Tôi yêu sứ vụ Tông Đồ các dân ngoại của Thánh Phaolô!

Rất nhiều lý do làm tôi yêu thánh Phaolô. Tiếp theo các số báo trước tôi xin chia sẻ với quý anh chị tâm tình của tôi đối với thánh bổn mạng của Phong trào Cursillo của chúng ta: Hai bài trước được đề cập đến lòng nhiệt thành, ơn trở lại và Tình Huynh Đệ của thánh nhân

Hôm nay tôi xin chia sẻ với quý anh chị vì sao tôi yêu sứ vụ Tông Đồ các Dân Ngoại của ngài.

Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, thật vậy trong đầu thế kỷ thứ nhất rao giảng Tin Mừng cho dân Do Thái ở hai bên bờ sông Jourdain, mặc dù đâu đây còn vẳng nghe những điều lạ truyền lại về Chúa Giêsu, đã không phải dể, mà rao giảng Tin Mừng ở những phương trời xa lạ lại là một điều vô cùng khó khăn và phức tạp. Hãy liên tưởng tới những phương tiện giao thông và truyền thông thời ấy, những khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, văn minh và tín ngưởng của những dân tộc chưa hề được mặc khải qua Cựu Ước hằng nghìn năm trước như dân Do Thái.

Vì không đủ kiến thức, tôi lại càng không dám tìm hiểu tới những chặng đường gian khó nào đã qua từ những bài giảng đầu tiên của thánh Phao-lô trong các thánh đường miền Trung Đông cho tới đất nước tôi để sanh ra hoa trái phì nhiêu ngày nay như những ngôi sao sáng ngời trong việc tuyên xưng đức tin can trường của các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Nếu ta liên tưởng tới các lực sĩ chạy truyền đuốc lửa tượng trưng tinh thần thể thao đem tới khắp nơi trên hoàn cầu, thì đây thánh Phao lô là lực sỉ đầu tiên cầm đuốc ấy. Vừa là lực sĩ vừa là nhà tổ chức độc đáo nhất của cuộc thế vận hội truyền lửa thiêng này. Ngọn lửa ấy đã bùng lên rực rỡ khắp nơi cho muôn dân và đã gieo vào đất nước tôi, linh hồn tôi, vì lẽ tất nhiên: «Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú . » (Tv 33 (32): 6).

Cuộc đời rao giảng của ngài có lắm lúc phải gian truân, nằm gai nếm mật, để rồi được như Thày mình hiến cả mạng sống để làm chứng cho niềm tin. Ngài còn ghi lại trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân bắt buộc phải khen mình để phân biệc với những tông đồ giả: ". .. tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi!26 Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!" ( (2Co 11: 23-27)

Tuy vậy cuộc đời của thánh nhân luôn luôn gắn liền với loại dân « báng bổ, nghịch đạo » là những tĩnh từ khinh miệt gán cho các dân ngoại của dân Do Thái thời ấy. Ngài luôn bền đổ trong sứ vụ được mặc khải sau khi nhận ơn trở lại trên đường Damas "4 Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô." ( Rm 1: 4-6)

Thánh Quan Thày chúng ta có một đặc sủng huyền diệu loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại cho dân Do Thái cũng như dân ngoại, đìều nghịch lý này mặc dù làm đảo lộn mọi ý thức hệ của quần chúng hoặc của mọi tầng lớp trí thức và tôn giáo thời ấy: " thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ." ( 1Co 1,23)

Tuy ngài chưa bao giờ được sống với Chúa Giêsu như các Tông Đồ khác, ngài vẫn được công nhận và yêu thương với một tình huynh đệ chân thành, đặc biệt là các thánh Phêrô, Gia Cô Bê và Gioan. Tình huynh đệ này đã sinh nhiều hoa trái trong sứ vụ rao giảng của ngài. Đại hội ở Giê-ru-sa-lem: "Rồi sau mười bốn năm, tôi lại lên Giê-ru-sa-lem một lần nữa cùng với ông Ba-na-ba; tôi cũng đem theo anh Ti-tô đi với tôi. Tôi lên đó vì được Thiên Chúa mặc khải, và đã trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân ngoại, -cách riêng cho các vị có thế giá-, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích" ( Gl 2: 1-2)

Tuy nhiên, ngài xác tín rằng đây là sứ vụ do Thiên Chúa trao ban chứ không do sự phân chia công tác của các anh em: "Thật vậy, Đấng đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại. Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì." ( Gl 2: 8-9)

Vì thế có những lúc ngài không ngần ngại « sửa sai huynh đệ » khi nhận thấy anh em đi sai với chân lý của Tin Mừng. Khi thánh Phêrô, vì sợ dị nghị của bọn người Do Thái quá khích đích thân tới An-Ti-ô-Khi-a có ý định tố cáo vị lãnh tụ hội thánh đã ngồi chung bàn ăn với dân ngoại thì thánh Phêrô khước từ không ngồi ăn chung như lúc mới đầu khi đến kinh lý vùng này: "Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ. Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái? " (Gl 2: 12-14)

Hẳn anh em mình còn nhớ khi xưa Chúa cũng đã trả lời khi Ngài bị trách dùng bửa với những người tội lỗi: "Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.( Mt 9: 12)

Tuy vậy thánh Phao lô luôn luôn tuyên xưng sự bình đẳng tuyệt đối giữa dân Do Thái và dân ngoại: bình đẳng trong Ơn Cứu Độ, bình đẳng trong những trói buộc khi phạm tội: "Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin" ( Rm 3: 29-30)

-Tôi thiết nghĩ ngài đích thật là một chiến sĩ bảo vệ « Chân Lý của Tin Mừng », người đi trước kẻ đến sau, tôi đạo dòng anh đạo mới, tất cả đều được Chúa trả công như vị chủ vườn nho kia trong Tin Mừng theo thánh Mathêu: "Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền.( Mt 20: 9-10).