Vợ Chồng Tùng Phục Nhau và Tự Hiến Cho Nhau Nhìn trong Ánh Sáng Mầu Nhiệm Tam Vị (3)
Dẫn Nhập
Cô cháu gái nói với tôi nhân lúc sửa soạn bài đọc lễ cưới: “Cậu chọn bài đọc nào cũng được, nhưng nhớ đừng lấy cái bài có câu Thánh Phaolô bảo rằng ‘Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Thiên Chúa.’” Tôi hỏi: “Tại sao vậy?” “Cậu không thấy như vậy là tiếp tay cho lối sống ‘chồng chúa, vợ tôi’ sao? Thời giải phóng phụ nữ mà ăn nói kiểu ấy thì làm sao nghe được?” Tôi chống chế theo kiểu con nhà có đạo gốc: “Tại cháu chưa hiểu đó thôi, đến như Chúa Giêsu mà cũng còn phục tùng Chúa Cha nữa cơ mà.”
Bẵng đi một thời gian, tình cờ đọc được bài viết của John S. Grabowski Ph.D., giáo sư thần học tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ (CUA) mang tựa đề ‘Mutual Submission and Trinitarian Self-Giving’ tôi mới thấy rõ được câu trả lời chính xác cho thắc mắc của cô cháu gái, và có lẽ cũng là của nhiều người có quan điểm tương tự.
Tính nguyên thủy
Nhưng ‘tính nguyên thủy’ này là gì? Có nhiều cách để trả lời cho câu hỏi này. (1) Có thể trả lời “từ bên dưới” nghĩa là tập trung vào những đặc trưng tính dục của thân xác con người. (2) Cũng có thể dùng cách ngoại suy các phẩm chất biệt loại của dục tính ra khỏi hành vi giao hợp và sinh sản. Đã thấy có nhiều vấn đề nẩy sinh từ cách trả lời thứ (2) này. Trong khi đó có vẻ như cách thứ nhất (tập trung vào các chiều kích tính dục của thân xác) đã được Đức Gioan Phaolô II đề nghị khi ngài đề cập đến ý nghĩa “hôn phối” của thân xác và nhấn mạnh đến những dị biệt về thể lý lẫn cá tính giữa hai phái tính xét như nền tảng của lời mời gọi hai bên tiến đến việc hiệp thông. Tuy nhiên, việc Đức Cố Giáo Hoàng ‘chăm chút’ riêng phần nhân học Kitô giáo trong ‘Gaudium et Spes,’ theo đó “Đức Kitô…mạc khải trọn vẹn con người cho chính con người và dọi sáng vào tiếng gọi vươn lên cao nhất của con người” đã gây cho ta cái ấn tượng là nếu trả lời theo kiểu “từ trên cao” thì có lẽ sẽ có hiệu quả hơn.
Chúng ta đã ghi nhận cách Đức Gioan Phaolô II quy hướng về Tam Vị để có thể hiểu được cái ngài goị là hiệp thông ngôi vị vốn ảnh hưởng đến tình yêu hôn nhân. Thế nhưng chính việc tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. Gen 1:27) cũng phản ảnh một chút gì đó về cộng đồng Tam Vị thần linh. Điều này không nhất thiết có nghĩa là, ở nơi Thiên Chúa, có những dị biệt tính dục ‘per se’ (tự thân). Tự bản chất thần linh của một hữu thể thiêng liêng, Thiên Chúa vượt lên trên dục tính thể lý (x.MD số 8). Nhưng không giống như các thần linh ngoại giáo mà những lân bang của Israel đã tôn thờ, hành vi tạo dựng đầy tự do của Thiên Chúa, trong nhiều truyền thống Cựu Ưóc, thì được phân biệt rất rõ với việc sản sinh theo tính dục.
Tuy vậy, rõ ràng là chính Kinh thánh cũng sử dụng hình ảnh giống đực và giống cái để mô tả tình yêu và hành động của Chúa trong cuộc sáng tạo. Điều này khiến cho một vài người đi đến kết luận rằng cách thức tốt nhất để mô tả Thiên Chúa và trình thuật sáng tạo người nam và người nữ theo hình ảnh ngài chính là dùng những từ ngữ không phân biệt nam nữ để nói về Thiên Chúa. Nhưng quan điểm này cũng phải đối đầu với những vấn nạn quan trọng. Lý do là nó đã bỏ sót sự kiện là phần lớn Kinh thánh đều sử dụng hình ảnh của người nam, tức giống đực. Hơn nữa, việc Kinh thánh xác định Chúa Cha và Chúa Con không hề mang tính chất độc đoán, xét về cả phương diện chú giải lẫn thần học. Sau hết, khi mô tả việc sáng tạo như là công trình sinh sản của một mẫu thần là ta đã hoá giải một cách tuyệt vọng tính siêu việt của Thiên Chúa vượt trên tạo vật vốn bảo đảm cho tính nội tại dư tràn của ngài. Như vậy, xem chừng như sẽ gặp rất nhiều vấn đề nếu ta muốn cố gắng phác hoạ Thiên Chúa bằng ngôn ngữ giống cái một cách không phân minh nhằm đạt tới một khái niệm trừu tượng về phái tính trên bình diện vũ trụ.
Tuy nhiên, tưởng cũng là chính xác nếu ta bảo rằng Kinh thánh có sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ giống cái để nói về Thiên Chúa. Có một vài bằng chứng trong Tân Ước cũng như trong tác phẩm của các Giáo Phụ (nhất là trong truyền thống Syria) vốn áp dụng hình ảnh này một cách đặc biệt vào Ngôi Vị Thánh Thần. Điều này đã khiến nhiều nhà tư tưởng thuộc nhiều khuynh hướng thần học khác nhau đã mô tả Chúa Thánh Thần bằng những hạn từ thuộc nữ giới và mẫu giới hoặc nhìn Chúa Thánh Thần như là ‘nơi’ trong Tam Vị chứa đựng các phẩm chất này.
Đức Gioan Phaolô đã bộc lộ ý thức của ngài về sự kiện vừa nói qua đoạn văn sau đây: “Trong kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa, phụ nữ chính là nơi đâm rễ đầu tiên của trật tự tình yêu trong thế giới con người thụ tạo. Trật tự tình yêu thuộc về đời sống thân mật của chính Thiên Chúa, đó là đời sống Tam Vị. Trong đời sống thân mật của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần chính là hiện thân ngôi hiệp của tình yêu. Qua Chúa Thánh Thần, vốn là Quà Tặng Không Hề Được Tạo Dựng, tình yêu đã trở thành một món quà trao gửi đến những ngôi vị được tạo thành” (MD số 29).
Qua bản văn này, cũng như qua việc nhấn mạnh rằng “phẩm giá của phụ nữ được đo lường bằng trật tự tình yêu, Đức Gioan Phaolô II đã gợi lại lời nói của Đức Piô XI liên quan đến ưu quyền của phụ nữ trong trật tự tình yêu. Ưu quyền này lại được hỗ trợ bởi quan điểm thần học Tam Vị cổ điển của Tây phương vốn nhìn Chúa Thánh Thần như là hiện thân của tình yêu tự hiến hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chính bởi vì Chúa Thánh Thần là sợi dây tình yêu và hiệp thông trong đời sống Tam Vị, thế nên ta có thể nghĩ rằng phụ nữ, một cách loại suy, cũng phản ảnh và sở hữu cùng các phẩm tính ấy để nuôi dưỡng và nâng đỡ tình hiệp thông giữa gia đình và hôn nhân. Cũng có thể thêm rằng nếu Chuá Thánh Thần lấy tình yêu vô biên mà đổ chan hoà các bể chứa trong đời sống Tam Vị, thì nữ tính nhân loại cũng bộc lộ một hình thái nội tâm đặc loại—đó là nội tâm tính hiển nhiên nhất thể hiện qua mẫu tính (x. MD số 19, 21).
Một cách thức khác để nối kết các phẩm tính của Ngôi Ba Thiên Chúa với các phẩm tính biểu tỏ trong nữ tính nhân loại chính là qua con người của Đức Maria. Đức Gioan Phaolô II đã nói thế này về Mẹ: “Bằng một cách thức trọn vẹn nhất và trực tiếp nhất, Mẹ chính là biểu tượng của mối liên kết thân mật của trật tự tình yêu—vốn đi vào đời người qua một người Nữ--với Chúa Thánh Thần. Trong ngày Truyền Tin, Mẹ nghe thấy những lời này: ‘Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà’ (Lk 1:35). (MD số 29)
Cùng với Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria làm cho Đức Kitô hiện diện trong thế giới qua việc Nhập Thể--mẫu tính của Mẹ như thế là nằm ‘trong Chúa Thánh Thần.’ Việc Mẹ vâng phục trong đức tin và phó thác bản thân cho Thiên Chúa đã đem lại kết quả không những cho việc Con Thiên Chúa giáng sinh, mà còn cho tất cả mọi người tín hữu nữa. Một khía cạnh của kết quả này chính là cách thức Mẹ phục vụ như là mẫu mực của các dạng tình yêu tự hiến mang nét nữ tính độc đáo cả trong ơn gọi làm mẹ lẫn ơn gọi thánh hiến đồng trinh (x. MD số 4). Hơn nữa, việc Mẹ sẵn sàng chấp nhận đời sống quy hướng về mối hiệp thông giữa người phụ nữ và người con sắp chào đời của mình đã bộc lộ toàn thể nhân cách của Mẹ. Chính khuynh hướng mang nặng mẫu tính này đã lý giải tại sao phụ nữ thường có xu hướng quy về con người nhiều hơn so với cánh đàn ông (MD số 18).
Xem thế, không thể nói như một số người cho rằng việc Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh đến đức đồng trinh và mẫu tính trong ơn gọi của người phụ nữ chỉ thuần túy là định kiến về phái tính. Đúng hơn, phải nói rằng đây chính là một phần của một nền nhân học Tam Vị rộng lớn hơn. Cả nam lẫn nữ, dù mang những hình thái dị biệt riêng cho phái tính của mình như thế nào chăng nữa, cũng đều phải biết cho đi bản thân mình thì mới đạt tới mức thành toàn. Quả vậy, theo Gaudium et Spes, số 24, thì đây là định nghĩa của nhân vị: “Giữa mọi tạo vật trong thế giới hữu hình, con người—dù nam hay nữ--chính là hữu thể duy nhất mà Thiên Chúa Hóa Công ‘đã muốn tạo nên vì chính nó;’ có nghĩa nó là một nhân vị. Là một nhân vị chính là nỗ lực tiến đến mức tự thành toàn…điều chỉ có thể thực hiện được ‘qua việc chân thành tự hiến.’ Mẫu mực của cách lý giải này về nhân vị chính là Thiên Chúa Tam Vị, xét như một hiệp thông Ngôi vị (MD số 7).
Trong trường hợp nữ giới, tính cách nhân vị này chính là phản ánh mang tính thụ tạo của Chúa Thánh Thần xét như mối liên kết tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con với Đấng mà qua Ngài, tình yêu này được giáng sinh vào đời.
Như vậy, ‘tính nguyên thủy’ nơi con người là gì? Ở đây, tư tưởng của Đức Gioan Phaolô II dù mang nét bao quát, nhưng khởi điểm của câu trả lời vẫn đến “từ trên cao.” Từ muôn thuở, Chúa Cha sinh ra Chúa Con đồng bản thể với Ngài trong một hành vi tình yêu siêu vượt trên cách sinh sản thể lý, nhưng đồng thời lại mang nét tương tự như thế--hiểu theo cách loại suy (x. Eph 3:14-15; MD số 8). Vì thế, trong sự hiệp thông Tam Vị, Chúa Cha mang phẩm tính của nguồn gốc và sự khai sinh đời sống. Phẩm tính này được Chúa Con chia sẻ trong nhiệm cục cứu độ khi được phép trở thành “trưởng tử giữa nhiều anh em” Rom 8:29; x. Heb1:2-3; 2:10-13) nghĩa là khi ngài đảm nhận vai trò của người cha trong lòng Hội thánh bằng cách trở nên nguồn mạch sự sống.
Quả là có một số tác giả đã nói đến một loại “siêu nữ tính” nơi Ngôi vị của Chúa Con trong Tam Vị trong mức độ là, giống như Chúa Thánh Thần, ngài nhận lấy từ Chúa Cha đời sống và hữu thể. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng, theo một nghĩa nào đó, ngay Chúa Cha cũng mang tính cách thụ nhận, do bởi ngài, tự muôn thuở, đã “lãnh nhận” phụ tính của mình từ Chúa Con đồng bản thể với mình. Tất cả những điều trên cảnh báo chúng ta coi chừng một lối dễ dãi khi xác định tính thụ nhận và nữ tính. Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi đều mang tính thụ nhận, cho dù theo cách thức và mức độ khác nhau. Vì vậy, chỉ nguyên yếu tố này mà thôi thì chưa đủ tiêu chuẩn để áp đặt nữ tính và hình ảnh vật chất cho các ngài.
Tất nhiên là trong đời sống Tam Vị cũng có trật tự, thế nhưng cần phải hiểu cho đúng. Ưu tính của Chúa Cha xét như nguồn mạch đời sống Tam Vị, hay ‘tính cách làm đầu’ của ngài (x. 1Cor 11:3), không hề làm sai lệch hoặc làm hư hoại thiên tính và bình đẳng tính trọn vẹn của Chúa Cha hoặc Chúa Thánh Thần. Lý giải khác đi tức là sẽ rơi vào một hình thức của chủ thuyết lệ thuộc. Hiểu vậy, ưu tính của Chúa Cha trong việc ban phát đời sống không thể được hiểu là uy quyền hay thống lĩnh quyền, mà phải hiểu là lòng quảng đại bao dung. Bởi thế, kế hoạch cứu độ của Chúa Cha chính là nhằm tạo dựng một dân tộc dưới quyền thủ lãnh của Chúa Con để tôn vinh ngài (x. Eph 1:3-10). Nam tính nhân loại, nhất là trong phụ tính sinh học hoặc trong lối sống tự hiến tu trì độc thân, đều phản ảnh phẩm tính này, hiểu theo cách loại suy. Do đó, có thể tìm thấy một chút gì đó thuộc về ‘tính nguyên thủy’ của người nam trong nỗ lực cho đi và bảo vệ sự sống một cách quảng đại và đầy sáng tạo.
Việc vợ chồng tùng phục nhau trong hôn nhân theo mô tả của Đức Gioan Phaolô II thì diễn tiến, không phải ở bên ngoài, mà là ở chính bên trong toàn thể phạm vi của những dị biệt sinh học, tâm lý và cá nhân. Nó cũng không hề loại trừ một trật tự nào đó nằm trong tương quan này, vốn vừa tương ứng với các dị biệt này, lại vừa tương ứng, theo kiểu loại suy, với ‘ordo’ (trật tự) Tam Vị. Theo nghĩa này, nền nhân học khơi nguồn “từ trên cao” có thể được xác nhận nhờ những dị biệt tâm lý và thể lý giữa hai phái tính, điều mà Đức Gioan Phaolô II gọi là “ý nghĩa hôn phối của thân xác.”
Thế nhưng các dị biệt cá nhân bất khả giản lược này mở ra cho nghe thấy một tiếng gọi hiệp thông ngay trong lòng bản chất con người được chia sẻ và một phẩm giá bình đẳng. Ngay trên dòng hiệp thông này, ta thấy được tính hiệp nhất của tình yêu đang càng ngày càng gia tăng nhịp hài hoà của tác động trở nên ‘một thịt một xương’ trong hôn nhân, vốn phản ảnh sự kết hiệp ‘ad intra’ (nội tại) của Ba Ngôi cũng như tác động nhất trí của Ba Ngôi trong nhiệm cục cứu độ. Như thế, nền tảng chân thực nơi lối hiểu mới mẻ của Đức Gioan Phaolô II về tương quan vợ chồng trong hôn nhân Kitô giáo chính là nền nhân học Tam Vị vậy.
(còn tiếp một kỳ)