Thánh Án Khảm là thân sinh của thánh Cai Thìn, là chú ruột của thánh Cai Tả nên thường gọi gia đình diễm phúc có ba thánh này là “Nhất Gia Tam Thánh”. Các Ngài là những tấm gương mẫu mực cho mọi người. Dừng lại ở thời điểm nào trong cuộc đời các Ngài, chúng ta đều thấy những điều đáng trân trọng, đáng để chúng ta học tập.

3 Thánh Quần Cống
Khi còn để chỏm, các Ngài là những cậu bé vô tư, tinh nghịch, luôn bình dị như bao trẻ thơ khác nhưng nổi bật về sự khôn ngoan, đạo hạnh.

Khi trưởng thành, các Ngài đã sớm tỏa sáng nhờ ham học, tài cao, sớm đỗ đạt làm quan để góp phần làm nên mảnh đất “Quần Cống”, xứng đáng với danh xưng nhà vua đã phong ban.

Thánh Án Khảm được biết đến là vị quan thanh liêm, một tiên chỉ làng mẫu mực, một người cha chu toàn trách nhiệm.

Thánh Cai Tả như phản chiếu hình ảnh của thánh Giuse “nói ít làm nhiều” và khi làm quan, vẫn luôn dành tình thương yêu cao cả cho quê hương, xứ đạo và những người cô thế cô thân.

Thánh Cai Thìn đã làm nên một Quần Cống với nhiều gam màu hơn. Ngài tiêu biểu cho nét hào hoa, phong lưu của trai làng Quần Cống nhưng đã biết hối cải khi phạm sai lầm, biết đứng dậy khi vấp ngã.

Khi cuộc bách hại lên đến đỉnh điểm, các Ngài đã biểu tỏ một đức tin sắt đá và một lòng mến Chúa, yêu người thiết tha.

Thánh Án Khảm, tuy đã già nhưng vẫn cứng cỏi: “Thằng nào quá khoá, lôi ra khỏi làng, thằng ấy có chết thì làng không chôn”.

Thánh Cai Tả thì luôn trung kiên, không ồn ào, manh động nhưng lặng lẽ đến lạnh lùng trước những lời dụ dỗ ngon ngọt của vua quan và coi “hành động bước qua Thánh giá là một điều đáng ghê tởm”.

Thánh Cai Thìn thì được biết đến như một người sẵn sàng từ bỏ mọi thú vui, giàu sang phú quý để “có Chúa làm gia nghiệp”.

Cuộc đời lữ hành của các Ngài khép lại đã mở ra cho chúng ta bao điều đáng để học tập, trân trọng, gìn giữ. Các Ngài đã chấp nhận là những người ngu ngốc theo lẽ đời để được khôn ngoan trước mặt Chúa. Hãy cố gắng sống tốt noi gương các Ngài để khi kết thúc cuộc đời lữ hành trần gian, chúng ta được cùng các Ngài “ăn Tết” trên Thiên đàng.

--o-0-o--

THÁNH ĐAMINH PHẠM TRỌNG KHẢM (1777-1859) sinh trưởng trong một gia đình bảy anh em giàu có tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ (nay là Thọ Nghiệp), huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là cụ Phạm Đức Phiêu hay còn gọi là cụ Bá Phiêu, một hương quan tài cao đức trọng, được dân làng yêu mến. Từ nhỏ, cậu Khảm nổi tiếng là người con có hiếu, chăm ngoan, đạo đức, được mọi người khen là “nhân trí minh tinh”, “thần đồng Quần Cống”. Cậu thi cử đỗ đạt cao và được nhà vua phong làm Quan Án Sát Tỉnh Thiên Trường. Năm 18 tuổi, cậu kết hôn với cô Anê Phượng- một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống rất thuận hoà, sinh hạ được năm con: nhị nam, tam nữ. Tất cả đều tài giỏi, đạo đức. Khi bị bắt, cụ Án Khảm đã 82 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng, vừa là hội viên dòng Ba Đaminh, lại kiêm chức chánh trương Giáo xứ.

Dù ở hoàn cảnh, địa vị nào, cụ cũng là người rất có trách nhiệm. Cụ nổi tiếng là vị quan liêm khiết, công minh. Với giáo xứ, cụ cộng tác đắc lực với cha xứ trong việc điều hành, tổ chức giáo xứ. Với xóm làng, cụ luôn quan tâm đến nhu cầu của mọi người, đặc biệt cụ cố gắng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bà con sống đạo, giữ các hương ước của làng, luôn sẵn sàng chia sẻ của cải cho những ai nghèo khó, “kiếm cớ” để đãi cả làng và khích lệ mọi người cam đảm trước những cuộc bách đạo gay gắt của triều đình.

THÁNH GIUSE PHẠM TRỌNG TẢ (1800-1859) sinh quán tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cậu là con trai cụ Phạm Đức An, anh ruột cụ Án Khảm. Cụ An mất sớm, thương tình chị dâu, cụ Án Khảm thay anh nhận nuôi và dạy dỗ cháu Tả rất chu đáo. Được lớn lên trong gia đình đạo đức, có giáo dục, cộng với trí thông minh và sự chuyên cần học hỏi, cậu Tả đã đỗ đạt làm quan Cai. Đến tuổi trưởng thành, cậu lập gia đình với một thiếu nữ đạo hạnh và sinh được ba người con. Cũng giống thúc bá Án Khảm, quan Cai Thìn là một Kitô hữu đạo đức, một hội viên dòng Ba Đaminh mẫu mực. Ông luôn tìm cách giúp đỡ mọi người sống đạo, cách riêng trong hoàn cảnh khó khăn của thời kỳ cấm đạo. Ông làm ơn nhưng không mong được đền đáp. Ông nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình”.

THÁNH LUCA PHẠM TRỌNG THÌN (1816-1859) là con trai thứ cụ Án Khảm. Dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn được may mắn thừa hưởng sự khôn ngoan, thanh liêm của cha, đời sống mẫu mực, đạo đức, hiền lành của mẹ, nên ngay từ nhỏ, cậu rất đạo đức, thông minh, tính tình nhanh nhẹn và có tài ăn nói. Học hành tiến bộ, đỗ đạt cao, cậu được bổ nhiệm làm Quan Tổng Cai Binh Đoàn Nam Chấn, rất uy tín và quyền thế. Thực ra, khi mới lên làm quan tổng, vì giao tiếp với quan lại nhiều, lại rơi vào thời điểm xã hội suy thoái, đã có thời kỳ ông có vợ bé tên là Trung, người làng Trà Lũ. Đời sống đạo của ông lúc này khá thờ ơ, lãnh đạm. Nhưng nhờ lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đã thành tâm quay trở lại con đường chân chính, trở thành một kitô hữu nghiêm túc, một gia trưởng có trách nhiệm và một hội viên dòng Ba Đaminh chuyên cần.

--o-0-o--

Năm 1858, tình hình bắt đạo ngày một càng gia tăng, liên quân Pháp đe dọa Việt Nam ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ, ra lệnh cho các quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo Gia tô. Nhưng việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan địa phương có triệt để áp dụng hay không. Lợi dụng điều đó, được sự uỷ thác của đức cha Xuyên, hai ông Cai Tả và Cai Thìn lãnh trọng trách làm sứ giả hoà bình đi thương thuyết với quan tổng đốc Nam định lúc ấy là Phan Bá Đạt. Cuộc thương thuyết gần đến chỗ thành công thì có cuộc nổi dậy tại Cao Xá đã khiến quan Tổng tổng đổi ý và còn nghi ngờ hai ông có ý lừa dối.

Sau 5 lần quan lính về làng Quần Cống truy lùng các vị thừa sai, đạo trưởng, bắt toàn bộ người dân tập trung tại đình làng để răn đe, hăm dọa, bắt bỏ đạo. Quan tổng đốc cho đặt một cây Thánh giá giữa sân đình, bắt mọi người lần lượt bước qua. Biết thế, cụ Án lao nhanh ra và quát to: “Thằng nào quá khoá, lôi ra khỏi làng, thằng ấy có chết thì làng không chôn”. Toàn thể dân làng hôm ấy, không một người nào quá khoá. Thấy vậy, quan lính đã có đủ bằng chứng để bắt cụ Án cùng với một số người trong đó có quan Cai Tả.

Về phần quan Cai Thìn ở thời điểm đó, do thân thiết với những quan lại, cuộc sống của ông vẫn khá bình thản, “êm đềm với yến tiệc vui vẻ”. Tuy nhiên, khi biết được tin bố và anh bị bắt, ông tức tốc trở về làng. Thấy cảnh hoang tàn, vắng lặng ông mới nhận ra mình thật có lỗi, đã tìm đến quan tổng đốc để cứu cha, cứu anh và bày tỏ thái độ bất khẳng quá khoá. Quan tổng đốc sai lính trói ông lại, tống giam vào ngục cùng với bố và anh là thánh Án Khảm và Cai Tả.

Ngày 13 tháng 01 năm 1859, cả ba vị lãnh án xử giảo. Trên đường ra pháp trường Bảy Mẫu, các vị đã lớn tiếng đọc kinh, kêu cầu danh Đức Giêsu. Quan lính mạnh tay đẩy các vị ngã trên đất, rồi trói chân tay các Ngài vào cột chôn sẵn. Mỗi vị bị bốn tên lính cầm hai đầu dây thừng tròng qua cổ mà kéo thật mạnh cho đến tắt thở. Cả ba đều được giáo hữu Quần Cống rước về làng an táng trọng thể.

Đức thánh cha Piô XII suy tôn ba vị lên bậc chân phước ngày 29 tháng 04 năm 1951. Đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong các ngài lên hàng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Trong dịp kỷ niệm 150 năm ngày ba Thánh được lãnh triều thiên Tử Đạo, nhờ ơn rộng Hội Thánh ban, giáo xứ Quần Cống đã long trọng khai mạc Năm Thánh.