Nói tới hy vọng, bỗng dưng tôi nhớ lại một khoảng thời gian dài tôi bị vướng vào đời sống tù đày. Vào năm 1979, khi đó mới mười bẩy tuổi, tôi bị bắt sau một lần vượt biên thất bại. Tôi bị còng tay đẩy vào căn nhà đá của trại tù Gò Công. Sau khi cánh cửa sắt của căn xà-lim đóng lại, tôi thất vọng nằm lăn ra trên nền gạch lạnh ngắt của căn phòng hôi thối bẩn thỉu. Tôi nghĩ tới bị tra khảo, tới mất tự do. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Tôi tiếc nuối cho giấc mơ về một vùng đất mới với bao nhiêu đèn đường rực rỡ, với một tương lai huy hoàng. Tôi thở dài bởi tôi biết giấc mơ về vùng đất hứa đã hoàn toàn bốc hơi tan loãng. Bao vây chung quanh tôi lúc bấy giờ là đêm đen của một buổi tối đầu tháng Mười Hai. Ánh đèn mầu vàng từ phía bên ngoài hiu hắt chiếu sáng một góc nhỏ của căn xà-lim. Tôi liếc nhìn hai người tù đang ngồi bó gối im lìm như hai xác chết đói khô trong góc căn phòng. Tôi tiếp tục thở dài! Tôi nghĩ chắc mình sẽ không sống nổi trong tình trạng cơ cực của nhà tù.

Bất chợt tiếng rao hàng tràn đầy sinh lực bên ngoài khung cửa sổ vang lên. Giọng cô gái bán bánh ú bánh tét cao vút, vang xa, len lỏi chui vào căn phòng dầy đặc đêm đen và bóng tối. Giọng miền Nam trong trẻo của đời sống bên ngoài bốn bức tường nhà tù lảnh lót vang dội đêm đen đã đánh thức cả một bầu trời hy vọng trong tôi. Và thế là hy vọng ngập tràn tâm hồn của người tù nhân mười bẩy tuổi. Tôi ngưng thở dài. Tôi bắt đầu hy vọng.

Tôi hy vọng thời gian tù đầy rồi cũng sẽ trôi qua nhanh như một giấc ngủ trưa. Tôi hy vọng mình sẽ không bị nhốt lâu trong căn xà-lim ẩm thấp tối tăm với toàn là rệp và chuột.

Trong suốt một khoảng thời gian dài nhọc nhằn với trại tù Tiền Giang, sáng nào cũng vậy, những tia nắng mặt trời bình minh ghé ngang qua khung cửa sổ ân cần hỏi thăm người tù nhân mười bẩy tuổi xanh xao gầy còm vì đói ăn. Những tia nắng của trời cao trở thành niềm hy vọng soi đường dẫn lối cho một khoảng thời gian tăm tối của mất hy vọng trong trại tù. Và bởi hy vọng, tôi sống thoát qua được một khoảng thời gian dài trong trại tù của huyện Gò Công và tỉnh Tiền Giang.

Hy vọng không phải là một danh từ trừu tượng xa lạ. Hy vọng là một danh từ của hiện tại nhưng chỉ về tương lai. Bởi hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn, những nhọc nhằn và phiền muộn của ngày hôm nay được xoa dịu và trở nên bớt nhọc nhằn, bớt phiền muộn hơn. Cuộc sống tù đày vừa được nêu ra ở trên là một thí dụ cụ thể. Bởi tính chất xoa dịu, hy vọng do đó chính là liều thuốc thần, có khả năng chữa lành những vết thương của tâm hồn và thể xác.

Bởi hy vọng vào tương lai, cách sống của một người trong giây phút hiện tại có thể thay đổi. Tôi thấy có những cặp vợ chồng trên vùng đất mới, bởi hy vọng con cái của mình sẽ có một mớ kiến thức vững chắc hơn làm hành trang đi vào tương lai, cho nên họ hy sinh ngày nắng cũng như ngày mưa cày hai công việc để có nhiều tiền gửi con mình vào những trường trung học tư thục mắc tiền. Ngày thứ Bẩy tuyết đổ cao tới cửa sổ, họ cào tuyết, lái xe ra xa lộ vắng tanh đi làm. Ngày Chúa Nhật mưa rào, họ đội dù ra bến đón xe bus đi làm luôn.

Tôi đã gặp gỡ rất nhiều cặp vợ chồng mới cưới, sau khi một lần tay trong tay dẫn nhau lên cung thánh, sau khi chung sống với nhau qua một tuần trăng mật, tự nhiên họ nhận ra khuôn mặt của người vợ hoặc người chồng ngọt ngào của một thời giờ tự nhiên biến dạng. Cũng vẫn khuôn mặt dịu dàng duyên dáng đó mà sao bây giờ không còn duyên dáng dịu hiền như xưa? Cũng vẫn khuôn mặt chữ điền đó mà sao bây giờ người chồng của mình không còn ga-lăng đi ra mở cửa đi vô nhường bước như xưa? Bây giờ không còn là mình ơi hay là em ơi hay là anh ơi nữa! Nhưng bởi hy vọng vào tương lai và “chim kia ăn trái nhãn lồng, lia thia quen chậu, vợ chồng mình quen hơi”, họ bắt đầu tập chấp nhận lẫn nhau, chấp nhận những cái nét khác lạ của nhau. Và từ từ cả hai sẽ lướt qua được những khó khăn chồng chất của thuở ban đầu.

Giuđa đã có một lần trong đời tố cạn láng vào trong canh bạc đời, để rồi khi đứng dậy, Giuđa hoàn toàn trắng tay. Nhưng tiếc vô cùng, Giuđa không chấp nhận hòa giải với chính mình bởi vì anh ta không hy vọng rằng Thầy của mình sẽ tha thứ cho một lần anh ta yếu đuối. Bởi thế, anh ta đã quay trở lại đền thờ gặp những thầy thượng tế Do Thái quẳng trả lại ba mươi đồng bạc bán Thầy, sau đó anh ta đi kiếm một cành cây bên đường, thế là một sợi dây treo lên, một mạng người rớt xuống.

Riêng Phêrô thì khác, sau khi chối Thầy để rồi quay ngang, bắt gặp ánh nhìn của Đức Giêsu, Phêrô đã khóc như mưa. Nhưng Phêrô không nối theo bước chân của Giuđa, mà chỉ âm thầm ngồi than khóc, hy vọng đợi chờ vào tia nắng bình minh của ngày mai.

(Xin xem tiếp Phần Hai)