Nhật ký Tĩnh tâm Linh Mục Tổng Giáo Phận Huế

Ngày thứ ba (05/3/2009)

Ngày thứ ba của Tuần Tĩnh Tâm Linh mục đoàn Huế là ngày 05-3-2009.

Ý cầu nguyện của ngày hôm nay là cầu cho linh mục sống tinh thần thánh Phaolô

******

Đề tài tĩnh tâm được hướng dẫn ban sáng là:

LỜI RAO GIẢNG VỀ THẬP GIÁ

Đề tài này nối kết hai phương diện của suy tư thần học của thánh Phaolô về cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, một thập giá được đánh giá khác nhau bởi Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của Người và bởi loài người được hướng dẫn bởi các phán đoán về giá trị của họ.

Thánh tông đồ nói rằng, quả thật, thập giá này diễn tả sự khôn ngoan đầy nghịch lý của Thiên Chúa, đồng thời là dấu chỉ một sự điên rồ cùng cực dưới mắt loài người. Đây là nội dung của hai đơn vị của bức thư là 1 Cr 1,17-25 và 2,6-16.

1.- Một thách đố đối với lý trí con người

Phaolô nói ở 1 Cr 15,3: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh”, rồi sẽ xác định rằng Đức Kitô bị chết đóng đinh.

Nhưng thánh nhân không dừng lại với những yếu tố lịch sử, nhưng nhắc lại giá trị biểu tượng của thập giá.

Trong thế giới Hy-lạp – Rô-ma, thập giá là một thứ hình khổ dành cho nô lệ (Seneca và Tacitô: servile supplicium) và các kẻ gian ác, một thứ khổ hình nhục nhã và kinh tởm không được phép bắt các công dân Rôma phải chịu.

Đức Kitô chết trên thập giá dĩ nhiên là đối tượng cho người ta khinh bỉ, là nạn nhân đáng kinh tởm và khủng khiếp. Do đó, khi nghe loan báo con người chịu đóng đinh là nguồn mạch ban ơn cứu độ cho loài người, là trung gian cho hành vi cứu độ của Thiên Chúa, bất cứ con người nào trong đế quốc Rôma, đã thấm nhuần văn hóa Rôma, cũng chỉ có thể cho rằng đó là chuyện điên rồ, một chuyện ngu ngốc, một chuyện không thể tin, mà cũng không nên tin, nếu ta trung thành với bậc thang các giá trị hữu lý.

Nhưng Phaolô cho biết ngài tìm thấy ở đó có “sự khôn ngoan nhiệm mầu” của Thiên Chúa, điều mà loài người cho rằng chỉ là sự điên rồ không hơn không kém. Bởi vì, một cách nghịch lý, quả đúng là thập giá của Đức Kitô là hiện thân của chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người: một dự phóng khôn ngoan bởi vì được tổ chức rất khéo và lại hữu hiệu, thực hiện được những mục tiêu mà Người đã định trước.

Vậy đây là một dự phóng được bố trí rất khéo léo để cứu độ loài người tội lỗi.

Khi đọc các đoạn văn trên, chúng ta ghi nhận có hai điều trái ngược: không những trái ngược giữa khôn ngoan và điên rồ (sophia – môria), mà còn trái ngược giữa quyền lực và yếu đuối (dynamis – astheneia).

Đức Giêsu chịu đóng đinh diễn tả một trật quyền lực cứu độ của Thiên Chúa và sự yếu đuối cùng cực của loài người.

Một con người bị đóng đinh trên thập giá là con người yếu đuối đến độ bất lực: kẻ ấy không thể cựa quậy, kẻ ấy là một người chết được nhắm trước; kẻ ấy không sao có thể xuống khỏi “cây gỗ tủi nhục” (nói theo các tác giả Rôma). Thế mà Phaolô lại dám khẳng định rằng tại nơi mà sự bất lực của con người đang bao trùm, lại tỏ lộ rõ ràng quyền lực cứu độ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, đây là một quyền lực không loại trừ một phương diện bất lực: Thiên Chúa đã không giải thoát Con của Ngài trên thập giá, đã không biết miễn cho Người khỏi phải chịu sự nhục nhã của thập giá. Thế nhưng Ngài đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, bằng cách tạo cho Người một sự sống mới rất mạnh mẽ và rất phong phú để Người là nguồn sự sống cho những kẻ khác.

Không phải vô cớ mà ở 1 Cr 15,49, ngài xác định Đức Kitô là “Thần Khí tác sinh”, Đấng làm ra sự sống (zôopoioun). Mọi sự đều nghịch lý; lời TM loan báo về Đấng chịu đóng đinh là một thách đố cho lương tri, cho lý trí loài người, cho các giá trị nhân loại thánh thiêng nhất của loài người, để đi đến chỗ tin tưởng “điên rồ” (môria) vào Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.

2.- Vị tông đồ loan báo “không phải bằng lời lẽ khôn ngoan” (1,17)

Chúng ta trở lại với hai bản văn trên:

Thánh Phaolô lấy khởi điểm là ơn gọi “tông đồ” của ngài: Đức Kitô đã cử ngài đi (apostellein) loan báo Tin Mừng (euangelizesthai), nhưng “không phải bằng lời lẽ khôn ngoan (en sophia logou), để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1,17).

Bản văn ở đây nhấn mạnh không phải trên đối tượng của lời loan báo, là Đức Kitô chịu đóng đinh, nhưng trên lời nói để loan báo, trên việc “nhà rao giảng” Phaolô truyền thông bằng lời.

Đặc tính của lời này được diễn tả theo cách tiêu cực: “không phải bằng lời lẽ khôn ngoan”.

Phaolô đang ám chỉ đến lời nói của nhà hùng biện dùng các kỹ thuật văn chương thời đó mà thuyết phục các thính giả. Vị tông đồ có ý nhấn mạnh rằng ngôn ngữ của ngài trong tư cách người loan báo không được trái ngược với đối tượng loan báo: nếu đối tượng này mang dấu ấn của sự điên rồ, thì ngôn ngữ diễn tả đối tượng ấy cũng phải tương tự như thế, do đó phải tránh tìm lối diễn tả văn chương tự đề cao như là phương tiện uy thế và khôn ngoan để thuyết phục.

Muốn vậy, người loan báo phải ký thác bản thân như những người “ngu ngốc/điên”, nói theo kiểu loài người, cho Thiên Chúa là Đấng đang hiện diện và hoạt động trong lời loan báo. Như Phaolô sẽ nói tiếp, khi đến Côrintô, “tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (2,1.4).

Nói tóm, thập giá trong giá trị biểu tượng riêng, là:

a) nội dung lời loan báo, là Đức Kitô;

b) lời của người loan báo, lời này không được vận dụng các phương thế văn chương,

nhưng cũng là c) sự gắn bó của các thính giả, được đo lường theo sự hiện diện năng động của Thánh Thần, chính Ngài có nhiệm vụ “thuyết phục” người ta tín thác vào Ngài.

Biến cố thập giá tự nó là nguồn ơn cứu độ, không cần đến các điểm tựa loài người, nói cụ thể là các khả năng sử dụng ngôn ngữ được trau chuốt cách khôn ngoan; thập giá phủ nhận khả năng cứu độ của sự khôn ngoan của loài người.

Có một lời tuyên xưng của Phaolô cần được thanh minh. Đó là 1 Cr 1,18 mà ngài dùng để chứng minh sự đúng đắn của những gì vừa nói: “Thật thế, lời của thập giá (ho logos… ho tou staurou) là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.

Chúng ta vẫn đang ở trên bình diện của người loan báo, cùng với lời của người ấy, “lời của thập giá”, nghĩa là loan báo thập giá Đức Kitô như là biến cố cứu độ. Lời này rút từ đối tượng của mình đặc điểm cho chính mình: nếu thập giá là sự điên rồ và yếu đuối đối với loài người vì họ đang xây dựng cuộc sống của họ trên lý trí, tức là từ chối lời loan báo, nhưng là sự khôn ngoan và quyền lực của Thiên Chúa được đón nhận bởi những người tin, thì lời loan báo về thập giá cũng thế: là sự điên rồ/khôn ngoan và yếu đuối/quyền năng.

Nhưng tại sao Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người bằng một chương trình điên rồ như thế dưới mắt loài người?

Bởi vì nhân loại đã khinh bỉ nẻo đường khôn ngoan của Thiên Chúa, một nẻo đường đã tỏa rạng trong công trình tạo dựng (1 Cr 1,19-21a). “Cho nên Thiên Chúa đã muốn (eudokêsen) dùng lời rao giảng điên rồ (dia tês morias tou kêrygmatos) để cứu những người tin (tous pisteuontas, conditional participle). Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ (sêmeia), còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan (sophian), thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,21-24).

Ở đây xuất hiện hết sức rõ ràng sự đối lập giữa sự khôn ngoan loài người và sự khôn ngoan Thiên Chúa, giữa những chờ đợi của loài người thấy trong hai nền văn hóa thời đó, người Do-thái thì quá thích các điềm thiêng dấu lạ, người Hy-lạp thì ham đi chinh phục sự khôn ngoan (minh triết); những chờ đợi thì khác nhau nhưng tương đương về căn bản, bởi vì nhắm đến các giá trị hữu lý của loài người, đó là sự cao cả của con người và sự thông thái của trí tuệ con người. Vị Thiên Chúa của Đấng chịu đóng đinh đang ở về triền núi bên kia và đang tự diễn tả cho thấy Ngài ở về bên ấy, và con người, nếu muốn đón tiếp Ngài, phải “từ chối chính mình”, như Đức Giêsu nói, không phải là phủ nhận con người theo những viễn tượng của chủ nghĩa hư vô, nhưng là phủ nhận một thứ superman (UŠbermensch), tự tạo thành chính mình, tự đủ để cứu mình, không cần bất cứ vì Thiên Chúa nào để đạt tới một cuộc sống đích thực và sâu xa.

Kinh nghiệm của các tín hữu Côrintô mang dấu ấn là thập giá và ý nghĩa biểu tượng của thập giá (1,26-31). Phaolô mời họ nhìn tới ơn gọi Thiên Chúa đã ban cho họ (klêsis): họ chẳng xuất sắc về mặt chính trị (dynatoi), về sự khôn ngoan trong trí tuệ và trong lời nói (sophoi), về gốc gác dòng dõi (eugeneis). Tắt một lời, họ không đáng giá gì về phương diện các giá trị loài người. Thế mà Thiên Chúa lại đã chọn chính họ, bởi vì các chọn lựa của Ngài được thực hiện dưới ánh sáng thập giá: chọn lựa những gì thế gian cho là điên dại (ta môra), những gì thế gian cho là yếu kém (ta asthenê), những gì thế gian cho là hèn mạt (ta agenê), những gì thế gian cho là không đáng kể (ta exouthenêmena), để không một người nào có thể tự phụ trước mặt Thiên Chúa, nhưng nhờ đó nhận ra rằng ơn cứu độ hoàn toàn là một ân ban không bao giờ họ đáng hưởng.

3.- Sự không đáng kể của người loan báo Tin Mừng

Trong tiến trình ban ơn cứu độ (1 Cr 2,1-5), ta còn có một exemplum thứ hai của thập giá và ý nghĩa biểu tượng của thập giá, như là nẻo đường mà Thiên Chúa của Đức Giêsu đi theo. Đó là dùng một con người như Phaolô mà loan báo Tin Mừng: ngài là một con người chẳng đáng kể gì, vừa sợ hãi vừa run rẩy, còn nhà hùng biện thì oai vệ. Lời của ngài chẳng giống gì với văn chương hào nhoáng của các nhà giảng thuyết lôi kéo sự chú ý của các thính giả và khiến họ phải chấp nhận quan điểm của ông. Nỗi xấu hổ và sự yếu đuối như những dấu ấn hằn sâu vào trong xác thịt của Phaolô và trong lời ngài loan báo. Do đó, nếu lời ngài nói có hữu hiệu, có làm phát sinh một cộng đoàn tín hữu, thì đấy không phải là hiệu quả do sự khôn ngoan loài người, nhưng do quyền năng Thiên Chúa.

Sự nghèo hèn của ngài trong lời ăn tiếng nói đã khiến ngài bị khinh dể khi ở tại Côrintô, và chính các tín hữu, do lóa mắt trước vẻ hấp dẫn của lời ăn tiếng nói của Apôlô, đã thích ông này hơn là ngài. Nhưng Phaolô, với một nét kiêu hãnh – không phải là một thứ khoe khoang tầm phào của loài người, nhưng là một sự hãnh diện của người tôi tớ được Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô chọn vì ân sủng –, đã phản ứng bằng cách khẳng định rằng ngài có một sự khôn ngoan đặc biệt, sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ không phải của thế gian, sự khôn ngoan về dự phóng nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ngài đã không thể truyền đạt sự khôn ngoan này cho các tín hữu Côrintô, vì họ không có khả năng lượng giá và đón nhận nó.

Còn nếu trong cuộc gặp gỡ giữa thánh tông đồ và các tín hữu Côrintô, mà vắng bóng sự khôn ngoan, điều này không do lỗi ngài, nhưng do họ. Cả hồn xác họ gắn bó với sự khôn ngoan loài người, họ đã tự khép mình lại với con đường lắng nghe Thần Khí, là Đấng duy nhất có khả năng biết “các chiều sâu của Thiên Chúa”, những chiều sâu được giấu kín trong chương trình cứu độ của Ngài nhờ Đức Kitô; Thần Khí là Đấng duy nhất có khả năng vén mở các điều này và truyền thông bằng những lời lẽ thích hợp, do chính Ngài gợi lên. Dùng một ngôn ngữ khôn ngoan để truyền thông một sự hiểu biết khôn ngoan, tất cả việc này đều ở dưới hoạt động của Thần Khí, và chỉ có thể xảy ra “giữa những người hoàn hảo”, không phải là những nhà quán quân về sự thánh thiện hay về sự trung tín thực tiễn nhưng là những tín hữu được linh hoạt bởi Thánh Thần, Đấng mạc khải các bí mật sâu xa nhất thuộc dự phóng cứu độ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa chịu đóng đinh, đồng thời là Thiên Chúa của ân sủng vô điều kiện.

Quả thật, trong Tin Mừng về thập giá, tất cả là ân sủng; “bất cứ thái độ tự hào nào của loài người, thấy mình mạnh mẽ nhờ các vốn liếng tài nguyên của mình, đều bị loại trừ, và chỉ còn lại niềm tự hào về hoạt động của Thiên Chúa nhờ trung gian là Đức Giêsu” (x. 1 Cr 1,29-30): hoạt động này, các tín hữu được hưởng nhờ do ở trong vùng ảnh hưởng của Đức Kitô (en Christô), là nguồn mạch ban cho họ sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hóa và cứu chuộc (1,30). Vị Thiên Chúa của lời rao giảng về thập giá đã tự vệ, không phải bằng cách nhường cho con người vinh quang của Đấng làm ra con người và ơn cứu độ của con người; Ngài đã là và vẫn cứ là Đấng Tạo thành và con người vẫn là loài thọ tạo”.

Hôm nay, chúng ta chỉ muốn tự hỏi về một vấn đề: khi rao giảng Lời Chúa, chúng ta thật sự tìm cách giới thiệu về Đức Kitô là Đấng đã chết và đã sống lại, giới thiệu quyền lực Thánh Thần, hay là giới thiệu bản thân chúng ta?

(Linh mục FX. Vũ Phan Long, ofm, Giám Tỉnh Dòng Phanxicô)

*********************

Trong Thánh Lễ lúc 10 giờ 15, Cha Nguyễn Minh Sang, Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế Huế, chia sẻ Tin Mừng như sau:

Trọng kính Hai Đức Cha.

Quý Cha.

Lời Chúa hôm nay gồm bài sách Esther (14 1,3-5 – 12,14) và Tin Mừng Mátthêu (7,7-12) tiếp tục mời gọi chúng ta đào sâu tâm tình và ý hướng mà Chúa Giêsu dạy môn đệ trong việc cầu nguyện.

Sau phần cầu nguyện thiết tha chân tình của Esther, một mẫu gương của lời cầu nguyện cho dân và cho bản thân mình, được Thiên Chúa nhậm lời, Hội Thánh mời gọi chúng ta đón nhận Lời dạy đặc biệt của Chúa Giêsu về cầu nguyện. Hãy tin tưởng trong lời cầu xin vì chúng ta cầu nguyện với một Thiên Chúa là Cha nhân từ. sẵn lòng ban nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.

Về việc cầu nguyện, con xin chia sẻ một đặc nét trong việc cầu nguyện của đời linh mục. Đó là Lời nguyện cầu bầu mà con đã đón nhận được từ suy tư của Đức Hồng Y Martini.

Đức Hồng Y Carlô Maria Martini, trong những bài tĩnh tâm dành cho Giám mục và Linh mục Pêru năm 2001, với chủ đề Samuen, ngài có một bài suy niệm “Sức mạnh của lời nguyện cầu bầu”, con xin ghi ra đây để chia sẻ.

1. Hình ảnh mà Samuen đã để lại trong lòng người dân Ixraen, trong các đức tính đặc thù tạo nên nhân cách của ông (ngôn sứ, thẩm phán, người phong vương (king maker), chỉ huy quân sự), đức tính cầu nguyện được nhấn mạnh nhiều nhất.

1Sm 7,2-12 ghi lại hình ảnh Samuen là người can thiệp có tầm cở ở bên cạnh Thiên Chúa. Samuen, người cầu bầu bên cạnh Thiên Chúa cho dân, đối đầu với quân thù. Dân Ixraen van xin Samuen: “Xin ông chớ ngừng kêu lên Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, để Người cứu chúng tôi khỏi tay người Philitinh” (1Sm 7.7-12).

Các thủ lĩnh của Ixraenddeeuf là những người cầu bầu có tầm cỡ. Sách Thánh cho ta biết điều đó.

Kinh Thánh giới thiệu các gương mặt cầu bầu lớn: Abraham cầu bầu cho Xôđôma và Gômôra; Môsê và Aharôn cầu bầu cho dân Ixraen được mô tả trong TV 106.

Êdêkien (22.25-31) ghi lại lời than vãn của Thiên Chúa không tìm thấy một người nào bỏ ra thời giờ để giơ tay cầu nguyện trước Nhan Thánh, để luôn như Môsê, đứng thẳng và tích cực cầu nguyện, vào những giờ phút ác liệt nhất của trận đánh.

2. Câu hỏi nóng bỏng được đặt ra: ngày nay, trong Hội Thánh, có còn những người cầu thay nguyện giúp, hay chỉ toàn là những người tự cho mình là Ngôn sứ, những chuyên gia để thảo ra những chương trình mục vụ, kế hoạch xây dựng, luôn có những giải pháp nhanh chóng, dĩ nhiên là khác với những người khác!!

3. Đức Hồng Y đề nghị: Linh mục là mục tử, trước hết phải là những người can thiệp bằng lời cầu nguyện.

Lịch sử Hội Thánh đã không thiếu nhiều gương Giám mục thánh thiện đã từng là những người cầu thay nguyện giúp. Dân thành Milanô vẫn gìn giữ sống động hình ảnh của thánh Giám mục Carôlô Bôrômêô, mở đường rước kiệu, hãm mình, đôi tay mang thánh giá để van xin Thiên Chúa chấm dứt nạn dịch.

Carôlô Bôrômêô là một luật gia có tầm cỡ, một nhà tổ chức đại tài, một nhà lập pháp không mệt mỏi, một ngôn sứ thật sự, nhưng ngài đã nổi tiếng như một người cầu bầu bên cạnh Thiên Chúa cho Dân Người, vào những giờ phút cam go đầy thử thách nhất.

Theo thiển ý của Đức Hồng Y Martini, Thiên Chúa yêu cầu linh mục chúng ta, trước hết, là những người “cầu thay nguyện giúp” cho những người mà chúng ta có trách nhiệm và cho toàn thể Hội Thánh. Hãy giơ đôi tay lên, cầu xin cho chúng ta, cho dân mà chúng ta là thành phần, để khi phục vụ với tư cách là ngôn sứ và thầy dạy, chúng ta thật sự tiến hành theo hoạch định của Thiên Chúa.

4. Thánh Phaolô, mở đầu hoặc kết thúc các thư, đều có lời cầu xin: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô, ban cho anh em ân sủng và bình an.”

5. Hãy chiêm ngắm Đức Giêsu, người cầu bầu điển hình. Hãy đặt mình trước Đức Giêsu, tư tế thượng phẩm, người cầu bầu lớn cho nhân loại.

Tân Ước giới thiệu Ngài, đặc biệt trong Thư gởi tín hữu Rôma (8,34):

- “Có Thiên Chúa bênh dỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa và chuyển cầu cho chúng ta.”

- Trong Thư gởi tín hữu Do Thái (7,24-25): “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa.”

- Bản thể thường trực của Đức Giêsu là cầu bàu cho con người và cho nhân loại: “Đức Kitô đã vào chính cõi trời để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa, cghuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24).

Thánh Gioan Tông đồ cũng đã phát biểu về vấn đề nầy: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính. Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian” (1Ga 2,1-2).

Chiêm ngắm Đức Giêsu và xin Ngài trong lời cầu nguyện cho chúng ta, những mục tử thông phần tư tế của Ngài. Xin Ngài trong lời cầu nguyện cho chúng ta, được kết hợp vào lời cầu bầu của Ngài:

“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết Ngài là Đấng cầu thay nguyện giúp chúng con. Xin dạy chúng con trở nên những nghf chuyên cầu với Ngài và trong Ngài. Xin cho chúng con hiểu rằng nhiệm vụ đầu tiên của chúng con là van xin với Ngài cho chính mình, vì tội lỗi của mình và của toàn dân, để trái tim chúng con được thanh luyện, cũng như trái tim của những ai chúng con đang có trách nhiệm. Amen.”

****************

Đề tài tĩnh tâm được hướng dẫn ban chiều là:

TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta” (Rm 8,31-39)

Đọc từ đầu ch. 8 Rôma, chúng ta ghi nhận được phương diện tích cực của công trình cứu chuộc được Chúa Kitô thực hiện. Một câu như Rm 8,16 thật rất an ủi: “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (x. Gl 4,6), bởi vì chính Thần Khí đã được ban vào lòng chúng ta để giúp chúng ta kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15; x. 5,5).

Trong chương 8, thánh tông đồ cho thấy rằng chương trình của Thiên Chúa rất mạch lạc: Nếu Thiên Chúa gọi loài người đến nhận đức tin và ơn công chính hóa trong bí tích rửa tội, là vì Người nhắm ban cho họ hưởng phúc vinh quang; ngài như thấy họ đã được nhận lấy vinh quang ấy trong Chúa Kitô Phục Sinh: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,30). Các câu 31-39 nói đến đỉnh cao của công trình này, bằng cách ca tụng với giọng điệu trữ tình sự tuyệt vời của tình huống mới.

Lời biện hộ cuối cùng để bảo vệ tình yêu

Tuy nhiên, các câu 31-39 không phải là một bài “thánh ca” chúc tụng tình yêu của Thiên Chúa (như cha S. Lyonnet đã nghĩ), bởi vì từ vựng thánh Phaolô chọn không phải là từ vựng của một bài ca chúc tụng trong Phụng vụ, mà là ngôn ngữ của ngành tư pháp (Légasse). Toàn bản văn mang dấu ấn pháp lý do bốn từ ngữ: buộc tội, làm cho nên công chính, kết án và chuyển cầu.

Ngoài ra, phương pháp diễn từ là phương pháp tiêu biểu của lối văn “công kích” (diatribe) trong văn chương Hy-lạp: trong lối văn này, tác giả ngỏ lời với một người đối thoại tưởng tượng, liên tục đặt ra cho người ấy những câu hỏi và đề nghị những câu trả lời rõ ràng.

Thật ra, toàn Thư Rôma vẫn có ngôn ngữ pháp đình lẫn phương pháp đặt vấn đề thôi thúc độc giả; nhưng riêng ở đây, thánh Tông đồ đưa giáo huấn của ngài lên tới đỉnh cao.

Như vậy, bầu khí của bản văn là bầu khí một phòng xử án (Fitzmyer) trong đó thánh Phaolô, như một luật sư đại tài, nói lên lời biện hộ cuối cùng nhằm bảo vệ tình yêu Thiên Chúa, một kiểu “tóm kết” (peroratio), trong đó sau khi đã giải thích cho thấy vị “Thiên-Chúa-cho-chúng-ta” đã làm gì, ngài vận dụng tất cả xác tín cá nhân mạnh mẽ của ngài mà nhắc lại quyền chúa tể tuyệt đối của Thiên Chúa.

Bản văn được dẫn bằng một câu hỏi mang tính tu từ đơn giản (c. 31a). Sau đó, toàn bản văn được cấu trúc thành ba thì:

- trước tiên, tác giả triển khai một lập luận nhằm chứng minh (cc. 31b-32);

- rồi ngài đề nghị ba câu hỏi và cống hiến ba câu trả lời tương ứng (cc. 33-37);

- cuối cùng, ngài trình bày kết luận long trọng của cá nhân ngài (cc. 38-39).

1.- Dẫn nhập

“Vậy còn phải nói gì thêm nữa (= sẽ nói gì về những điều ấy)?” (c. 31a).

Dùng lối hành văn quen thuộc là một câu hỏi đặt ra cho độc giả, thánh Tông đồ chuyển sang một thì văn chương mới và lôi kéo sự chú ý của người đang lắng nghe lập luận của ngài.

Công thức “Còn phải nói gì thêm nữa?” rất thường xuất hiện trong Rm (3,5; 4,1; 6,1; 7,7; 9,14.30), và lại không có mặt tại chỗ nào khác trong Tân Ước.

Nói chung, công thức này được dùng để đưa vào một ý tưởng sai lạc mà tác giả sẽ minh giải với mục tiêu là phi bác. Chẳng hạn sau khi nghe nói rằng ân sủng càng dồi dào gấp bội tại nơi nào tội lỗi gia tăng (5,20), độc giả dễ mà rút ra một hệ luận sai lầm, kiểu “Ta hãy ở lại trong tội, để ân sủng được gia tăng” (6,1). Với một sai lầm như thế, Phaolô đưa ra một phản ứng cứng rắn để đối lại: “Không phải thế! (= Đừng nói gở! Tuyệt đối không! Ước gì đừng có bao giờ như thế! [mê génoito])” (3,6; 6,2; 7,7; 9,14).

Ngược lại, trong trường hợp ở đây, công thức ấy được dùng để tạo ra một dây liên kết giữa những gì đã được nói đến và những gì sẽ được thêm vào liền sau đó để làm kết luận.

Công thức “những điều ấy” vừa nêu bật sự tiếp nối của bài diễn từ với phần trước, vừa cho thấy là tác giả có ý thêm vào một điều gì đó nữa. Quả thế, Phaolô lấy lại và kết luận bài diễn từ về tình yêu (agapê) mà Thiên Chúa “đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (5,5): bây giờ, sau phần trình bày đời sống Kitô hữu hoàn toàn được Thánh Thần hướng dẫn, thánh Tông đồ nhắc lại rằng Thiên Chúa ban bằng chứng về tình yêu của Người đối với chúng ta trong sự kiện là Đức Kitô đã chết “vì chúng ta” khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi (5,8). Nhưng ngài thêm, như là đỉnh cao cuối cùng, rằng sự can thiệp của tình yêu này là tuyệt đối, thường hằng và phổ quát.

2.- Lập luận chứng minh

“Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (cc. 31b-32).

a) “Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta”

Phần suy tư bắt đầu với một câu hỏi, nhưng thật ra là một khẳng định có tính khoa trương. Quả thế, điều kiện được diễn tả ra ở đầu thật ra là nền tảng của xác tín Phaolô và là nguyên nhân của tất cả những gì vừa được nói đến.

Để nêu rõ hơn nữa sự kiện này, chúng ta thử thay đổi cách diễn tả, để lối lập luận của Phaolô là như sau: “Bởi vì Thiên Chúa ở về phía chúng ta, ai còn có thể chống lại chúng ta?”. Rõ ràng là không có ai cả!

Vậy công thức đầu tiên đáng được quan tâm đặc biệt, bởi vì nó đề nghị một ý tưởng nền tảng: “Thiên Chúa là cho / vì (hyper) ta (= bênh đỡ; phò)”.

Thánh Tông đồ đang nghĩ tới niềm tin Kinh Thánh nói rằng có Đức Chúa đồng hành với và giúp đỡ, ta có đủ sức đương đầu với các khó khăn: x. Tv 23,4: “Dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng…”; x. Tv 118,6-7.

Giới từ hyper đi xa hơn ý tưởng “sự đồng hành” được diễn tả bởi giới từ meta (với): chính Thiên Chúa “chiếu cố đến”, nghĩa là đứng về phía chúng ta, lấy lập trường mà bảo vệ chúng ta.

Vậy điểm khởi hành là hình ảnh thánh Phaolô nói về Thiên Chúa: Người “chiếu cố đến con người”. Quả thật, đại từ “chúng ta” không quy chiếu về một nhóm nào riêng biệt, mà quy chiếu về toàn thể nhân loại.

Thay vì giới thiệu một vị thần dửng dưng hoặc thù nghịch với con người, thánh Tông đồ mạnh mẽ nhắc lại rằng Thiên Chúa ở về phía con người, và tất cả những gì Ngài đã làm trong lịch sử, Ngài đã làm “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”.

Vậy, “ai còn chống lại (kata) được chúng ta?” Không một sức mạnh nào có thể chống lại ý muốn cứu độ của Thiên Chúa.

Ngôn ngữ thuộc về pháp đình và dường như nhắm đến các chứng từ đưa ra “chống lại chúng ta” để đưa chúng ta đến chỗ bị kết án trong khi xét xử, đúng y như chuyện đã xảy ra trong cuộc xử án Đức Giêsu (x. Mt 28,62; 27,13; Mc 14,60). Nhưng Thiên Chúa, là Thẩm phán, Ngài không để mình bị lung lạc. Ngài muốn chúng ta được cứu độ và Ngài sẽ thành công! Không trở ngại nào có thể ngăn cản được Ngài.

b) Thiên Chúa “đã trao nộp Con Một”

Làm thế nào mà thánh Phaolô có thể chắc chắn như thế? Sức mạnh của lập luận của ngài dựa trên những gì đã xảy ra: quả vậy, đây không phải là một việc lấy lập trường kiểu ý thức hệ, nhưng là một suy nghĩ về lịch sử cứu độ. Nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm người, đã chết và đã sống lại, thánh Tông đồ nhận ra bằng chứng là “Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta”: chính hoàn cảnh lịch sử và cá nhân của Đức Giêsu vén mở cho thấy ý định sâu xa của Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Quả vậy, đàng sau hoàn cảnh sống của Đức Giêsu (Chúa Con), có kế hoạch hành động của chính Thiên Chúa (Chúa Cha). Hành động của Thiên Chúa được trình bày trước tiên dưới phương diện tiêu cực (“cũng chẳng tha”), rồi dưới phương diện tích cực (“nhưng đã trao nộp”).

Tất cả sự chú ý của tác giả, đúng ra, nhắm vào việc diễn tả sự kiện cách tích cực, tập trung vào động từ “trao nộp” (paradidomi).

Một giáo huấn tương tự đã được trình bày ở cuối chương 4 trong một công thức Kitô hữu rất đậm đặc: “Người (= Đức Giêsu) chính là Đấng đã bị trao nộp (paredothe) vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).

Hình ảnh này rất có thể dẫn xuất từ việc đọc lại Is 53 theo cách Kitô giáo theo Bản dịch LXX, coi đó là biến cố nói về Đấng Mêsia Giêsu, chết để đền tội cho dân: “Đức Chúa đã đổ trên đầu người (paredoken) tội lỗi của tất cả chúng ta” (Is 53,6); “nó đã hiến thân (paredothe) chịu chết … đã mang lấy (paredothe) tội muôn người” (Is 53,12).

Bằng cách đó, Phaolô muốn nhắc lại sáng kiến của Thiên Chúa trong cái chết cứu chuộc của Đức Giêsu, là con “riêng” (idios) của Thiên Chúa, chứ không phải là dưỡng tử như tất cả những người được cứu chuộc: thập giá không phải là một chuyện ngẫu nhiên, một tai nạn, nhưng là sự hoàn tất một kế hoạch Thiên Chúa muốn có. Tuy nhiên, ta không thể nói rằng Chúa Cha đã trực tiếp muốn có cái chết của Con: trách nhiệm của việc giết người này thuộc về một vài người xấu, đã gây ra một chuyện bất công lớn nhất.

Thế nhưng trong biến cố bi thương này, ta nhận ra “ân ban” của Chúa Cha, như là bằng chứng về tình yêu vô biên của Ngài đối với nhân loại. Thiên Chúa không thể nào làm hơn thế nữa, để chứng tỏ cho loài người thấy là Ngài yêu thương họ, Ngài “yêu thương họ đến chết”, chịu để người ta sát hại mình mà không dùng vũ lực để đối phó.

Ngoài ra, thánh Tông đồ nhận xét, Chúa Cha đã phó nộp Con “vì (hyper) chúng ta”, nghĩa là do chiếu cố đến chúng ta. Bằng các sự kiện, Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy rằng Ngài ở về phía chúng ta.

Thánh Tôma đã giải thích cách thuyết phục:

- “Chắc chắn Chúa Cha đã không “trao nộp” Con của Ngài như kiểu Philatô hay Giuđa đã làm; Ngài đã “trao nộp” Con theo nghĩa là Ngài “đã quyết định rằng Chúa Con sẽ nhập thể và chịu đau khổ”, và như thế không phải bằng cách như từ bên ngoài áp đặt một cái chết mà Người không sẵn sàng chấp nhận, điều này sẽ là “bất công và độc ác”, nhưng bằng cách chuyển thông cho ý chí nhân loại của Chúa Con một mức độ tình yêu sao cho Chúa Con hoàn toàn sẵn sàng chịu khổ nạn”. Hoặc, ở chỗ khác: “Chúa Cha đã không ép buộc Con mình chết trái ý Người, nhưng Chúa Cha đã thỏa ý khi Chúa Con vui lòng chấp nhận chết vì yêu thương, một tình yêu mà chính Chúa Cha thực hiện trong tâm hồn của Đức Kitô”.

Vậy, suy tư của thánh Phaolô dựa trên một lập luận a fortiori, rất quen thuộc, được ngành chú giải Do-thái gọi là qal wahomer, tiến hành từ một sự kiện to lớn hơn để chứng minh một điều tương tự nhỏ hơn. Điều lớn lao nhất mà Ngài có thể cho, Thiên Chúa đã cho rồi; thế nên thật lô-gích nếu suy ra là Ngài cũng sẽ cho cả phần còn lại.

Tư tưởng liền mở ra thành một câu hỏi tu từ, có giá trị như một khẳng định chắc chắn: “Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban (charisetai) chúng ta?” (c. 32). Trong trường hợp này, động từ Hy-lạp được sử dụng để diễn tả ân ban là động từ nói về “ân huệ” (charis): Người Con Giêsu là ân sủng, quà tặng cao quý nhất; không những thế, Người còn trở thành nguồn suối thường xuyên trao ban các ân sủng, bởi vì chính là do ở-với-Người mà phát xuất ra cho người tín hữu mọi điều thiện hảo.

3.- Ba câu hỏi và ba câu trả lời

a) Câu hỏi – câu trả lời đầu tiên

“Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?” (8,33)

Đến đây tác giả thay đổi giọng văn, chuyển đi từ lý luận sang đối thoại với độc giả; nhưng ngài tiếp tục triển khai cùng một tư tưởng. Với ba câu hỏi thúc bách, ngài muốn nhắc lại sức mạnh chung quyết mà công trình cứu chuộc có được.

Không một ai, lúc này hoặc mãi mãi, sẽ dám “buộc tội” (en-kaleô) những người mà Thiên Chúa đã tuyển chọn (x. 8,30): động từ này là tiêu biểu của tòa án, là việc gọi ra tòa. Phaolô dùng động từ này, trong khi vẫn theo đuổi lược đồ tư pháp, để mạnh mẽ loại trừ mọi khả năng mới là quy trách cho con người, sau công trình công chính hóa.

Công thức ngắn gọn tiếp theo như là câu trả lời có tính hàm hồ.

Trong cách diễn tả Hy-lạp, tên Thiên Chúa có kèm theo phân từ dùng như danh ngữ của động từ “công chính hóa”, nên có thể dịch sát là “Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính”. Thì hiện tại nêu bật một sự kiện quan trọng: công trình của Thiên Chúa tiếp tục trong thời gian và được đổi mới liên tục trong kinh nghiệm của mỗi người.

Bây giờ công thức này có thể được hiểu như là một khẳng định loại bỏ mọi khả năng buộc tội: Kể từ khi Thiên Chúa đã “làm cho nên công chính”, thì không còn ai có thể tuyên bố “có tội”. Hoặc có thể hiểu công thức này như một câu hỏi tu từ, rõ ràng là không thể xảy ra: phải chăng lại chính Thiên Chúa sẽ buộc tội? Nhưng nếu Thiên Chúa “là Đấng làm cho nên công chính”, thì làm sao Ngài lại có thể kết tội? Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa không thay đổi.

b) Câu hỏi – câu trả lời thứ hai

“Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (8,34)

Câu hỏi thứ hai song song chặt chẽ với câu hỏi đầu. Tương ứng với động từ “buộc tội” là động từ “kết án” (kata-krinô), diễn tả một lời tuyên án chống lại (kata) bị cáo: không một ai có thể làm chứng chống lại chúng ta đến độ đạt được một án xử bất lợi cho chúng ta. Ngược lại, trong câu trả lời có một điểm mới, tuy vẫn tôn trọng sự song song: thêm vào công trình của Thiên Chúa, nay có công trình của Đức Kitô. Cả trong trường hợp này nữa, ta thấy lặp lại hai khả năng giải thích là khẳng định hoặc câu hỏi tu từ, nhưng ý nghĩa vẫn y nguyên. Đức Kitô Giêsu là bằng chứng sống động cho thấy Thiên Chúa chiếu cố đến chúng ta: Ngài muốn chúng ta được cứu độ chứ không phải là bị lên án.

Để nêu cho thấy công việc Đức Giêsu đã làm thì sinh lợi cho chúng ta, thánh Phaolô vận dụng bốn động từ, quy về những phương diện khác của can thiệp ban ơn cứu độ của Đức Giêsu:

(1) Đức Giêsu là “Đấng đã chết” một cái chết như là hy lễ đền tội, nguyên nhân đưa tới ơn cứu độ;

(2) Đức Kitô là Đấng đã sống lại: cuộc phục sinh của Người được liên kết chặt chẽ với việc công chính hóa chúng ta (x. 4,25);

(3) Đức Kitô phục sinh hiện nay đang ở bên hữu Thiên Chúa, tức có vai trò danh giá và quyền thế, chủ tể vũ hoàn, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa và thực hiện chương trình cứu độ hoàn vũ;

(4) Người “chuyển cầu” (en-tynchanô) cho nhân loại; đây là hành vi chống án để đạt công lý (x. Cv 25,24). Lần thứ ba, trong vòng vài câu, công thức hyper hêmôn (“vì chúng ta”) lại được nhắc lại: lời chuyển cầu của Đấng Phục Sinh nơi thiên quốc là một cam kết rằng Thiên Chúa ở về phía chúng ta: Đức Kitô không những nói để biện hộ những kẻ có tội bị tố cáo, nhưng còn nâng đỡ và yểm trợ những người đã được làm cho nên công chính.

c) Câu hỏi – câu trả lời thứ ba

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (8,35-37).

Lần thứ ba, thánh Phaolô nêu ra cho người đối thoại một câu hỏi tu từ để xác nhận lần cuối giáo huấn của ngài: ở đây, công trình cứu chuộc được gợi lại như là “lòng mến (agapê) của Đức Kitô” (x. Gl 2,20).

Trong đoạn văn trên, thánh nhân dùng một động từ đặc biệt, chôrizô: Tân Ước dùng để nói về hành vi chia lìa các đôi vợ chồng (x. Mc 10,9; Mt 19,6; 1 Cr 7,10.11.15). Thánh nhân gợi lại một sự hợp nhất sâu xa đang liên kết chúng ta với Chúa Kitô trong sức mạnh của tình yêu Người.

Để làm ví dụ, thánh tông đồ liệt kê ra bảy “thứ”, như là tất cả (“bảy”) những nguyên nhân có thể gây ra sự chia lìa.

Ba từ đầu gợi lên những hoàn cảnh tổng quát với các thử thách các Kitô hữu tiên khởi phải chịu vì đức tin:

1) gian truân (thlipsis),

2) khốn khổ (stenochôria),

3) bắt bớ (diôgmos),

các từ khác nêu lên những trường hợp đặc biệt khó khăn mà các tông đồ phải chịu khi đi rao giảng:

4) đói khát (limos),

5) trần truồng (gymnotês),

6) hiểm nguy (kindynos) (x. 2 Cr 11,26-27).

Từ ngữ thứ bảy (machaira), “gươm [giáo]”, là đỉnh cao của tất cả, vì là vũ khí để xử tử.

Tất cả những khó khăn có thể có và những bách hại do con người không thể chia cắt người tín hữu với Chúa Kitô. Sẽ không có ai có thể chia cắt vị Tông đồ khỏi tình yêu của Chúa Kitô. Xác tín ấy được nhấn mạnh thêm với câu trích Tv 44, diễn tả thân phận người bị bách hại như con chiên bị đưa tới lò sát.

Tiếp câu hỏi là một câu trả lời rõ ràng trong đó thánh nhân nhắc lại những gì đã nói ở Rm 8,18 liên hệ đến các “đau khổ đời này”. Chính là trong các cuộc “chiến đấu” mà ta có thể đạt chiến thắng và trong tất cả các hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta toàn thắng (hyper-nikômen), nghĩa là đạt một thành công phi thường về phương diện con người.

4.- Kết luận riêng

“Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được (chorisai) chúng ta ra khỏi tình yêu (apo tês agapês) của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (cc. 38-39).

Đến cuối phần lý luận khách quan, thánh Phaolô thêm vào xác tín riêng của ngài: “Tôi xác tín và tôi vẫn chắc chắn”.

Để tạo dây liên kết chặt chẽ với những gì đã được nói, tác giả nhắc lại động tù “tách ra” (chorisai), danh từ “tình yêu” (agapê) và lại nêu ra một danh mục các ngăn trở có thể có, nhưng với ít ra là hai điều mới. Tình yêu được liên kết trực tiếp với Thiên Chúa (Cha) và được xác định là “trong” Đức Kitô Giêsu, tình yêu ấy được bày tỏ ra trong lịch sử.

Ngoài ra, danh sách các trở ngại lần này được nới thành mười từ và là các sức mạnh siêu phàm:

1) sự chết (thanatos),

2) sự sống (zơê),

3) thiên thần (angeloi),

4) thiêên phủ (archai),

5) hiện tại (enestơta),

6) tương lai (mellonta),

7) quyền năng (dynameis),

8) chiều cao (hypsơma),

9) chiều sâu (bathos),

10) bất cứ tạo vật nào khác (tis ktisis hetera).

Thánh nhân chỉ nêu một mẫu các ví dụ thôi. Phải chăng ngài có ý khai thác ý nghĩa của số 10 như là một con số tuy lớn nhưng vẫn giới hạn (x. Kh 2,10; 12,3)?

Danh mục bắt đầu bằng một lời nói tổng quát để nhắc lại đe dọa của cái chết, có thể làm cho tín hữu sợ hãi, đi đến chỗ khước từ đức tin để cứu lấy mạng sống.

Rồi danh mục tiếp tục với ngôn ngữ huyền bí mà nhắm đến hoạt động xấu xa của ma quỷ (thiên thần, thiên phủ, các lực lượng), rất có thể tạo ra những khó khăn cho các cộng đoàn Kitô hữu.

Kế đó, danh mục nêu ra thời gian được nhân cách hóa (hiện tại và tương lai), để chỉ bất cứ hoàn cảnh nào có thể xảy ra dọc theo năm tháng và các thời đại, làm đảo lộn đời sống các tín hữu.

Cuối cùng danh mục nới rộng cái nhìn ra toàn vũ trụ, nhắc đến các thần linh thiên quốc (chiều cao) và dưới âm phủ (chiều sâu), cũng như mọi thụ tạo, để hết sức mạnh mẽ nhắc lại tính tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa: không có gì, không một ai, không bao giờ! Tình yêu của Thiên Chúa và của Chúa Kitô đối với chúng ta chống lại được bất cứ khoảng cách nào và mạnh hơn thậm chí cái chết.

***

Như thế trở ngại duy nhất về phía chúng ta, chính là không muốn được yêu thương, bởi vì Thiên Chúa tôn trọng chúng ta đủ để không bao giờ áp đặt tình yêu của Ngài cho chúng ta.

(Linh mục FX. Vũ Phan Long, ofm, Giám Tỉnh Dòng Phanxicô)

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang tường thuật