứng cớ đầy thuyết phục rằng Người đang sống”. Các chứng cớ này có sức thuyết phục trí hiểu ta và thúc đẩy tâm hồn ta. Chúng khơi dậy trong ta niềm hy vọng. Chính từ niềm hy vọng này mà tin mừng phục sinh đã phát sinh.

Tin mừng trên là tin mừng duy nhất lâu bền trong lịch sử loài người. Ai chưa nghe tin mừng này, thì thế giới vẫn chỉ là nơi đen tối, vô hy vọng giống như Thứ Bẩy giữa thánh giá và phục sinh. Nhưng ta có tin mừng này để chia sẻ với họ. Tin mừng này như ánh sáng chói lọi giữa đêm khuya, như lương thực nơi đói khát. Nếu bạn không đem đi loan truyền, thì ai sẽ đi đây?