VỀ VIỆC CỬ HÀNH NĂM THÁNH PHAO-LÔ TẠI GIÁO PHẬN THÁI BÌNH
Chúng tôi vừ nhận được Thông cáo (số 2) của Tòa Giám Mục Thái Bình như sau:
1 - Trong thông cáo số 1, Tòa Giám Mục đã đề ra một số việc phải làm trong Năm Thánh để lĩnh ơn Toàn xá, bắt đầu từ 28/6/2008 đến 29/6/2009. Thông cáo đã phổ biến sắc lệnh của Tòa thánh về các điều kiện để lĩnh ơn Toàn xá, xin các cha và anh chị em đọc lại để thi hành cho đúng. Đồng thời thông cáo cũng chỉ định một số nhà thờ được viếng để lĩnh ơn Toàn xá khi có cử hành các lễ kính Thánh Phao-lô, còn những lúc khác thì không được lĩnh ơn Toàn xá.
2 - Thông cáo cũng khuyên mọi người truy tìm các tài liệu để hiểu biết hơn về Thánh Phao-lô. Sau đây là một bài vắn tắt cho mọi thành phần dân Chúa có thể đọc và hiểu, ước mong được đưa vào các bài giáo lý của các xứ họ trong toàn giáo phận:
a) Phao-lô là tên gọi theo tiếng Hy-lạp, còn tên chính thức bằng tiếng Do thái là Saoul (Sao-lê), sinh vào năm 10 ở thành Tarse (Thổ Nhĩ Kỳ). Sử gia Eusèbe nói Thánh nhân thuộc một gia đình xứ Ga-li-lê. Còn theo Thánh Lu-ca: người sinh ra đã là công dân La-mã, một đặc quyền cho người “tỉnh lẻ”. Thánh nhân thuộc thành phần những người Do thái “di cư” - Diaspora, danh từ chỉ những người Do thái tản mác trong các lương dân. Ngài học ở Giê-ru-sa-lem với một vị tiến sĩ trứ danh là Gamaniel. Ngài nói thông thạo tiếng Do thái, Araméen và tiếng Hy-lạp. Cũng như một người Biệt phái, ngài có một nghề thủ công, đó là dệt thảm, có thể ngài đã mở một xí nghiệp nhỏ. Điều đó đem lại cho ngài đôi chút tiền bạc cần thiết cho các chuyến đi. Bởi vì như ngài đã tuyên bố không muốn nên gánh nặng cho các anh em đồng đạo.
b) Chúng ta có hai nguồn để biết về Thánh Phao-lô, đó là các thư của ngài và sách Tông đồ công vụ. Ngài tự định nghĩa mình: “chịu cắt bì ngày thứ tám, là dòng giống Israel, bộ tộc Benjamin, con của người Do thái, phụng sự lề luật như người Do thái, nhiệt thành và bắt bớ Giáo Hội” (Pl 3,5-6). Ngài là một người say mê cuồng nhiệt bắt bớ Hội Thánh cũng như nhiệt thành đem Tin Mừng sau khi đã trở lại.
CUỘC TRỞ LẠI
Thánh Phao-lô lấy làm vấp phạm khi thấy những người Ki-tô tự hào là môn đệ của Đấng Thiên Sai bị đóng đanh (Đnl 21,23). Chính ngài đã chứng kiến cuộc tử đạo của Thánh Stê-pha-nô và đứng lên chống đối người Ki-tô như sách Tông đồ công vụ thuật lại “người tàn phá Giáo Hội, vào các nhà bắt bớ đàn ông đàn bà và tống họ vào ngục” (Cv 8,3). Không những bách hại các Ki-tô ở Giê-ru-sa-lem, ngài còn được các nhà cầm quyền trí thức bắt đi lùng bắt các người Ki-tô ở Damas. Nhưng trên đường đi, trong luồng sáng đã làm cho ngài bị mù, Chúa Giê-su đã hiện ra và phán: “Sao-lê, Sao-lê, tại sao ngươi bắt ta …?” (Cv 9,4-5.20). Chúa Giê-su đã gửi ông đến thành Damas, nơi ông được chịu phép Rửa tội do thầy cả Ananie và lại được sáng mắt. Từ đó ngài đem hết nhiệt thành công bố Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO
Bar-na-bê giới thiệu ngài với các Tông đồ ở Giê-ru-sa-lam. Ngài rút lui vào sa mạc Ả-rập trong nhiều năm. Rồi người ta lại thấy ngài trong cộng đoàn An-ti-ô-ki-a ở Sy-ri. Ở đó thánh linh truyền ngài với Bar-na-bê được “tách ra để làm công việc mà Ta sẽ sai họ phải làm” (Cv 13,2). Công việc đó là đem Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo mà thánh Phao-lô dành trót cuộc đời còn lại để đi với Bar-na-bê. Lúc đó ngài dự định làm nhiều cuộc viễn du truyền giáo: lần thứ nhất đưa ngài tới đảo Sýp, rồi tới nước Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ. Theo đúng kế hoạch tuần tự, ngài bắt đầu nói chuyện với những người Do thái tại chỗ. Sau lần đón tiếp nồng nhiệt ban đầu, ngoại trừ một số ít thường từ chối đón nhận việc ngài rao giảng về Chúa Giê-su chịu nạn và sống lại. Từ lúc đó ngài quay về dân ngoại. Ở An-ti-ô-ki-a, Thánh Phao-lô đối đầu mạnh mẽ với Thánh Phê-rô và những người Do thái cải đạo, họ muốn người ngoại giáo buộc phải giữ lề luật cũ. Ngài được sai về Giê-ru-sa-lem để giải quyết vấn đề với các môn đệ và tông đồ khác. Công đồng đầu tiên của các tông đồ quyết định không được bắt buộc chịu cắt bì đối với người Ki-tô gốc ngoại giáo.
Thư của Thánh nhân gửi người Ga-lát cũng đã đề cập đến vấn đề này một cách hết sức mạnh mẽ.
Cuộc hành trình thứ hai đưa ngài tới các cộng đoàn đã được thành lập. Ngài nằm mộng được mời gọi tới Ma-xê-đoan. Ở đó ngài đem Tin Mừng cho các thành phố thuộc Phi-lip-phê (người gửi tới đó một bức thư, gửi Thê-xa-lô-ni-ca hai thư; người gặp thất bại ở thành phố A-then-thủ đô nước Hy-lạp, rồi ngài gửi tới Cô-rin-tô nhiều thư). Tại đây ngài bị đưa ra tòa tổng trấn Ga-li-ô.
Cuộc hành trình thứ ba đưa ngài tới Ê-phê-sô, ngài ở đó hai năm. Nhưng cộng đoàn Do thái gây nên một cuộc bạo loạn và Thánh Phao-lô phải chạy trốn. Ngài quay trở lại Hy-lạp rồi về Troas (ở Thổ Nhĩ Kỳ) rồi đến Milles, nơi ngài có cuộc từ giã cảm động với các kỳ lão thành Ê-phê-sô. Mặc dù đã được cảnh báo, nhưng ngài vẫn trở về Giê-ru-sa-lem để thực hiện một cuộc khấn hứa. Ngài bị bắt tại đền thờ và bị đưa ra trước tòa viên tổng trấn Rô-ma. Sau một dãy những diễn biến để thoát khỏi tay người Do thái dọa giết chết, ngài bị giải tới hoàng đế Rô-ma để xét xử (vì ngài là công dân La-mã). Sau mấy năm bị tù ở Xê-da-rê, ngài được gửi về Rô-ma và sống một thời gian bị cầm cố tại nhà. Ngài bị chém đầu vào năm 64 hay 67.
“TIN MỪNG” CỦA THÁNH PHAO-LÔ
Cuộc ngã ngựa ở Damas gây ấn tượng sâu sắc tới Thánh Phao-lô, đó là nguồn suối thần học của ngài về nhiệm thể Chúa Ki-tô gồm tất cả mọi Ki-tô hữu.
Quả vậy, ngài không còn bách hại Chúa Giê-su đã chết mà bách hại các môn đệ. Bởi vì Chúa Giê-su đã nói với ngài “tại sao ngươi bắt bớ ta?”. Người Kitô và Chúa Ki-tô chỉ là một: “anh em là thân thể của Chúa Ki-tô mà mỗi người tùy theo bộ phận của mình, là một trong những chi thể của Người” (1 Cr 12,27).
Sau khi đã rao giảng thất bại ở Athen, Thánh Phao-lô không còn muốn biết điều gì khác ngoài Chúa Ki-tô, Đấng Thiên Sai bị đóng đinh: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Thiên Sai bị đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do thái, là điên dại đối với dân ngoại. Song đối với người được gọi, là sức mạnh của Thiên Chúa”. (1 Cr 2,13-14).
Một trung tâm nữa trong “Tin Mừng” của Thánh Phao-lô là con người không thể được cứu độ do nỗ lực riêng nhưng do ân huệ của Thiên Chúa nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Cứu Độ trong sự chết và sự sống lại của Người. Đó là tại sao ngài từ chối phép cắt bì vì từ đây chỉ có Phép Thánh Tẩy mới đưa ta vào thân thể Chúa Ki-tô. “Nhờ phép Thánh Tẩy trong cái chết của Người, chúng ta đã được mai táng với Người, để như Đức Ki-tô từ trong kẻ chết sống lại nhờ vào vinh quang của Thiên Chúa, chúng ta cũng sống một đời sống mới như vậy” (Rm 6,4). Người Ki-tô sống một đời sống tốt lành không phải là được cứu độ vì chưng họ đã được cứu độ rồi.
Trên đây là những điều sơ yếu phải học hỏi về Thánh Phao-lô, còn các linh mục và tu sĩ nam nữ còn được kêu mời nghiên cứu sâu sắc hơn về ngài. Tòa Giám mục Thái Bình giới thiệu tập bài giảng của Đức cha giáo phận đã dùng để làm tĩnh tâm năm 2001-2002 tại Thái Bình với tựa đề “Con đường giác ngộ” có in trong Giáo Huấn Mục Vụ nói với các linh mục và nam nữ tu sĩ (trang 467-636) hoặc hai tập in rời 1 và 2 cùng tựa đề “Con đường giác ngộ” (có ở nhà sách Tòa Giám mục).
Đến đây, một lần nữa Tòa Giám mục khuyên mọi đấng bậc và mọi người trong cộng đoàn chú trọng Năm Thánh Phao-lô để canh tân chính mình, nhất là đem lại sự hiệp nhất cho toàn thể Giáo Hội toàn cầu, cho Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận Thái Bình nói riêng như mục đích của Đức thánh cha đã đề ra. Nên tham dự các lễ nghi ở các xứ họ đã được chỉ định để lĩnh Ơn Toàn xá. Sau này sẽ có các Thông cáo để giúp mọi người sốt sáng sống đạo.
Thái Bình, ngày 12 tháng 7 năm 2008
Chúng tôi vừ nhận được Thông cáo (số 2) của Tòa Giám Mục Thái Bình như sau:
1 - Trong thông cáo số 1, Tòa Giám Mục đã đề ra một số việc phải làm trong Năm Thánh để lĩnh ơn Toàn xá, bắt đầu từ 28/6/2008 đến 29/6/2009. Thông cáo đã phổ biến sắc lệnh của Tòa thánh về các điều kiện để lĩnh ơn Toàn xá, xin các cha và anh chị em đọc lại để thi hành cho đúng. Đồng thời thông cáo cũng chỉ định một số nhà thờ được viếng để lĩnh ơn Toàn xá khi có cử hành các lễ kính Thánh Phao-lô, còn những lúc khác thì không được lĩnh ơn Toàn xá.
2 - Thông cáo cũng khuyên mọi người truy tìm các tài liệu để hiểu biết hơn về Thánh Phao-lô. Sau đây là một bài vắn tắt cho mọi thành phần dân Chúa có thể đọc và hiểu, ước mong được đưa vào các bài giáo lý của các xứ họ trong toàn giáo phận:
a) Phao-lô là tên gọi theo tiếng Hy-lạp, còn tên chính thức bằng tiếng Do thái là Saoul (Sao-lê), sinh vào năm 10 ở thành Tarse (Thổ Nhĩ Kỳ). Sử gia Eusèbe nói Thánh nhân thuộc một gia đình xứ Ga-li-lê. Còn theo Thánh Lu-ca: người sinh ra đã là công dân La-mã, một đặc quyền cho người “tỉnh lẻ”. Thánh nhân thuộc thành phần những người Do thái “di cư” - Diaspora, danh từ chỉ những người Do thái tản mác trong các lương dân. Ngài học ở Giê-ru-sa-lem với một vị tiến sĩ trứ danh là Gamaniel. Ngài nói thông thạo tiếng Do thái, Araméen và tiếng Hy-lạp. Cũng như một người Biệt phái, ngài có một nghề thủ công, đó là dệt thảm, có thể ngài đã mở một xí nghiệp nhỏ. Điều đó đem lại cho ngài đôi chút tiền bạc cần thiết cho các chuyến đi. Bởi vì như ngài đã tuyên bố không muốn nên gánh nặng cho các anh em đồng đạo.
b) Chúng ta có hai nguồn để biết về Thánh Phao-lô, đó là các thư của ngài và sách Tông đồ công vụ. Ngài tự định nghĩa mình: “chịu cắt bì ngày thứ tám, là dòng giống Israel, bộ tộc Benjamin, con của người Do thái, phụng sự lề luật như người Do thái, nhiệt thành và bắt bớ Giáo Hội” (Pl 3,5-6). Ngài là một người say mê cuồng nhiệt bắt bớ Hội Thánh cũng như nhiệt thành đem Tin Mừng sau khi đã trở lại.
CUỘC TRỞ LẠI
Thánh Phao-lô lấy làm vấp phạm khi thấy những người Ki-tô tự hào là môn đệ của Đấng Thiên Sai bị đóng đanh (Đnl 21,23). Chính ngài đã chứng kiến cuộc tử đạo của Thánh Stê-pha-nô và đứng lên chống đối người Ki-tô như sách Tông đồ công vụ thuật lại “người tàn phá Giáo Hội, vào các nhà bắt bớ đàn ông đàn bà và tống họ vào ngục” (Cv 8,3). Không những bách hại các Ki-tô ở Giê-ru-sa-lem, ngài còn được các nhà cầm quyền trí thức bắt đi lùng bắt các người Ki-tô ở Damas. Nhưng trên đường đi, trong luồng sáng đã làm cho ngài bị mù, Chúa Giê-su đã hiện ra và phán: “Sao-lê, Sao-lê, tại sao ngươi bắt ta …?” (Cv 9,4-5.20). Chúa Giê-su đã gửi ông đến thành Damas, nơi ông được chịu phép Rửa tội do thầy cả Ananie và lại được sáng mắt. Từ đó ngài đem hết nhiệt thành công bố Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO
Bar-na-bê giới thiệu ngài với các Tông đồ ở Giê-ru-sa-lam. Ngài rút lui vào sa mạc Ả-rập trong nhiều năm. Rồi người ta lại thấy ngài trong cộng đoàn An-ti-ô-ki-a ở Sy-ri. Ở đó thánh linh truyền ngài với Bar-na-bê được “tách ra để làm công việc mà Ta sẽ sai họ phải làm” (Cv 13,2). Công việc đó là đem Tin Mừng cho các dân tộc ngoại giáo mà thánh Phao-lô dành trót cuộc đời còn lại để đi với Bar-na-bê. Lúc đó ngài dự định làm nhiều cuộc viễn du truyền giáo: lần thứ nhất đưa ngài tới đảo Sýp, rồi tới nước Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ. Theo đúng kế hoạch tuần tự, ngài bắt đầu nói chuyện với những người Do thái tại chỗ. Sau lần đón tiếp nồng nhiệt ban đầu, ngoại trừ một số ít thường từ chối đón nhận việc ngài rao giảng về Chúa Giê-su chịu nạn và sống lại. Từ lúc đó ngài quay về dân ngoại. Ở An-ti-ô-ki-a, Thánh Phao-lô đối đầu mạnh mẽ với Thánh Phê-rô và những người Do thái cải đạo, họ muốn người ngoại giáo buộc phải giữ lề luật cũ. Ngài được sai về Giê-ru-sa-lem để giải quyết vấn đề với các môn đệ và tông đồ khác. Công đồng đầu tiên của các tông đồ quyết định không được bắt buộc chịu cắt bì đối với người Ki-tô gốc ngoại giáo.
Thư của Thánh nhân gửi người Ga-lát cũng đã đề cập đến vấn đề này một cách hết sức mạnh mẽ.
Cuộc hành trình thứ hai đưa ngài tới các cộng đoàn đã được thành lập. Ngài nằm mộng được mời gọi tới Ma-xê-đoan. Ở đó ngài đem Tin Mừng cho các thành phố thuộc Phi-lip-phê (người gửi tới đó một bức thư, gửi Thê-xa-lô-ni-ca hai thư; người gặp thất bại ở thành phố A-then-thủ đô nước Hy-lạp, rồi ngài gửi tới Cô-rin-tô nhiều thư). Tại đây ngài bị đưa ra tòa tổng trấn Ga-li-ô.
Cuộc hành trình thứ ba đưa ngài tới Ê-phê-sô, ngài ở đó hai năm. Nhưng cộng đoàn Do thái gây nên một cuộc bạo loạn và Thánh Phao-lô phải chạy trốn. Ngài quay trở lại Hy-lạp rồi về Troas (ở Thổ Nhĩ Kỳ) rồi đến Milles, nơi ngài có cuộc từ giã cảm động với các kỳ lão thành Ê-phê-sô. Mặc dù đã được cảnh báo, nhưng ngài vẫn trở về Giê-ru-sa-lem để thực hiện một cuộc khấn hứa. Ngài bị bắt tại đền thờ và bị đưa ra trước tòa viên tổng trấn Rô-ma. Sau một dãy những diễn biến để thoát khỏi tay người Do thái dọa giết chết, ngài bị giải tới hoàng đế Rô-ma để xét xử (vì ngài là công dân La-mã). Sau mấy năm bị tù ở Xê-da-rê, ngài được gửi về Rô-ma và sống một thời gian bị cầm cố tại nhà. Ngài bị chém đầu vào năm 64 hay 67.
“TIN MỪNG” CỦA THÁNH PHAO-LÔ
Cuộc ngã ngựa ở Damas gây ấn tượng sâu sắc tới Thánh Phao-lô, đó là nguồn suối thần học của ngài về nhiệm thể Chúa Ki-tô gồm tất cả mọi Ki-tô hữu.
Quả vậy, ngài không còn bách hại Chúa Giê-su đã chết mà bách hại các môn đệ. Bởi vì Chúa Giê-su đã nói với ngài “tại sao ngươi bắt bớ ta?”. Người Kitô và Chúa Ki-tô chỉ là một: “anh em là thân thể của Chúa Ki-tô mà mỗi người tùy theo bộ phận của mình, là một trong những chi thể của Người” (1 Cr 12,27).
Sau khi đã rao giảng thất bại ở Athen, Thánh Phao-lô không còn muốn biết điều gì khác ngoài Chúa Ki-tô, Đấng Thiên Sai bị đóng đinh: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Thiên Sai bị đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do thái, là điên dại đối với dân ngoại. Song đối với người được gọi, là sức mạnh của Thiên Chúa”. (1 Cr 2,13-14).
Một trung tâm nữa trong “Tin Mừng” của Thánh Phao-lô là con người không thể được cứu độ do nỗ lực riêng nhưng do ân huệ của Thiên Chúa nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Cứu Độ trong sự chết và sự sống lại của Người. Đó là tại sao ngài từ chối phép cắt bì vì từ đây chỉ có Phép Thánh Tẩy mới đưa ta vào thân thể Chúa Ki-tô. “Nhờ phép Thánh Tẩy trong cái chết của Người, chúng ta đã được mai táng với Người, để như Đức Ki-tô từ trong kẻ chết sống lại nhờ vào vinh quang của Thiên Chúa, chúng ta cũng sống một đời sống mới như vậy” (Rm 6,4). Người Ki-tô sống một đời sống tốt lành không phải là được cứu độ vì chưng họ đã được cứu độ rồi.
Trên đây là những điều sơ yếu phải học hỏi về Thánh Phao-lô, còn các linh mục và tu sĩ nam nữ còn được kêu mời nghiên cứu sâu sắc hơn về ngài. Tòa Giám mục Thái Bình giới thiệu tập bài giảng của Đức cha giáo phận đã dùng để làm tĩnh tâm năm 2001-2002 tại Thái Bình với tựa đề “Con đường giác ngộ” có in trong Giáo Huấn Mục Vụ nói với các linh mục và nam nữ tu sĩ (trang 467-636) hoặc hai tập in rời 1 và 2 cùng tựa đề “Con đường giác ngộ” (có ở nhà sách Tòa Giám mục).
Đến đây, một lần nữa Tòa Giám mục khuyên mọi đấng bậc và mọi người trong cộng đoàn chú trọng Năm Thánh Phao-lô để canh tân chính mình, nhất là đem lại sự hiệp nhất cho toàn thể Giáo Hội toàn cầu, cho Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận Thái Bình nói riêng như mục đích của Đức thánh cha đã đề ra. Nên tham dự các lễ nghi ở các xứ họ đã được chỉ định để lĩnh Ơn Toàn xá. Sau này sẽ có các Thông cáo để giúp mọi người sốt sáng sống đạo.
Thái Bình, ngày 12 tháng 7 năm 2008